Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

CHƯƠNG 11: PI - A - NÔ THUỶ TINH (2)

"Đó là một câu chuyện tình kỳ lạ! Thiệt kỳ lạ!"

Đã rời khỏi toà soạn được hơn một tiếng, ấy thế mà câu nói của chị Hà vẫn còn văng vẳng trong tâm trí tôi. Ngồi trong nhà, tôi đương loay hoay, ngụp lặn trong mớ bản thảo và một chồng sách cao quá đầu, cố gắng tìm cho bằng được trang ghi chép về cái cuộc tình thời chiến của cô chiến sĩ Nhung năm nào. Tôi không nhớ, mình đã để nó ở đâu, ghi ở đâu, chỉ mang máng nhớ rằng câu chuyện của em được tôi chép lại trong cuốn sổ da mỏng dính.

Sau giải phóng, tôi đã tốn một khoảng thời gian kha khá nằm lại ở bệnh viện Trung ương. Nghe Duy kể lại, lúc tiểu đội đặc công 4 tìm thấy tôi trong bãi chiến trường hỗn độn của toà nhà đổ sập, thì tôi đương trong tình trạng thiếu nước, cơ thể suy kiệt nghiêm trọng. Lúc ấy, tôi mất đi hoàn toàn ý thức, dựa theo lời kể của Duy, tôi mới biết được tình trạng bản thân mình tồi tệ thế nào.  Mọi người lôi tôi ra khỏi mớ đất đá, trông tôi hệt như con nhái khô nằm phơi nắng, da dẻ đen sạm, phủ một lớp bụi trắng như trét vôi, hai cẳng chân đầm đìa máu, một chân bị gãy bây giờ đã lành, chân còn lại thì liệt hoàn toàn. Mọi người tưởng tôi chết rồi, bị chôn sống trong khoảng thời gian dài như thế, thì sống làm sao được nữa. Nhưng trời Phật phù hộ, ngay khi được đưa về bệnh viện, tôi đã sống và hồi phục như một kỳ tích. Tới mức mà người trực tiếp điều trị cho tôi, bác Liêm cũng phải thốt lên kinh ngạc rằng:

"Tôi làm nghề y ngót nghét ba chục năm, từng kinh qua rất nhiều thương binh bị thương nặng như o. Đa phần mười người thì đủ mười người không qua khỏi, rứa mà o lại có thể cải tử hoàn sinh như ri, thiệt sự là kỳ tích nằm trong kỳ tích đó o nờ."

Kể từ lúc tôi rời khỏi bệnh viện Trung ương tới nay đã tròn bốn năm, Việt Nam đã vào giai đoạn phục hồi thương tổn do chiến tranh gây ra, nền kinh tế vẫn còn trì trệ và tình hình chính trị vẫn chưa thể yên ổn được. Cậu Duy có báo với tôi rằng, biên giới Việt - Trung đương căng thẳng lắm, lệnh tổng động viên lại tiếp tục được phát ra trên khắp các trang báo từ Bắc chí Nam, kêu gọi thanh niên lên đường nhập ngũ, tiếp tục bảo vệ biên cương bờ cõi. Hơn chục tờ báo Phụ Nữ, Nhân Dân rải khắp nhà tôi như mớ giấy lộn, không ngày nào là tôi không theo dõi các sự kiện diễn ra ngoài tiền tuyến. Một thời kỳ chiến tranh đen tối lại đeo bám Đất Nước này. Không biết khi nào, mảnh đất của chúng tôi mới được yên ổn đây?

- Chị Bình có nhà không?

Tôi nghe ngoài cổng có tiếng rung kẻng, chắc là Luân - tổng biên tập của toà soạn Sức Trẻ tới tìm. Tôi quên bén mất chuyện hôm nay mình có một cuộc gặp với cậu biên tập nhỏ này, để thảo luận về việc công khai nội dung cuốn sổ tới toàn thể quý độc giả.

Tôi chống nạng bước ra cổng, lịch sự mời Luân vào nhà, rồi mang ấm đi pha trà. Luân thấy tôi đi lại khó khăn, nên cậu cũng chủ động giúp tôi làm đủ mọi công tác tiếp khách. Xong xuôi, tôi cùng Luân nói chuyện. Cuộc nói chuyện kỳ thực không có gì thú vị, nếu không muốn nói là khô khan. Vì những mẩu chuyện của tầng lớp tiểu tư sản bây giờ chủ yếu xoay quanh vấn đề chính trị, quân sự, thơ văn, chứ không phải kiểu tán gẫu, ngồi lê đôi mách như các dì, các thím ngoài đầu hẻm.

Vừa đặt mông xuống ghế chưa được năm giây, Luân đã lấy trong cặp táp ra xấp giấy dày độ chừng hơn trăm trang. Đặt chồng giấy lên bàn, cậu đanh mặt, nghiêm giọng nói với tôi rằng:

- Em đã đưa bản thảo của chị cho chị Sâm, chị nớ coi bộ thích lắm.

Đoạn Luân lấy một ra một trang bản thảo khác, đưa cho tôi, Luân cười cười:

- Đặc biệt là đoạn ni, chị nờ.

Cầm trang bản thảo lên, không khó để tôi nhận ra, nội dung trong đó viết về điều gì. Đó là những dòng tâm sự của đồng chí Nguyễn Thị Nhung được tôi tốc ký lại, được chọn trở thành một trong số mười hai truyện ngắn in trên báo Sức Trẻ thời gian sắp tới.

- Làm răng mà chân thực như ri rứa chị? Đồng chí Nhung không phải là nhân vật chị bịa ra đúng không?

Nghe câu hỏi hết sức ngây ngô của cậu em, tôi lắc đầu cười trừ.

- Nếu muốn câu chuyện mình viết ra có tính chân thật, thì những nhân vật trong câu chuyện nớ đều phải lấy cảm hứng ngoài đời thực. Có như vậy, mới dễ chạm tới tâm hồn của độc giả được. Đặc biệt ở cái thời ni, còn gì quý giá hơn một câu chuyện được kể từ người đã từng sống chết nơi sa trường chớ.

- Cái hồi chị xuất viện, mấy cánh nhà báo đứng trước cổng nhà chật kín. Đợt nớ em có coi, họ hỏi, có phải chị đã bị chôn sống cùng với một đồng chí nữ khác? Đồng chí nớ, là Nhung đúng không?

Tôi trầm ngâm, nhìn ly trà toả mùi hương thơm lừng, lạ thay, tôi không buồn cầm nó lên uống.

Mỗi lần nghe ai đó nhắc tới tên đồng chí Nhung, mọi ký ức về cái chết của em đều được tua nhanh trong đầu tôi, hệt như một cuốn phim. Hình ảnh em nằm cong người, giữa mớ bụi trắng xóa và lớp đất đá nặng trịch đè ngang ngực, nửa thân dưới dập nát, máu thịt lẫn lộn, gương mặt trắng bệch cùng đôi mắt mở trừng của em là những thứ khiến ruột gan tôi cuộn trào lên mỗi khi nhớ tới.

