Người điên
Ngày ấy hắn là một thanh niên hiền
lành, ít nói. Mồ côi cha mẹ từ bé,
hắn được người chị duy nhất nuôi
nấng, chăm sóc đến năm hắn mười
sáu tuổi thì chị theo chồng về làng
bên. Hắn chăm chỉ làm lụng, lễ
phép với mọi người và bà con láng
giềng ai cũng thương mến hắn vì
tính thật thà, chịu khó. Mặc dù ít
tuổi, hắn một mình đảm đương cả
cơ ngơi ông bà để lại và trồng tỉa
quanh năm ruộng vườn của gia
đình. Mọi người đều khen hắn là
một thanh niên có nề nếp và cho
rằng giòng họ nhà ấy tốt phúc.
Bỗng dưng một hôm năm hắn ngoài
hai mươi tuổi, làng có cơn cháy lớn.
Đó là một đêm kinh hoàng của mọi
gia đình. và mỗi khi nhắc lại, ai ai
cũng không khỏi rợn người khi nhớ
đến cảnh tàn khốc của cơn hỏa
hoạn.
Đêm hôm ấy làng có buổi hát chèo,
mọi người xúm xít quanh đình làng
từ xế chiều, không nhà nào không
có người đi xem. Gánh hát chèo nổi
tiếng từ thành phố về, ai nấy háo
hức đi xem tuồng mới và những đào
hát đẹp nổi tiếng. Đang giữa buổi
diễn, bỗng có kẻ phá hoại châm lửa
đốt những tấm bình phong và
những bức màn rủ hai bên sân
khấu. Mọi người hoảng hốt tranh
nhau tháo chạy ra khỏi đình làng.
Nhưng vì chỉ có ba lối ra vào, một
cửa lớn và hai cửa ngạch nhỏ mà
đình làng nghẹt kín hàng nghìn
người, mọi người càng cố giẫm đạp,
xô đẩy nhau trong làn khói dày đặc,
sặc sụa, lối ra vào càng ứ nghẽn.
Ngọn lửa bốc cao ngùn ngụt, nhanh
chóng phủ dày cả đình làng. Những
trụ gỗ phết dầu, những vải vóc,
phông màn... càng giúp thêm ngọn
lửa hừng hực. Những người bên
ngoài cố dập nhưng vô hiệu. Bao
nhiêu bàn, ghế, vật dụng và những
vật trưng bày bằng gỗ lâu năm
trong đình làng trở thành mồi lửa
đắc lực cho đám cháy. Tiếng kêu
gào, khóc lóc, những người thoát ra
được cuống cuồng đi tìm thân nhân
và trong cảnh hỗn độn, kinh hoàng
ấy, việc giải cứu cho những người
còn sót lại càng thêm khó khăn.
Đến nhiều giờ đồng hồ sau, có lẽ
đến tảng sáng, khi ngọn lửa thấp
dần, người ta mới bắt đầu điểm lại
những người thất lạc trong đám
cháy. Có đến cả trăm người mất
mạng đêm hôm ấy. Sáng hôm sau,
khi ngọn lửa đã tắt hẳn, mọi người
xúm quanh mang ra những xác
người cháy đen, rúm ró. Cả làng
chìm trong cảnh đau thương, tang
tóc. Không ai còn tâm trí để lưu ý
đến những việc xung quanh và hắn
một mình khóc rưng rức sau bụi tre
bên bờ sông.
*
Từ ngày ấy, hắn đâm ra lầm lì, ít
nói, thỉnh thoảng trả lời nhát gừng
hoặc hoàn toàn không ăn nhập gì
đến câu hỏi những người khác đặt
ra. Những người láng giềng quen
biết ái ngại, có người cho rằng hắn
đã phải lòng cô gái nào đó trong số
những người bỏ mạng trong vụ hỏa
hoạn năm ấy. Tuy nhiên, hắn vẫn đi
lại, sinh hoạt bình thường như
trước kia. Cho đến một hôm, sau
buổi họp chợ, hắn uể oải ra về, thơ
thẩn men theo hàng cây trong chiều
nắng xế. Đột nhiên hắn dừng phắt
lại, trân trối nhìn một phụ nữ dáng
còn khá trẻ đang cúi xuống cạnh hai
đứa bé nghỉ chân bên vệ đường.