Luân thấy tôi có vẻ không muốn tiếp tục câu chuyện, thành ra, cậu cũng im bặt. Nhấm nháp ngụm trà nóng, Luân đổi chủ đề:

- Bên toà soạn nói, họ sẽ trả thêm nếu chị đồng ý viết tiếp bản thảo. Chị thấy được không? Để em nhớ coi... hình như là hai chục, hay ba chục chi đó.

- Tiền bạc đối với chị, không quan trọng bằng chuyện được viết. Chị đã hứa với Nhung, rằng sẽ đem những điều em nớ kể viết thành một cuốn sách, cho đúng với tâm nguyện được sáng tác nhưng hoàn cảnh không cho phép của em. Chị sẽ viết thật nhiều bài thơ hay, ca ngợi em và tiểu đội 3, tiểu đội 5 công binh ở đèo Phu La Nhích, về người mà em nớ yêu. Tất tần tật. Rứa nên, hai chục hay ba chục, cũng chỉ là một con số thôi, em nờ.

Bỗng Luân đứng dậy, không nói không rằng mà chắp tay, đi đi lại lại trước cái tủ kính chứa mấy thứ đồ lặt vặt. Tôi trông ánh mắt cậu ngó nghiêng, như đương dò xét căn nhà tồi tàn của tôi, một căn nhà chỉ đủ cho một người sinh hoạt, không giường, không bếp, không đồ trang trí, chỉ có độc mỗi tấm chiếu rách và bộ bàn ghế bằng thiết được xã cho, dùng để làm bàn trà tiếp khách. Mọi thứ ít tới đáng thương, tới mức mà vào lần đầu cậu Luân tới thăm nhà, tôi nhớ như in cậu đã khóc vì không thể tin rằng, đây là nơi ở được cấp cho một thương binh đã từng có chiến công hiển hách với Tổ Quốc.

Đành chịu thôi, biết làm sao. Chúng tôi đã từng ngủ ngoài trời, lấy mây làm chăn, lấy đất làm nệm, sống cảnh thiếu thốn đủ điều, nên khi được xã cấp cho căn nhà này, có chỗ che nắng che mưa, đã là điều quý giá lắm rồi. Đất Nước ta vẫn đang nghèo, nợ từ chiến tranh vẫn chưa trả hết, thì làm sao tôi có thể đòi hỏi được gì hơn, rằng là phải đối xử với chúng tôi, chăm sóc chúng tôi kĩ vào, vì chúng tôi đã giành lại hoà bình cho dân tộc. Không! Chẳng ai yêu nước mà lại đòi hỏi như thế cả. Thứ duy nhất mà chúng tôi mong cầu Tổ Quốc làm, chính là việc, đừng bao giờ quên đi hình bóng của chúng tôi.

- Nhưng... em lo cho cuộc sống của chị quá. Coi chị tề, càng ngày càng xanh xao. Hay em nhờ o em đương làm cán bộ trên xã, thường xuyên ghé nhà hỏi thăm chị. Chị thấy răng?

- Người như chị, sống nay chết mai, cần chi người tới chăm sóc mô, em. Chị chỉ thích ở một mình, từ xưa tới ni không thay đổi. Có thêm người, chỉ sợ họ không quen chăm sóc một kẻ tàn tật như chị. Rứa thì khổ họ lắm!

- Tin tức về hành trình sống sót sau khi bị chôn sống suốt hai tuần của chị đã được viết và đăng trên khắp các mặt báo của Huế. Chừ chị nổi như cồn, người ta mà biết chị sống chật vật như ri, không được xã ngó ngàng, thì họ phẫn nộ.

- Rứa họ quan tâm tới câu chuyện của chị, hay là quan tâm tới cuộc sống của chị?

Luân dứt khoát đáp:

- Cả hai!

- Không được mô, nhất định không được.

Tôi nghe giọng Luân có vẻ hơi gắt, và hàng lông mày rậm của em chau chặt vào nhau.

- Răng lại không được? Em thương chị là chị em kết nghĩa với em hồi còn ngoài mặt trận, nên em mới ngỏ ý quan tâm chị như rứa. Mà... chị cứ từ chối em hết lần ni tới lần khác.

- Đất Nước mình đương còn nghèo khó, xã mình là xã nghèo nhất ở cái quận Phong Điền ni rồi. Dân người ta mót khoai, hái rau tàu bay để ăn, khổ không kể siết, mà em lại đi xin cho chị được hưởng đãi ngộ hơn hẳn người dân, làm răng hợp tình hợp lý được?

Không thấy Luân nói thêm lời nào, cậu thở dài chán ngán và quay về chỗ ngồi. Tôi đoán, chắc cậu không phục bởi cái lý lẽ này của tôi rồi. Nhưng tôi không trách Luân, chỉ thương cậu trẻ người non dạ, sống sung túc từ nhỏ, nên cũng khó lòng hiểu được sâu sắc chuyện đời. Không giống như những người đã từng đi qua cuộc chiến tranh khốc liệt mà tôi quen biết trước đó, Luân chưa từng cầm súng chiến đấu, chưa từng bắn bất kỳ thằng Tây nào, hay sống kham khổ ở ngoài rừng, ngoài sông suối. Thứ khổ duy nhất mà cậu đã từng trải, là việc trở thành một thành viên trong bộ phận viết báo ở toà soạn Sức Trẻ. Ba tháng tới từng khu vực đóng quân, viết báo, chụp ảnh là ba tháng sống khổ nhất cuộc đời cậu, theo như cậu kể là vậy.

Luân sinh ra đã được ngậm thìa vàng, ba mạ cậu làm thương nhân, chuyên buôn bán lụa ở thành phố Huế. Nhà Luân nằm ở mặt tiền đắt địa, một ngôi nhà hai tầng, cổng tường kiên cố như một toà lâu đài mọc lên giữa khu ổ chuột. Cố nhiên, cái danh "thiếu gia" đã theo Luân từ nhỏ. Từ khi chiến dịch Tết Mậu Thân nổ ra, năm đó Luân chỉ mới mười sáu tuổi. Ban đầu, Luân có xin ba cho cậu được đi bộ đội, nhưng ba cậu nhất quyết không cho, thế là, cậu lén chơi cách khác. Không xin đi bộ đội được, thì Luân xin vào làm ở toà soạn, một toà soạn chuyện xuất bản và ưu tiên nhận những tác phẩm viết về tình hình chiến sự, thu nhỏ cảnh chiến trường vào trong trang giấy. Khả năng viết của Luân rất cừ, dường như cuộc đời sinh cậu ra là để viết, và chỉ viết thôi, không thể làm gì thêm được nữa. Mỗi lần đọc các mẩu chuyện của Luân, tôi cảm nhận như, cậu ấy đã viết mọi thứ bằng máu thịt của mình. Mọi điều Luân viết chân thực một cách táo bạo, trần trụi một cách kỳ dị. Cái chết người lính, sự tang thương của chiến tranh, đều bị cậu moi móc, lột trần nó ra, từ gan và ruột, không chừa lại hay nhân nhượng trước bất kỳ thứ gì. Cũng chính vì sự trần trụi ấy, mà nhiều lần các mẩu chuyện của Luân không được in trên tao đàn, vì nó quá đỗi khác biệt. Người ta sẽ trông ngóng một câu chuyện ca ngợi tinh thần người lính, vẻ đẹp Cách mạng, hơn là đón nhận một tác phẩm mà ở đó chỉ toàn chết chóc và đau thương.

Tôi biết, Luân buồn lắm. Tính từ năm 1968 tới nay, Luân đã có mười một năm gắn bó với tòa soạn, với cái nghề mà cậu dành cả đời để theo đuổi. Nhưng tiếc thay, số tác phẩm được in ấn của Luân chẳng thể vượt quá con số năm, ít tới đáng thương. Nhiều lần chị Sâm, người chị họ làm chủ toà soạn, được ba Luân gửi gắm cậu cho chị ấy đã khuyên, cậu nên đổi cách viết, có như vậy thì người ta mới dễ duyệt tác phẩm của cậu được. May thay, Luân không chịu. Luân thà chấp nhận mình thua thiệt, còn hơn là gượng ép đi theo những gì mà cậu không muốn. Một tác phẩm chỉ thực sự ý nghĩa khi nó được xuất phát từ trái tim của người nghệ sĩ, chứ không phải xuất phát từ trào lưu và mưu cầu của thị chúng.

Nhiều lúc nằm ngủ, tôi chợt nhớ tới hình ảnh Luân cầm xấp bản thảo đứng trước cổng, nài nỉ tôi đọc thử bản thảo của cậu ấy và đưa ra nhận xét. Những lúc như thế, ánh mắt Luân ánh lên sự đáng thương vô cùng. Trong một lần tôi dẫn Luân đi ăn chè, cậu có tâm sự với tôi rằng:

"Em sợ, em không sống được với cái nghề ni. Ba em vừa gặp em, doạ là trong vòng một năm nếu không có tác phẩm mô được nổi tiếng, thì ba sẽ bắt em về để quản lý tiệm lụa của gia đình. Em sợ lắm, em không muốn đi bán lụa mô, em chỉ muốn viết sách thôi."

Đoạn Luân bưng mặt khóc, trước sự ngỡ ngàng của tôi.

"Em nói thiệt tình với chị, chớ thà bắt em chết còn hơn là bắt em bỏ nghề viết. Làm răng một tiểu tư sản như em lại có thể kinh doanh được. Không! Em chết mất! Rồi em sẽ bị chính những dải lụa quý của gia đình thắt cổ tới chết. Em khổ lắm rồi chị nờ!"

Tôi chỉ còn biết vỗ vai, nói với cậu mấy lời an ủi sáo rỗng. Chính tôi cũng không khá khẩm hơn Luân là bao. Hai chúng tôi theo nghề viết, nghèo kiết xác, nghèo rớt mồng tơi. Một đứa thì cãi ba cãi mạ, vứt bỏ cái danh "thiếu gia" chỉ để quay lưng làm bạn với con chữ. Còn một đứa thì vừa rời khỏi chiến trường, sống lay lắt với cái bóp xẹp lép và hai cẳng chân thì què quặt. Chúng tôi chỉ hơn nhau ở cái xuất thân, chứ chẳng thể hơn nhau về hoàn cảnh hiện tại. Vậy nên, tôi không biết dùng lời nào thực sự ý nghĩa để khuyên nhủ Luân, vì tôi làm gì hiểu được nỗi thống khổ cùng cực của cậu đâu chứ.

Con người, ai cũng có một nỗi niềm riêng, sự can thiệp của người ngoài chỉ giúp tháo gỡ lớp bọc bên ngoài, chứ còn bên trong, phải tận tay mình tháo gỡ nó thì mới mong thoát khỏi mớ bòng bong ấy được. Không ai có thể giúp được Luân, trừ bản thân cậu ấy.

Hôm nay, ngồi nói chuyện cùng Luân, đã hơn hai tháng rồi chúng tôi mới có dịp gặp nhau. Cậu không còn dáng vẻ ủ dột, mệt mỏi như hồi trước nữa. Luân ăn mặc trưởng thành hơn, đầu tóc được chải chuốt vuốt ngược ra sau, bóng lưỡng, cách ăn nói, ngay tới cách đi đứng của cậu cũng tỏ vẻ quý ông lắm. Tôi không biết có sức mạnh gì, mà lại biến một cậu thanh niên ngây ngô như Luân, tưởng như không bao giờ lớn trở thành một gã đàn ông chững chạc như thế.

Tôi nhìn Luân thật lâu, tưởng chừng, đây là lần cuối cùng tôi có thể nhìn cậu ấy. Bất giác, tôi thấy lòng mình xuất hiện sự bất an. Tay chân tôi lạnh cóng, không phải do bệnh, cũng chẳng phải do gió, cơn lạnh thốc tới với tôi một cách bất ngờ không báo trước. Tôi nhắm mắt, cố gắng xua đuổi sự lạnh lẽo ấy ra khỏi người. Luân thấy tôi có biểu hiện lạ, cậu vội hỏi:

- Chị bị cái chi rứa? Đau bệnh ở mô hay răng?

- Tự dưng chị thấy lạnh quá. Lạnh từ bụng ra da.

Luân nghệt mặt, cậu càng lo hơn:

- Trời đất, rứa là chị bệnh rồi. Giống như... sốt rét? Mà chừ sốt rét răng được? Mình có còn trong rừng nữa mô. Hay để em chạy túa ra nhà thím Hân mua thuốc cho chị nghe?

- Thôi thôi, cần chi thuốc thang cho mắc công. Cái ni không phải bệnh, chị vẫn khoẻ mà.

- Thiệt không chị? Chị đừng làm em sợ.

Ngay khoảnh khắc này, Luân lại quay về với dáng vẻ cậu em ngốc nghếch ngày nào của tôi. Khi nghe tôi nói lạnh, cậu luống cuống đi pha cho tôi một ly trà gừng, rồi còn đem mền ra cho tôi đắp chân. Nếu như không có Luân ở đây, thì tôi cũng không bao giờ để tâm tới những chuyện đó.

- Hôm ni chị mệt rồi, thôi để hôm khác em qua nói chuyện.

- Chị đã nói không mệt. Em mới tới đây chưa đầy một tiếng, chừ về đường sá xa xôi như rứa thì tiếc công đi đường.

Tôi vẫn đon đả tiếp lời:

- Có chuyện chi thì em cứ nói vô trọng tâm. Đừng vòng vo làm chi.

- Thú thiệt với chị, em cũng có chút chuyện...