Mắt hắn sáng lên, môi run run mấp
máy rồi bất thần chạy ào đến níu
chặt áo người phụ nữ.
"Mẹ, mẹ..., mẹ đã về!"
Người phụ nữ hoảng hốt lùi lại,
cuống quýt giằng ra khỏi tay hắn.
Hắn cuống lên, càng bấu chặt tợn
rồi kêu khóc thảm thiết.
"Mẹ ơi, mẹ đừng đi, đừng bỏ con".
Mọi người nghe tiếng huyên náo bu
quanh xem. Hắn phục xuống chân
chị, một tay bấu chặt vạt áo, tay kia
níu lấy đùi chị khóc thảm thiết.
Người phụ nữ tái mặt lắp bắp.
"Cái anh này... buông người ta ra..."
Lũ trẻ vỗ tay chỉ trỏ cười, người lớn
bối rối lắc đầu ái ngại, chẳng ai biết
phải làm thế nào để can ngăn hắn.
May sao có một cụ già quen biết gia
đình hắn đi qua, cụ vội tiến lại rồi
bảo chị.
"Chị thông cảm, cậu ấy mất cả bố
lẫn mẹ trong nạn lũ từ bé, bác gái
lúc mất trạc tuổi chị mà dáng cũng
hao hao giống chị, cậu ấy trông
nhầm đấy!"
Rồi cụ đỡ hắn dậy, ôn tồn bảo.
"Từ từ đã nào, chị ấy không đi đâu
vội mà lo, cháu bình tĩnh nào!"
Hắn còn dụi mắt thút thít khóc
nhưng trông có vẻ đã dịu xuống. Họ
còn đứng đó, ngần ngừ chẳng biết
phải làm gì, ngại hắn lại lên cơn gào
khóc. Mãi sau, hắn bẽn lẽn cúi đầu,
có lẽ hắn đã nhận ra người phụ nữ
ấy không phải là mẹ hắn. Nhưng
không ai biết được hắn nghĩ gì khi
chốc chốc hắn lại đưa mắt nhìn chị
thật trìu mến. Đến lúc mọi người
tản đi và người phụ nữ ấy đưa con
về nhà ở tận đầu làng, hắn vẫn còn
lẽo đẽo đi theo. Hóa ra chị là cháu
duy nhất của cụ Hòa, vừa goá chồng
ở làng xa dời về ở với cụ để đỡ đần
sớm hôm. Từ hôm ấy, thỉnh thoảng
người ta thấy hắn nằm ngủ khoèo
trên vạt cỏ trước ngõ nhà chị và từ
đó, người ta gọi hắn là "thằng
điên"....
Người điên như hắn quả là hiếm có
trên đời. Hắn hiền lành, ít nói,
chẳng làm hại ai bao giờ và là nguồn
tiêu khiển không dứt cho mọi người.
Đã có người nói đùa ước sao được
điên như hắn để mặc sức phát biểu
những điều cấm kỵ, kiêng dè, hay
ngang nhiên làm những điều trái
khoáy mà không hề biết sợ hậu quả.
Riêng đám cường hào ác bá và lũ
bất lương căm hắn khôn xiết vì đã
bị hắn làm mất mặt nhiều lần.
Những điều ngông cuồng hắn làm
thường là đề tài bàn tán và được
truyền kể mãi khiến những kẻ này
khó chịu vô cùng.