Tôi nhướn mày. Luân nhìn xuống đất, đôi tay lúng túng đan vào nhau.

- Em có đọc qua mẩu truyện ngắn ni của chị trên báo. Em định hỏi chị có ý định viết nó thành truyện dài hay không? Chớ cái ni mà chỉ dừng lại ở truyện ngắn, thì uổng lắm.

Luân đưa cho tôi tờ báo Sức Trẻ vừa mới phát hành hồi giữa năm ngoái, và chỉ vào mẩu truyện ngắn của tôi được in ở trang cuối.

- Cái ni...

Tôi lặng người, không phải tôi đắn đo trước lời đề nghị của Luân , mà là vì tôi bỗng nhớ lại khoảnh khắc bốn năm trước, khi mình bị giam lỏng trong căn nhà hoang đổ nát cạnh bờ sông Tả Trạch. Cái khoảnh khắc tôi được ở cạnh Nhung, được nghe em kể về một trong số rất nhiều huyền thoại đã thoát khỏi địa ngục Chín Hầm. Câu chuyện mà Luân đề cập, chính là câu chuyện về huyền thoại ấy. Huyền thoại mà tôi đã đặt tên là: "Pi - a - nô thuỷ tinh"

...

Chuyện đồng chí Nhất bị bắt giam đã được trung đội giấu nàng Chi đã hơn một tháng nay. Suốt một tháng ấy, Chi được mọi người giữ lại chiến khu, với lý do là giặc đã phong tỏa mọi ranh giới giữa các quận huyện, hòng cô lập chiến khu Dương Hòa với những nơi khác. Việc di chuyển giữa quận này sang quận khác bây giờ là vô cùng nguy hiểm, nếu không muốn nói là có thể mất mạng như chơi. Ban đầu khi nghe tin mình phải ở lại chiến khu, Chi hoảng sợ và nhất mực đòi về, vì nàng lo cho an nguy của cha mạ ở bên kia sông. Trung đội trưởng đã cắt cử người làm công tác tư tưởng cho Chi suốt năm ngày liền, dùng đủ mọi lời lẽ để trấn tĩnh nàng, khuyên nàng nên ở lại đây, vừa đảm bảo tính mạng, vừa tránh được việc nàng bị giặc bắt. Suy cho cùng, nàng cũng là người thân của một đồng chí tham gia Cách mạng, giặc bắt nàng để uy hiếp Nhất là chuyện tất nhiên. Và quan trọng hơn hết, ai có thể đảm bảo được rằng sau khi bị tóm, nàng có bị thao túng trước bọn chúng hay không?

Tính từ lần đầu tiên lên chiến khu thăm cậu Nhất tới nay đã là ngày thứ ba mươi lăm. Tình hình tâm lý của Chi đã ổn hơn những ngày đầu rất nhiều. Nàng không còn thấy lạ lẫm khi phải sống trong môi trường quân đội nữa. Chi thích nghi rất nhanh, nhanh ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Thay vì ăn không ngồi rồi như mình là khách, thì nhân dịp này, Chi đã xin trung đội trưởng cho mình được tham gia Cách mạng. Thoạt đầu thấy nàng Chi liễu yếu đào tơ, tay chân mềm mỏng, da dẻ trắng nõn, biết nàng không hợp với những nhiệm vụ nặng nhọc như rà mìn, liên lạc, nên trung đội trưởng đã gợi ý đưa nàng vào đội hậu cần. Chi đồng ý. Hai ngày sau, trung đội 1, tiểu đội 4 hậu cần chính thức kết nạp thêm một đồng chí mới tên Vũ Thuỳ Chi.

Căn lán của tiểu đội 4 kế bên tiểu đội 3, hai lán chỉ cách nhau một bãi lau sậy rộng chừng hai trăm mét. Tiểu đội 4 gồm mười người, đa phần đều làm nhiệm vụ hậu cần, chỉ có hai đồng chí phải kiêm thêm nhiệm vụ liên lạc, là chị Thuỳ và chị Ngọc mà thôi. Các chị ở hai tiểu đội qua lại với nhau thường như cơm bữa, và thân thiết như chị em ruột thịt.

Thời gian rảnh sau khi kết thúc nhiệm vụ, Chi thường cùng chị Ngọc leo dốc hái thuốc. Mỗi lần đi như vậy về, trên hai cái gùi mây được đeo sau lưng Chi và Ngọc đều đầy ắp những cây thuốc ho, thuốc trị ngứa, khi thì lẫn thêm vài củ khoai, bó rau tàu bay,...

Việc nàng Chi thân thiết với chị Ngọc trong mắt mọi người là chuyện vô cùng bình thường, nhưng đối với Nhung, đây lại là cái gai trong mắt. Em không thích Ngọc, nói chính xác hơn, là Nhung ghét Ngọc, ghét cay ghét đắng, vì nhiều lý do khác nhau. Trong đó có một lý do tiêu biểu hơn cả, là vì Ngọc thường xuyên gọi em bằng cái biệt danh: "Nít ranh miệng còn mùi sữa".

- Chị Chi!

Vừa mới lên dốc chưa được mấy bước chân, nàng Chi đã nghe giọng Nhung hét lên từ phía cuối dốc. Nàng tất tả chạy tới, cái gùi mây đeo sau lưng đựng toàn là khoai, nặng trịch. Không đủ kiên nhẫn đợi, Nhung vội chạy băng băng xuống dưới chỗ nàng. Bắt gặp chị Ngọc cũng đương đi bên cạnh, sắc mặt hớn hở của em lập tức đanh lại, nụ cười trên môi cũng vụt tắt.

- Chạy từ từ chớ em.

Chi cất giọng nhẹ nhàng, đưa tay giúp em lau mồ hôi lấm tấm trên mặt.

- Chị Chi đi mô về rứa?

- Tôi đi đào khoai. Trưa mai tụi mình có thêm món khoai luộc chấm đường. Tôi mới được đơn vị thưởng hũ đường, đem ra chia cho mọi người ăn cùng.

Đoạn Chi bỏ cái gùi xuống, lựa một củ khoai trông ngon và to nhất đưa cho Nhung.

- Củ ni ngon lắm, tôi dành riêng cho em.

Nhận củ khoai đầy ắp tình thương của Chi, Nhung cười rạng rỡ. Nhưng tức khắc sau, đôi mắt em lại phực lên cơn ghen tức.

- Đúng là nít ranh miệng còn mùi sữa, lớn từng tuổi ni mà thấy đồ ăn là tươm tướp tươm tướp.

- Chị nói cái chi? Ai thấy đồ ăn là tươm tướp?

Nhung đỏ mặt nạt nộ. Chị Ngọc cũng chẳng vừa, liền đáp trả:

- Tau nói mi nớ. Cỡ chừ bị bắt, giặc cho mi đồ ăn chắc cái chi mi cũng khai.

- Em không phải hạng người bỉ ổi, khốn nạn, vô liêm sỉ như rứa. Đi Cách mạng là trung thành với Cách mạng. Ai đời chỉ có vài ba miếng ăn mà mang tội với Tổ Quốc mô?

Chị Ngọc trề môi, giọng khinh khỉnh:

- Ai biết được mi. Chớ cái tính con nít như ri của mi thì... nhắm lắm.

Câu nói lần này của chị Ngọc đã thành công chọc cơn tức của Nhung đạt tới đỉnh điểm. Nhung giận run người, đầu em nóng như sắp bốc khói. Chi thấy tình hình ngày càng không ổn, chỉ cần lời qua tiếng lại thêm một câu nữa thôi thì hai người này có thể túm tóc đánh nhau bất cứ lúc nào. Nàng nghĩ tới cảnh đồng đội đánh nhau thì hoảng, bèn đứng ra giữa can ngăn:

- Thôi bình tĩnh, có cái chi mô mà phải hạch sách nhau như rứa. Ngọc cứ về lán trước đi, tôi sẽ về sau.

Quay sang nàng Chi, giọng chị Ngọc bất ngờ dịu lại:

- Ừ, tôi về trước. Chi về sớm nghe, trời tối nguy hiểm lắm.

Sau khi bóng lưng chị Ngọc đi khuất, chưa đầy năm giây sau, nàng nghe tiếng Nhung khóc thút thít.

- Tề, đừng khóc mà em. Chị Ngọc nói rứa thôi, chớ không có ý chi mô.

Nhung nạt nộ:

- Răng mà không có ý? Chị nớ nói như rứa, khác chi nói sau ni em sẽ phản bội mọi người chớ?

Nhung tức tối ném củ khoai Chi vừa cho vào gùi. Giọng nói của em bị cơn nấc nghẹn chắn ngang:

- Em thề... thề với chị Chi, chừ có bị giặc bắt, có bị mua chuộc, hành hạ thì em cũng... cũng không phản bội Cách mạng mô. Trông em tham ăn rứa, chớ bụng dạ em sạch trơn, răng làm ra mấy chuyện hổ thẹn như chị Ngọc nói được. Chị Ngọc mỉa như rứa, là xúc phạm tới danh dự nhân phẩm của em. Em phải nói chuyện ni cho trung đội trưởng biết.

- Nhung! Bình tĩnh em!

Nàng Chi thốt lên, rồi lập tức níu tay Nhung lại. Nàng kéo em đứng sát vào lòng, vuốt ve hai bên vai mảnh khảnh của em và khuyên:

- Tính chị Ngọc hay đâm chọt như ri, có nói với trung đội trưởng cũng không làm khác được. Chừ em hạn chế gặp mặt nói chuyện với chị nớ, hoặc có gặp cũng làm thinh, đừng đôi co chi hết. Cứ kệ mà sống em nờ. Bụng dạ em sạch, lòng em trong thì tôi biết lắm chớ, em không cần phải giải thích với người cố tình hiểu sai về em làm chi cho khô cổ mô.

Nói giữa chừng, nàng Chi liền ngưng ngang, khi thân người nhỏ nhắn của Nhung run lên như giật kinh phong. Chi giữ chặt vai em, nhón chân hôn khẽ lên trán em, nói bằng tất cả tấm chân tình:

- Ngoan, nín đi em. Em chỉ cần trong sạch với tôi là đủ, còn với những người khác, họ nghĩ ra răng thì kệ họ.

Nói Nhung là người dễ dãi, thích được dỗ ngọt cũng không hề sai, khi nàng Chi chỉ cần ngọt ngào vài ba câu thôi là đã xoa dịu được cơn giận trong lòng em rồi. Nhung gật đầu, chẳng mấy chốc mà dứt được cơn khóc.

Trời đã xế chiều, ước chừng không bao lâu nữa là sập tối. Mỗi khi trời tối, trong rừng lại xuất hiện vô vàn thứ nguy hiểm khác nhau. Tiếng cành cây đong đưa va vào nhau loạt soạt, kết hợp với tiếng dế ve kêu râm ran, tiếng suối chảy róc rách, tưởng như đây chỉ là thanh âm của bình thường của chốn núi rừng hoang vu, nhưng khi nghe nó ở một khu rừng đã có hàng nghìn người bỏ mạng, thì muốn nghĩ bình thường cũng không thể nghĩ nổi. Chi từng nghe chị Ngọc kể rất nhiều câu chuyện ma ở vùng núi Dương Hoà này, đa phần những hồn ma ấy đều là các chiến sĩ đã tử trận. Có người thì lượn lờ vất vưởng trên ngọn cây vả được trồng ngoài Tiền chiến khu, lại có người thì thoắt ẩn thoắt hiện bên cạnh bờ suối, tha thẩn đi tìm những bộ phận cơ thể bị mất của mình. Lại có kẻ tử trận lúc tuổi còn tóc xanh đôi mươi, tiếng lá cây xào xạc hoá ra là tiếng của họ đương gào khóc vì chết trẻ.

Đảo mắt nhìn cảnh rừng rợn ngợp bốc hơi lạnh của tử khí, Chi rợn tóc gáy, vô thức ôm Nhung chặt hơn. Sắc mặt nàng tái nhợt, chân chùn bước khi nghĩ tới cảnh còn cả trăm mét nữa mới về được lán. Nếu cứ ở đây mãi, thì tối hẳn mất.  Có khi giữa chừng bị ma hù, chắc nàng bỏ mạng ở đây luôn. Chi mụ cả đầu, hít thở sâu rồi vội vàng buông Nhung ra, giục rằng:

- Về thôi em. Trăng lên rồi.

Nhung làm tay thành ống nhòm để trước mắt, ngước lên nhìn ông trăng đã mọc lên khuất sau hàng cây cổ thụ. Trăng lưỡi liềm sáng trưng, ngả ánh vàng xuống đất. Nhung nhoẻn miệng cười ngây thơ, em hỏi:

- Chị Chi sợ ma hả?

Ngại ngùng, nàng lắc đầu nguầy nguậy:

- Bậy! Tôi có sợ cái chi.

- Em tưởng chị Chi sợ thì ta về sớm. Chớ còn không sợ, thì em dẫn chị ra chỗ ni vui lắm.

Nghe tới chuyện Nhung còn muốn dẫn mình đi nơi khác thay vì về lán, nàng Chi tái mặt, lắp bắp hỏi ngược:

- Chỗ... chỗ mô? Tối như ri còn coi ngó được chi nữa?

- Được chớ răng không được? Chị Chi có muốn đi không?

Đương nhiên, Chi từ chối. Nàng không muốn theo cô nhóc này đi bậy bạ, rủi lỡ gặp điều gì bất trắc, như ma chẳng hạn, thì toi mạng nàng mất.

Sau khi bị từ chối, tuy Nhung có chút thất vọng, nhưng rất nhanh sau sự thất vọng ấy lại tan biến, vì em sực nhớ ra còn có một thứ đáng để cho nàng xem hơn là bầy đom đóm ở sau núi nữa.