Chẳng hạn có lần, giữa trưa đứng
bóng, mụ Tốn, vợ góa của lão Năm
Tốn, phú hộ giàu nhất làng, chuyên
cho vay cắt cổ, đang hăm hở về nhà
sau khi đi một vòng quanh làng thu
nợ. Từ ngày lão mất, mụ càng cho
vay cắt cổ gấp bội và còn giàu hơn
cả trước kia. Mụ đang mãi nghĩ đến
những con nợ đã gặp hôm ấy, có
lúc mụ nhíu mày bực dọc khi nhớ
đến mấy con nợ bần cùng, khất mãi
chẳng trả được mà của cải toàn thứ
ọp ẹp chả có thứ gì đáng để tước
đoạt, có lúc mụ tươi mặt đắc ý khi
nhớ đến mấy món bở mụ đoạt được
từ mấy nhà khá giả trước đây nay
lâm cảnh túng bấn. Đột nhiên hắn
nhảy xổ ra từ sau bụi tre, thét
toáng lên.
"Bà phù thủy!".
Mụ giật thót mình, suýt thét lên và
chưa kịp hoàn hồn thì hắn đã huyên
thuyên.
"Bà phù thủy, xin bà làm ơn chỉ
giúp tôi bà đã dùng ma thuật nào để
dụ dỗ tiền của thiên hạ về nhà
nhiều thế?"
Mụ vừa giận vừa thẹn tím mặt
nhưng chẳng tìm được lời nào để
trả đũa hắn. Vả lại, tranh cãi với
thằng điên thì chỉ tổ tốn hơi. Mụ rít
lên qua kẽ răng.
"Đồ điên!"
Rồi mụ vội vã đi thẳng. Hắn còn gọi
với theo.
"Tôi van bà, nếu bà chỉ giúp, tôi xin
chia cho bà phần hơn..."
Những người ở quanh đấy và những
người vô tình đi qua trông thấy ôm
bụng cười rũ. Hắn ngang nhiên đi
theo sau mụ một đoạn, vừa hoa tay
múa chân, vừa làm điệu bộ hoạnh
hoẹ hệt như mụ lúc bắt nạt con nợ.
Từ ngày ấy, mọi người gọi mụ là "bà
phù thuỷ" và dù căm tức thấu
xương, mụ chả biết làm cách nào để
trị hắn.
Mặc dù lầm lì, ít trò chuyện với
những người xung quanh nhưng
chẳng hiểu sao hắn biết được nhiều
điều xảy ra trong làng, và thường là
người khuấy động, gây chú ý đến
những chuyện chướng tai gai mắt.
Chẳng hạn như việc cô Lệ, con gái
út của ông bà giáo, từ ngày bố mẹ
mất, cô bị gia đình ép gả cho ông
Huyện để được ấm thân. Cô còn
trẻ, xinh đẹp, giỏi giang nay phải
chịu luồn cúi nhà chồng và bị các
bà vợ lớn chèn ép, đay nghiến thật
khổ sở. Một hôm, hắn vô tình trông
thấy cô ngoài chợ, thế là hắn chạy
theo cô, rồi bảo.
"Này cô, cô làm ơn đổi đời cho tôi
nhé! Cho tôi làm vợ ông Huyện một
bữa, tôi sẽ dần cho lão già nhà cô
một mẻ, còn cô thì mặc sức bay
nhảy, thích nhé!"
Cô Lệ mặt đỏ bừng, cắm cúi đi. Các
bà các cô chụm đầu xì xào.
"Có lẽ hắn vờ điên để mắng khéo
thiên hạ".
Nhưng quả là hắn điên thật. Có hôm
trời nắng đổ lửa, mọi người rên xiết
dưới cái nóng thiêu đốt, ai nấy cố
làm cho xong sớm việc đồng áng để
tránh cái nắng trưa gay gắt. Thế mà
hắn cứ ngồi lì hàng giờ bên bờ lạch,
chốc chốc lại cắt tóc thả xuống
nước. Những người đi qua ái ngại,
khuyên hắn hãy dừng tay đi tránh
cái nắng trưa. Hắn lắc đầu quầy
quậy.