Cả hai cùng nhau về lán. Chi mang gùi đựng khoai về lán tiểu đội 4 trước, rồi vòng ngược sang lán của tiểu đội 3. Kể từ ngày công tác ở chiến khu, Chi đã thông thạo khá nhiều con đường có thể tới được lán của tiểu đội 3, bất kể là đường tắt hay đường vòng, đường nào nàng cũng biết. Bây giờ, Chi đương ngồi đợi Nhung dưới tán cây sim, cách đầu dốc Suối Hoang chỉ hơn chục bước chân. Nàng ngồi được năm phút thì Nhung tới. Nhìn từ xa, Chi lờ mờ thấy trên tay em đương ôm theo thứ gì đó. Thứ gì nhìn giống như... một con vật.

- Chị Chi đợi em lâu không? Em xin lỗi, tại chị Trang bắt em phải gấp nội vụ xong rồi mới được đi.

Khi Nhung lại gần, Chi mới biết thứ em ôm trên tay là một con mèo vằn. Hai mắt nó sáng như đèn pha trong đêm, con ngươi thắt lại, nhìn chằm chằm về phía Chi.

- Chị Chi bị răng rứa? À! Em có cái ni khoe chị Chi nì.

Đoạn Nhung ngồi bệt xuống thảm cỏ, đưa cho Chi xem con mèo mình mới đem về cách đây mấy ngày.

Chi sững người, dáng vẻ sợ hãi của nàng làm Nhung ngạc nhiên. Em cứ tưởng, Chi không tin là ở trong rừng lại xuất hiện một chú mèo mập mạp, lông mướt và sạch như con mèo này, nên nàng mới trưng ra bộ mặt như thế. Em cười hì hì, dí sát con mèo lại gần Chi hơn, em hỏi:

- Hắn tên Đậu. Chị Chi thấy hắn dễ thương không?

- Em... em đem hắn ở mô về rứa?

- Khi sáng em đi truyền đơn cho đội trưởng dưới chợ Cháy, thấy hắn bị nhốt chuẩn bị đem đi làm thịt. Em sợ quá, nên mới thương lượng với chủ quán mèo mua lại, rồi đem hắn về lán nuôi. Hắn tội lắm, lúc em gặp là hắn kêu meo meo, như chờ em cứu nớ.

Thấy nàng Chi vẫn sợ, Nhung không biết ý, lại đặt con Đậu vào lòng nàng. Con mèo ấy nằm cuộn tròn trong lòng Chi, yên lặng nhắm mắt như đương hưởng thụ. Vừa cảm nhận sự cọ xát mềm mại của lông mèo, Chi đã hớt hải vùng dậy, dùng tay gạt thẳng con Đậu xuống đất rồi chạy tuốt ra gốc cây đằng kia, lú đầu ra khỏi thân cây, nàng nói:

- Em... em đem hắn đi giùm tôi.

Con Đậu sau khi bị Chi đuổi xuống không thương tiếc thì bắt đầu xù lông lên, không còn giữ được vẻ dễ thương dễ mến như hồi nãy nữa. Nó đứng lườm Chi, hai mắt rực lên màu vàng hổ phách, trông nó như muốn ăn tươi nuốt sống nàng vậy. Chi quýnh quáng bấu lấy cành cây, run rẩy gần như van xin:

- Tôi lạy em nờ. Em mà không đem hắn đi, tôi chết mất.

- Răng chị Chi lại chết vì hắn? Chị không thích Đậu, rứa em đem hắn đi chỗ khác cho chị nghe?

Sợ Chi nói được làm được, Nhung vội đem Đậu trở về lán. Trong lúc đợi Nhung quay lại, Chi nhân cơ hội đó chỉnh đốn áo quần, phủi bớt lá cây vươn trên tóc. Mặt nàng vẫn còn tái, vì nhớ tới cảm giác mềm mượt tới rợn da gà khi con Đậu cọ lông vào người.

Từ thuở cha sinh mạ đẻ tới nay, mèo là thứ Chi sợ nhất. Nàng sợ nó bất chấp nắng mưa, bất chấp giống loài. Chỉ cần ở đâu xuất hiện mèo, thì ở đó không có Chi. Hồi xưa, lúc nàng còn nhỏ, hay đi chơi chung với đám trẻ trong làng, bọn trẻ mỗi lần bắt gặp mèo hoang, thì lại háo hức tranh nhau bế bồng nó, hôn hít và chơi đùa với nó. Riêng Chi thì khác. Chi không hùa theo bè bạn. Mỗi lúc thấy mèo, nàng sẽ chạy tuốt về nhà, leo lên giường, trùm chăn và khóc hu hu. Rồi khi cha mạ hỏi, nàng sẽ trả lời thế này:

"Con mèo tụi hắn chơi ghê lắm mạ. Hắn có con mắt to như bị lồi, răng nanh nhơm nhớp nước miếng.

Chi không biết vì sao mình lại có một nỗi sợ kỳ quặc như thế. Chỉ biết là khi nhìn vào mắt chúng, Chi cứ ngỡ như, kiếp trước mình đã gây nên tội nghiệp gì với chúng, để rồi kiếp này nàng phải sợ như sợ cọp, dè chừng như dè chừng một con quỷ.

Trời sập tối, không đem theo đồng hồ, nhưng Chi đoán, chắc đã sáu giờ hơn. Đêm trong rừng không giống như đêm ở làng. Nó tối, âm u, như đương ở trong một hang động sâu, mà ở đó ánh sáng từ trăng không thể rọi xuống được. Chi quẹt diêm, châm lửa vào cây đèn bão mình đem theo. Lia mắt về hướng cửa lán, Nhung đâu rồi? Nàng tự hỏi, khi đã đợi hơn mười phút rồi mà không thấy bóng dáng cô nhóc ấy. Chi bất an, định sẽ trở về lán tìm Nhung, thình lình, có tiếng gào rú của thú rừng dội từ con dốc phía dưới dội lên. Không rõ đó là loài vật gì, nhưng nghe tiếng rú ấy, Chi thầm nghĩ đó là tiếng chó sói.

Trong rừng này có chó sói? Hai cẳng chân Chi nhũn ra như đất sét, ánh đèn bão lập lòe sắp tắt, mặc dù nàng vừa mới thắp nó cách đây không lâu. Hình ảnh căn lán của tiểu đội 3 hiện hữu trước mắt, Chi thấy, hay thôi mình không đợi em nữa, chạy về lán lánh nạn có khi hay hơn, dù gì thì ngoài trời đã trở lạnh rồi. Cứ đứng ở đây mãi, ngày mai sốt rét thì không biết đường nào mà cứu. Nghĩ như thế, Chi siết lấy quai đèn, cắm đầu về hướng lán mà chạy. Càng chạy, chẳng hiểu sao căn lán càng xa, như thể có thứ gì đó vô hình kéo căn lán xa khỏi tầm mắt Chi. Tầm mắt nàng dần nhoè đi, từ trong mũi nàng đổ ra thứ chất lỏng âm ấm, đặc quánh và tanh nồng. Chi đưa tay quệt. Là máu...