"Không được, tôi phải ở lại đã. Làng
mình nghèo quá, ngay cả cá cũng
trọc đầu. Để tôi cho chúng ít tóc đỡ
nắng".
Và những cái điên của hắn thường
gây cho hắn không ít tai họa. Vào
năm ông Bá bảy mươi tuổi, gia đình
ông làm lễ thất tuần rình rang để
khoe của và mở rộng giao tiếp với
đám quan lại. Mọi người ăn vận
sang trọng và mang quà tặng đến
chúc tụng râm ran. Hắn ngồi ngoài
đầu đình hát vu vơ rồi chửi đổng
một mình.
"Ôi dào, chúc thọ với chả chúc yểu!
Người ăn gan uống máu trẻ con
không cầu cho chết sớm thì chớ,
còn bày vẽ chúc tụng. Tớ thì cái
hạng ấy mang phân tới mừng".
Mấy hôm sau người ta mới thấy lại
hắn. Mặt mũi hắn thâm tím, một
cánh tay bị đánh bong gân treo
cứng đờ bên thân, mắt hắn sưng
húp trông thật đáng thương. Có ai
hỏi, hắn bảo mới đánh nhau với tùy
tùng của Ma Vương, Ma Vương
mang lốt ông Bá.
Lần khác, nhân ngày nộp thuế,
trong lúc cả làng đang lo sốt vó, có
nhà đang lạy lục xin khất thuế, hắn
ở đâu xông vào giữa đình làng lớn
tiếng với ông Nghị.
"Này, ông bảo ông là cha mẹ dân,
sao ông thu thuế cắt cổ thế? Ông có
lắm vợ, bắt bà con nộp sưu cao để
nuôi vợ con, sao ông không bớt đi
vài bà cho mọi người nhờ?".
Ông Nghị giận tím mặt. Mọi người
run sợ, lo cho hắn mang họa vào
thân. Ông Nghị quát lính trói hắn
lại, nện cho hắn một trận tơi bời.
Người hắn máu me, răng cửa gãy
nhưng hắn vẫn không cúi đầu xin
tội. Bà con thương hại hắn ốm đòn
nhưng ai cũng thầm hả hê vì thấy
ông Nghị bị một vố bẽ mặt.
*
Nhưng hầu hết những cái điên của
hắn làm trò cười cho thiên hạ. Đặc
biệt là lũ trẻ con và đám choai choai
thường đi theo hắn xem những trò
ngớ ngẩn hắn làm mỗi khi hắn có
chuyện vui buồn bất chợt. Có lần
đang buổi gặt hái, mọi người dừng
tay khi nghe lũ trẻ hét hò cười ầm ĩ
cả một góc xóm. Không ai bảo ai
nhưng mọi người đều biết hắn lại
bày ra trò gì lố bịch. Mấy thanh
niên gần đấy vội chạy đến xem. Thì
ra hắn cởi quần đội lên đầu phủ cả
mắt đang nhảy nhót giữa lũ trẻ.
Đám lực điền lôi hắn vào bụi tre, đè
hắn rồi lấy quần xuống mặc vào cho
hắn. Một anh lớn tuổi nghiêm mặt
trách hắn.
"Cậu làm trò gì thế? Lũ trẻ con và
bao nhiêu thiếu nữ ở đây, cậu cũng
phải biết điều chứ!"
Hắn bảo.
"Ôi dào, tớ thấy nhiều điều thối quá,
thà đội quần thối lên đầu, ngửi mùi
của mình còn hay hơn!"
Cả đám lăn ra cười nhưng mấy
người lớn tuổi còn răn đe hắn, dặn
hắn không được làm như vậy nữa.
Một lúc sau, hắn im lặng rồi đột
nhiên ôm mặt khóc. Hắn khóc tức
tưởi, thống thiết như cha chết mẹ
chết rồi nằm ngủ khoèo dưới gốc
tre. Thương hại hắn, mọi người kéo
nhau đi nhưng để lại cho hắn mấy
củ khoai luộc.