...

Nhà lao Chín Hầm, quận Thuận Hoá, thành phố Huế.

Hôm nay, Huế đổ một trận mưa lớn, gần như hoá thành bão. Đường đất nhầy nhụa sình lầy, đường trên rừng lại càng bừa bộn hơn. Mưa rũ trắng trời, cành cây gãy đôi, ngả rạp nằm ngổn ngang như vừa trải qua một đợt cày đạn nát đất. Nhà lao Chín Hầm nằm lọt thỏm giữa núi rừng Thiên Thai, đương nhiên không thể tránh khỏi cảnh hoang tàn sau đợt mưa lũ kéo dài hàng giờ liền. Những hàng cây rừng mọc trải dài trong khuôn viên đều xơ xác lá, lá cây vương vãi dưới sân xi măng, những ổ nước mưa từ nhiều trận mưa trước đã đọng lăn quăn, chèm bẹp xác mấy con chim bị cành cây đè chết, lòi cả ruột gan và phun òng ọc máu. Khung cảnh bên trong tám nhà ngục đã ghê tởm lắm, và ở bên ngoài này cũng tởm không kém là bao.

Ở Chín Hầm không bao giờ tồn tại khái niệm tù nhân được ra ngoài hít thở khí trời như các nhà lao Côn Đảo hay Phú Quốc. Bốn bề chuồng cọp rộng chưa tới một mét như quan tài, chính xác là nơi giam hãm tù nhân suốt hai mươi tư giờ. Nhưng hôm nay, vì lý do mưa bão đã càn quét nhà lao, đám cai ngục không thể trơ mắt nhìn nhà lao và căn gác của chúng bị nước mưa quật xối xả như vậy nữa, nên liền đem những người tù nào còn khoẻ mạnh, có khả năng lao động ra để làm lao động công ích. Việc lao động này, đích thị là một ân huệ hiếm hoi mà tù nhận được ban phát, và cũng là một sự ganh ghét tột độ đối với ai sắp chết mục, chết thối thịt mà không được ra ngoài.

Nhất và Luông vừa vào tù chỉ mới hơn nửa tháng, món đòn tra tấn chưa bị chịu nhiều, đã vậy còn là thanh niên lực lưỡng nên nghiễm nhiên, hai người đã lọt vào mắt xanh của đám cai ngục cần người đi dọn quét sân. Nhóm lao động công ích được bọn chúng lập ra gồm mười người, trong đó tám người là đàn ông, chỉ có hai cô gái bị ép buộc đi cùng mà thôi. Trong lúc khiêng vác dọn dẹp, Nhất có tới lân la hỏi chuyện với một trong số hai cô, và cậu cũng biết được người mà mình nói chuyện tên Ngân, lớn hơn cậu hai tuổi, làm du kích dưới Phong Điền, bị bắt vào Chín Hầm đã nửa năm.

Ngân có gương mặt dài như mặt ngựa, hai bên má hóp sâu, da dẻ xám ngoét như người chết. Mái tóc Ngân chỉ tới ngang vai, phần đuôi tóc xơ như lúa khô và cắt lởm chởm không đều, bên dài bên ngắn. Chị kể, đây là thành quả sau một lần bị tụi cai ngục tẩm xăng đốt tóc. Xăng làm tóc chị không thể phục hồi lại được, đã vậy còn khiến tóc rụng ngày một nhiều, làm cho mái tóc dần thưa đi, lộ hẳn một mảng da đầu đầy ghẻ lở.

Đám cai ngục chọn thời gian làm công ích là vào giữa trưa, nắng cháy da cháy thịt. Toàn thân tù nhân đổ đầy mồ hôi, mồ hôi mặn chát chảy vào các vết thương lở miệng càng khiến cho vết thương thêm xót. Nhiều người tù phải cắn răng nhịn đau, khiêng những thân cây bự gấp đôi thân người. Những lúc không chịu nổi sức nặng và vấp ngã, bọn cai ngục sẽ xuất hiện chớp nhoáng như thần chết, đứng bên cạnh gầm gừ như thú hoang, vung cao roi và quất đen đét vào những tấm lưng trần gầy trơ xương của tù nhân, phun lời lăng mạ, và cần thiết nữa thì lấy thân cây đè lên bụng tù, tới khi nào hộc máu, ói ra mật xanh mật vàng thì mới thôi.

Nhất ở tù phải chứng kiến những cảnh tra tấn man rợ đó, riết cũng thành quen. Nhưng sự đau xót trong cậu thì vẫn vẹn nguyên ở lồng ngực, không thể vô cảm trước nỗi thống khổ của bạn tù như thế được.

Hôm nay đã là ngày thứ ba lao động, mỗi ngày tụi cai ngục phải đánh tầm ba tới bốn người tù thì tụi hắn mới ăn cơm ngon được. Nhất phụ trách việc vác những cành cây bị bão quật gãy ra hố đốt, trong lúc làm, có mấy lần cậu lấm lét dò la tình hình của những người bạn tù khác. Quá tam ba bận, tới lần thứ ba thì cậu bị một thằng cai ngục phát hiện. Thằng cai ngục vác cây roi cá đuối lăm le tới gần Nhất. Biết mình không nên có thái độ phản kháng, Nhất liền chủ động quỳ mọp xuống, hai tay để lên đầu như thói quen. Gương mặt đầy rẫy vết đỏ bạt tai của Nhất cúi xuống, cậu giả vờ như mình đương sợ hãi, sợ tới mức xón ra quần. Cai ngục thấy cậu như thế, hắn biết đây chỉ là một tên tù thỏ đế, nên không đánh ác như những tên tù cứng đầu khác. Hắn chỉ quất cậu vài roi, hăm he cảnh cáo vài lời, rồi lại bỏ đi.

Khi tên cai ngục vừa sang khu khác, Ngân nhân cơ hội tiếp cận Nhất. Chị cũng vừa bị một thằng cai ngục khác đánh. Áo quần dính máu. Máu mới trộn lẫn với máu khô, lâu ngày không được tắm rửa nên bốc mùi hôi khiếp hồn. Ngân đứng nấp sau thân một cái cây bị gió quật gãy phân nửa, nhặt một cành cây ném về phía Nhất, chị thỏ thẻ gọi:

- Ê nhóc con!

Nhất liếc ngang liếc dọc, thấy cô gái cả gan trốn việc để tìm mình, cậu thót tim reo lên:

- Cha mạ ơi! Răng chị dám ra đây?

Ngân như con thỏ nhảy phốc ra. Sau khi vuốt ngược mái tóc khô xơ của mình ra sau đầu, chị hỏi:

- Mi bị hắn đánh đau không?

- Không đau.