*
Mặc dù điên, mọi người vẫn nhìn
nhận rằng có lúc hắn cũng tỉnh táo,
sinh hoạt như người bình thường và
lắm lúc những điều hắn nói ngỡ như
là trái khoáy nhưng hóa ra cũng có
lý. Tuy nhiên, không ai dám nhìn
nhận điều này vì chúng có vẻ bạc
bẽo, phũ phàng và chỉ có điên mới
dám phát biểu như thế. Lắm lúc,
những điều hắn nói trái hẳn với đạo
lý, lễ giáo nhưng chúng làm không ít
người phải ngạc nhiên và suy gẫm
về những điều ấy.
Chẳng hạn, có lần hắn đi xem đám
ma lão Đồng nhà họ Lương. Gia
đình ấy giàu có nhiều đời, họ hàng
có người làm quan và mặc dù không
mấy ai ưa gia đình ấy, những người
trong làng cũng thay nhau đi điếu
cho có lễ. Lão Đồng lúc mất đã gần
chín mươi, bị ho lao cả gần chục
năm và là một gánh nặng cho cả gia
đình. Từ ngày ngã bệnh, lão trở nên
cáu bẳn, có lúc hung dữ với cả con
cháu và mọi người quanh lão đều
muốn lánh xa. Tuy nhiên, vì đạo lý
và với tiền của dư dật, con cháu lão
thuê người chăm sóc, thuốc thang
cho lão đầy đủ nên lão mới hưởng
được ngần ấy tuổi thọ.
Ngày đưa ma lão, nhà họ Lương làm
đám rình rang xứng với phong cách
nhà quan. Nào kèn, nào trống, nào
tụng kinh gõ mõ lẫn hát đưa ma. Có
cả một đoàn những người khóc thuê
mặc sức tru tréo kể lể đến là xôm
tụ. Hắn đến xem ra chiều thích thú
rồi đột nhiên bật cười.
"Này, sao lại khóc", hắn bảo một
người khóc thuê "ở đây chả có ai
buồn cả, mọi người đều tươi như
hoa, chả tin cứ nhìn mặt lão Phán
(con lão Đồng). Bố hắn chết mà
trông như mới đi cưới vợ lẽ, cứ kèn
trống ca xướng oang oang. Trút
được gánh nợ, ai chả mừng!"
Rồi hắn cười cười bảo.
"Bà đi khóc thuê lần này chắc kiếm
được khá đấy nhỉ, cũng mừng cho
bà. Cố mà khóc cho đáng tiền nhé,
để chiều còn được cho ăn cỗ nữa.
Quả là một ngày vui cho mọi người,
chả hiểu làm thế nào mà bà vờ khóc
được!".
Rồi hắn cất giọng oang oang hát
theo đám hát đưa ma, mặt hắn
trông hớn hở và điệu bộ vung vẩy
khác hẳn với lời ca bi ai của bài hát.
Những người trong nhà họ Lương
cau mặt khó chịu nhưng không ai
dám xua hắn đi, ngại hắn lại phát
biểu những điều chối tai hay làm
ầm ĩ thì chẳng ra thể thống gì nữa.
Đôi khi người trong làng nhắc nhau
trông chừng hắn vào những dịp có
lễ lạc, đình đám vì không ít nhà bị
hắn quấy rối như nhà họ Lương.
Thông thường, nếu hắn có đi xem lễ
hay phát biểu linh tinh, người tinh ý
hay khéo nói chỉ cần vờ làm khổ hay
nhờ hắn việc gì đó là có thể xua hắn
đi nơi khác. Tuy nhiên, không phải
bao giờ hắn cũng bị lừa và có nhà
đã từng bẽ mặt khi bị hắn oang
oang vạch mặt trước đám đông. Tối
kỵ là những tỵ hiềm, tranh chấp
hoặc những điều những người có
mặt ở đấy phát biểu về nhau sau
lưng bị hắn lôi toẹt ra giữa mọi
người. Và cứ thế, hắn ngang nhiên
mỉa mai, có lúc còn chửi bới, phỉ
nhổ những lễ nghi, phép tắc và
những tập tục xã giao của người
đời. Có người tức điên lên suýt nện
cho hắn, có người xấu hổ muốn đào
đất mà trốn nhưng không ai làm gì
được hắn vì ngại mang tiếng đi gây
gổ với thằng điên. Vì thế, hắn càng
ngông nghênh hơn, ngang nhiên đi
đến bất cứ lễ, tiệc nào hắn thích và
mặc sức làm trò cười cho thiên hạ.
Chẳng hạn, có lần hắn đi xem đám
cưới con trai nhà lão Kiện. Hắn đến
vừa lúc mọi người đang hớn hở,
xúng xính trong áo quần mới chuẩn
bị làm lễ đón dâu. Thoạt đầu, hắn
còn kiễng chân, nghển đầu ngoài
góc rào trông vào, nhưng đột nhiên,
hắn hăng hái tiến vào rồi không ai
mời ai mọc, nghiễm nhiên ngồi vào
một bàn cạnh cửa chính. Người nhà
lão Kiện lo lắng nhìn nhau, chưa ai
biết làm thế nào để xua hắn đi thì
hắn đã cất giọng cười cợt.
"Vui quá nhỉ, thì cũng cố cho được
một ngày như ai chứ mai đây lại
chửi nhau như chó". Rồi hắn tặc
lưỡi, lắc đầu vẻ thương xót. "Lại
thêm một miệng ăn, có cố cũng chả
vui được, không khéo lại vác về của
nợ"
Mụ vợ lão Kiện xanh mặt, đi ra đi
vào không biết làm thế nào để đuổi
khéo hắn, sợ hắn lên cơn làm quấy
thì hỏng cả bữa tiệc, mà lờ hắn
cũng không được vì đã gần đến giờ
rước dâu. Hắn trông chừng cũng
biết thế, cứ thản nhiên ngồi rung
đùi hát nghêu ngao, chốc chốc lại
phát biểu những điều thật chối tai.
Một lát sau, may sao gã con trai
nhỏ nghĩ ra một cách liền rỉ tai mẹ
hắn. Mụ Kiện hớn hở vào nhà ngay
rồi mang ra nào áo gấm, quần lụa,
khăn đóng, giày thêu đến trước mặt
hắn. Rồi mụ cất giọng đon đả mời
hắn vào nhà thay đồ để cùng với
"gia đình" làm tiệc rước dâu. Hắn
đang gật gù theo tiếng nhạc đột
ngột dừng lại rồi trố mắt nhìn mụ
Kiện. Vẻ bối rối lẫn hoang mang
hiện trên mặt hắn, hắn lắc lắc đầu
vẻ không hiểu khiến mụ Kiện phải
nhắc đi nhắc lại mấy bận. Rồi, đột
ngột như khi đến, hắn đứng dậy đi
thẳng không cất thêm lời nào. Mọi
người nhà lão Kiện thở phào nhẹ
nhõm, mụ Kiện thầm tạ ơn ông bà
các bác đã mách nước cho nhà mụ
thoát khỏi một vụ lôi thôi ngày đi
cưới dâu đầu.
*
Đôi khi người trong làng lấy làm
may mắn khi có được một gã điên
như hắn. Không những hắn tạo ra
không ít chuyện đùa cho thiên hạ,
đôi lúc hắn cũng giúp ích được
người khác và điều này khiến những
người trong làng quý hắn và quan
tâm đến hắn. Những lúc như thế,
những người lớn tuổi thường nhắc
nhau về bố mẹ, ông bà hắn là
những người hiền đức và tiếc cho
hắn đã không may mất trí. Nhưng
cũng có lúc họ tranh cãi nhau rằng
hắn không thật sự mất trí vì những
điều hắn nói, hắn làm thường chuẩn
xác mặc dù rất ngông cuồng. Nhưng
có người không đồng ý vì rõ là điên
mới làm những điều như thế, bằng
chứng là mới vài hôm trước hắn lại
làm cả làng xôn xao vì cái điên của
mình.