Nhất xoa xoa vết roi nằm vắt ngang bụng. Vết roi bắt đầu sưng đỏ, tróc da tứa máu. Cậu cười khì khì, tiếp lời:

- Roi hắn đánh nhẹ hều. Răng mà đau được.

- Tôi thấy cậu sắp té lăn cù mèo tới nơi. Có chắc là không đau không?

- Chắc mà!

Hai người im lặng mất mấy giây, rồi Ngân lấy trong túi quần ra một cái gói gì đó rất nhỏ. Dúi cái gói ấy vào tay Nhất, Ngân nói vội:

- Cất kỹ để xài. Tụi hắn mà biết cậu có thuốc, là cậu bị đem tra tấn tới chết đó.

Nhất ngẩn người nhìn gói thuốc Ngân đưa. Gói thuốc như bùng lửa, khiến lòng bàn tay cậu ấm dần lên. Hốc mắt Nhất đỏ hoe, mờ mờ, tới khi chạm vào mới biết, cậu đã khóc từ khi nào rồi.

- Ở mô mà chị có rứa?

- Tôi giấu hắn trong chuồng cọp. Thuốc ni hồi lúc còn ở làng, mạ tôi hay thoa cho tôi, hiệu quả lắm!

Cuộc nói chuyện đột ngột bị cắt ngang, vì một tiếng rống của tên cai ngục. Cây roi cá đuối trong tay hắn quơ vài đường trong không trung. Trước con mắt ngỡ ngàng của Nhất, hắn quật đầu roi xuống nền xi măng. Tiếng roi Đét! chua chát vang lên, thu hút toàn bộ sự chú ý của nhóm lao động và của mấy tên cai ngục khác. Trước mặt mọi người, tên cai ngục nọ gân cổ thét:

- Hai đứa tù kia, hú hí gì với nhau đó?

- Có nói chi mô, ông nờ. Tụi tôi chỉ bàn nhau coi làm cái chi để vác cái cây tê ra chỗ khác.

Ngân nhanh trí trả lời. Vừa hay cách chỗ hai người đứng chưa tới chục bước chân có một cái cây bị bão quật tới bật gốc, nằm chắn trước lối vào căn gác của cai ngục. Ngân khập khiễng chạy tới cái cây ấy, vỗ bồm bộp lên thân cây, chị nói:

- Mấy ông có dây thừng chi không? Tôi cột hắn lại rồi lôi đi cái một.

Gã cai ngục phá lên cười chế giễu:

- Đàn bà con gái, tóc mọc chưa tới vai như mày mà bày đặt vác cây.

- Vác được chớ răng không được? Đàn ông, đàn bà ngang bằng nhau.

Đoạn Ngân chỉ vào Nhất đương đứng tòng ngòng ở kia, giả vờ nịnh nọt:

- Mấy ông cho hắn phụ tôi một tay. Thân cây đổ chắn đường trạm gác mấy ông, làm răng mấy ông ra vô thoải mái được. Để tụi tôi vác hắn ra chỗ khác cho mấy ông nghe?

Tuy vẻ ngoài Ngân không được ưa nhìn, nhưng chất giọng chị thì thánh thót, ngọt ngào nịnh tai khỏi phải nói. Chỉ trong chưa đầy năm câu, mà chị đã thuyết phục được đám cai ngục cho mình và Nhất được làm việc chung rồi. Những tưởng việc vác cây này chỉ là chuyện nhỏ, nào ngờ đâu, đám cai ngục lại nảy ra một trò khác, để vắt kiệt máu của hai kẻ tù.

Chúng cột một đoạn dây thừng quanh eo Ngân và Nhất, đoạn còn lại thì cột vào thân cây, bắt cả hai dùng sức kéo lê lê thân cây dài hơn chục mét, nặng nửa tạ ra khỏi khuôn viên. Cây nhích được tới đâu, chúng đi theo quất roi vào hai bên bắp chân Nhất và Ngân tới đó. Ba bước đi, là đủ ba bước máu nhuộm đỏ nền, hoà vào nước mưa lại càng loang ra thêm. Nhiều anh em tù khác thấy cảnh hai đứa nhỏ chật vật đau đớn như thế, nên có ngỏ lời xin cai ngục cho mình tới phụ một tay. Đám cai ngục đương xem trò vui, tất nhiên không chịu, đã vậy còn đe doạ sẽ cắt lưỡi những ai dám đứng ra xin xỏ cho bọn họ.

Để trấn an bạn tù, cũng như không muốn để cho sự xung đột xảy ra giữa tù nhân và cai ngục, Nhất đành phải lên tiếng khuyên mọi người rằng:

- Em mạnh như trâu, cái thân cây ni răng làm khó được em. Mấy anh coi em nì...

Một tiếng "Hự!" thốt lên, Nhất chùn gối, nghiến răng, sợi dây thừng thít chặt như vòng tay ai đó đang ôm riết lấy eo cậu. Dây thừng dài như con rắn hổ mang hung tàn, căng thân người, há miệng cắn vào thân cây to lớn sần sùi. Nhất hơi rướn nửa thân trên, dùng toàn bộ sức lực kéo căng sợi dây, kéo theo thân cây nhích đi vài xen - ti - mét, trong tiếng hô hào, cổ vũ của những bạn tù đứng bên ngoài.

- Kéo đi Nhất! Kéo đi Nhất!

- Hắn mạnh dữ rứa. Cứ như Thánh Gióng.

- Thánh Gióng chớ răng nữa. Hắn là Thánh Gióng của Chín Hầm ni đó. Đừng coi thường, sau ni có khi hắn vượt tù luôn chớ không giỡn mô.

Ngân cũng không vừa gì, biết mình là thân con gái, không thể kéo mạnh bằng Nhất, nhưng chị quyết chẳng chịu thua. Chị dùng hai tay nắm chặt dây thừng, ngả hẳn người về phía sau mà lấy đà kéo. Dây thừng thô ráp cứa vào da tay, một lằn máu hiện lên, sợi dây thừng bây giờ giống như con rắn đổi một màu da đỏ rực.

- Chị bám vô vai em, đừng kéo nữa. Để em kéo!

- Mi điên à? Để mi kéo làm răng nổi?

Ngân quát lên, mạch máu xanh lét nổi cộm ở hai bên thái dương và đôi bàn tay.

- Tề, tôi nghe có tiếng đàn...

Nhất khựng lại, vì câu nói của Ngân. Cậu theo quán tính ngước lên trời, đôi tai dỏng lên, cố gắng gạt tiếng gió để nghe được tiếng đàn. Tiếng pi - a - nô được phát ra từ phía sau trại gác, là nơi ở của tên quản ngục Lê Văn Minh. Tiếng đàn vang như tiếng chim hót, trong sáng mà êm dịu làm sao. Nhất ngơ ngác hồi lâu, nhìn sang Ngân, cô cũng cùng một biểu cảm y chang cậu. Nhất hỏi:

- Ở đây có pi - a - nô?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com