Hôm ấy cả làng tập trung gặt hái và
đập lúa cho đến xẩm tối nhân dịp
có trăng. Ngoại trừ người lớn tuổi
và trẻ em, đa số thanh niên và
những người có sức vẫn còn ngoài
đồng, chỉ có lác đác dăm ba nhóm
cắt lúa đang trên đường về nhà. Đột
nhiên từ hướng đầu làng có tiếng
lao xao, rồi tiếng chân chạy vội
đến, tiếng kêu gọi nháo nhác trong
bóng tối nhập nhoạng khiến những
người quanh đấy lo lắng không biết
điều gì đã xảy ra. Những người
không bị vướng bận vội chạy đến
nơi đám đông đang tụ tập quanh
gốc vú sữa cạnh miếu thờ. Tiếng kêu
cứu của một thằng bé trai vọng
xuống đâu đó từ trên cây vú sữa
làm những người dưới đất nhốn
nháo.
"Bố ơi bố..., cứu con với..., con
không dám xuống..."
Nó kêu khóc ngày một khẩn thiết.
Thỉnh thoảng, tiếng cành cây gãy
răng rắc, lá rơi lào xào và tiếng nó
thét lên cho hay nó đang cuống lên
và làm gãy những cành xung quanh.
Những người quanh đấy lo sốt vó
nhưng chẳng ai dám trèo lên mang
nó xuống. Có ai đó cho hay nó là cu
Tín con anh Nhân nhà ở cạnh đấy,
bố nó đã đi chợ huyện hôm sau mới
về, mẹ nó vừa hay tin hớt hải từ
ngoài đồng chạy về đang cuống lên
vì sợ. Chị vừa cố ghìm nước mắt
vừa lắp bắp bảo con.
"Con... con cố lên nào, từ từ tụt
xuống, cứ... cứ... bám vào những
cành to...".
Chị nấc lên, nước mắt ràn rụa. Trời
tối dần, những người tụ tập quanh
đấy ngày càng đông nhưng không ai
dám lên tiếng, chỉ có hai mẹ con
nức nở khóc. Người ta bàn nhau
mang thang đến nhưng cây vú sữa
lâu năm cao bằng hai, ba nóc nhà,
chẳng có thang nào với tới. Vả lại,
tàng lá um tùm không thể nào gác
thang lên thân cây được. Không ai
bảo ai nhưng mọi người đều nghĩ
đến Thân, người đã ngã từ trên cây
vú sữa xuống chết cách đó mấy
chục năm và người ta lập miếu thờ
dưới gốc cây. Từ ngày ấy, không ai
dám trèo lên cây vú sữa mặc dù nó
luôn tươi tốt và chi chít những quả.
Hơn nữa, người ta kháo nhau trước
đây có người trông thấy có đôi rắn
làm tổ trong tàng cây vú sữa um
tùm. Ai cũng biết cho dù giữa ban
ngày chưa chắc có ai dám trèo lên
cây huống hồ trong lúc trời tối thế
này, có thương thằng bé lắm cũng
chịu.
Không ai nhận thấy hắn vừa đến bên
ngoài, đang kiễng chân nghiêng ngó
cố xem điều gì xảy ra dưới gốc cây.
Lúc đã hiểu ra sự việc, hắn lập tức
rẽ đám đông rồi không nói lời nào,
thoăn thoắt trèo lên cây. Mọi người
quanh đấy nín bặt, hồi hộp lắng
nghe tiếng hắn trèo lào xào lên cao
dần. Người mẹ đứa bé níu cánh tay
bạn, người run lên bần bật. Đứa bé
đã thôi kêu gào, chỉ rên khe khẽ và
thút thít khóc. Mãi sau, những
người chờ dưới gốc cây ngỡ như
hàng giờ đã trôi qua, người ta nghe
tiếng cành cây răng rắc, tiếng lá cây
lao xao và tiếng đứa bé xuống thấp
dần. Hắn vẫn không nói một lời nào
khi đã tụt xuống đến cành ngang
cuối cùng, đứa bé bám chặt quanh
cổ hắn. Những người bên dưới đưa
tay đỡ lấy đứa bé đang lịm đi vì sợ.
Người mẹ ôm ghì lấy con nức nở
khóc. Những người quanh đấy ôm
lấy hai mẹ con vỗ về, cánh đàn ông
vỗ vai hắn mến phục, hắn chỉ cắm
cúi đi thẳng.
Từ dạo ấy, những người trong làng
thương mến hắn hơn cả trước kia.
Vốn đã được láng giềng và những
người quen biết gia đình hắn quan
tâm đến, nay hắn còn được bà con
khắp làng ưu ái, san sẻ, chia sớt cho
hắn từ rượu chè, quà bánh đến
chăm sóc lúc trái gió trở trời.
*
Thế rồi một hôm, cụ Khoan đi vớt
cá sớm trông thấy xác hắn. Sau phút
bàng hoàng, cụ trở về làng gọi thêm
người đến giúp mang xác hắn về.
Những người quen biết gia đình hắn
hay tin đến xem. Hắn chết như
người nằm ngủ, mắt mơ màng,
miệng như còn phảng phất nụ cười.
Có người bảo đêm hôm trước trông
thấy hắn kiếm đâu ra lưng chai
rượu, có người thấy hắn ngồi hát
rôm rả ngoài bờ đê. Có lẽ hắn say
quá, ngã xuống sông chết đuối.
Không có thân nhân, những người ở
đấy bàn nhau nên chôn cất hắn
nhanh chóng. Đám tang hắn thật
đơn sơ, người ta nhặt nhạnh mớ áo
quần hắn thường mặc hàng ngày và
dùng chiếc chiếu cũ hắn vẫn thường
nằm quấn xác hắn lại. Đám thanh
niên đào huyệt cho hắn cạnh mộ
ông bà cụ bố mẹ hắn. Đám tang hắn
không kèn, không trống, không
nước mắt nhưng số người đến
quanh mộ hắn đông vô kể. Có người
đến xem vì tò mò, nhưng cũng có
người đến để tiễn đưa hắn lần cuối.
Lúc hạ huyệt, không có người thân,
chỉ có mấy người quen biết với gia
đình hắn đến ném đất vào huyệt.
Thế rồi, không ai bảo ai, những
người có mặt ở đấy lần lượt ném
cho hắn một nắm đất. Cứ thế, từng
người, từng người một, đến khi
đoàn người chấm dứt, mộ của hắn
cao như một ổ mối, cao hơn bất cứ
một cái mả nào từng thấy từ trước
đến nay.
Rồi mọi người kéo nhau ra về,
không khí đột nhiên im lặng, chùng
xuống. Không ai bảo ai nhưng mọi
người đều cùng chung một ý nghĩ.
Thế là hết, từ nay làng này mất đi
một người. Không còn nữa những
đêm ồn ào, bát nháo, chó sủa râm
ran đuổi theo hắn cười nói oang
oang một mình; không còn nghe
thấy những lời châm chọc điên
khùng mà chí lý khiến mọi người hả
dạ. Không còn nữa những niềm vui,
nỗi buồn của người điên để giúp vui
cho những người xung quanh. Làng
của họ từ nay sẽ chìm trong im lìm,
chỉ còn có lo toan, nhọc nhằn, và
người điên trở thành huyền thoại
mọi người còn nhắc đến và kể mãi
cho nhau nghe cho đến tận đời sau.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com