CHƯƠNG 2: CON THẦY LĨNH
Càng về sau, giọng chị Trang mỗi lúc một trầm, và phảng phất một nỗi khổ đau khó nói. Nhung để ý, khoé mắt chị ầng ậc nước, chị mím thật chặt môi, tới độ máu tươi đổ ra hồi nào mà chẳng hề hay biết. Em đứng lặng hồi lâu, không biết phải trả lời chị thế nào, chỉ biết gật nhẹ đầu. Có lẽ đối với một người đã chinh chiến ngoài xa trường gần mười năm như chị, việc chứng kiến những người mạ mất liên lạc con như o Trinh đó đã là điều không còn quá xa lạ gì. Nhưng lần nào, chị cũng hoài cái cảm giác đau lòng, không nỡ khi phải nhìn thấy thân nhân của những người lính ấy ngã quỵ khi nhận được giấy báo tử của chồng, của con. Nhung chỉ mới vào đời lính chưa lâu, nên em còn ngây thơ lắm, chưa hiểu hết những nỗi mất mát khốn cùng, và những vết thương lòng mà chiến tranh gieo rắc. Thế nên khi thấy chị Trang khóc vì việc đó, em vẫn rất ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng tới độ, em không nghĩ rằng một người bình thường luôn tỏ ra nghiêm khắc như chị Trang sẽ khóc và làm nghiêm trọng hóa cái vấn đề mà theo em nghĩ là vô cùng "cỏn con" ấy.
Hai chị em im lặng một lúc, thì tiếng gọi của trưởng làng chợt vang lên xóa tan đi bầu không khí ngột ngạt. Trưởng làng nhờ chị Trang tới tuyên truyền cho nhanh để những đồng chí khác còn dùng cơm sớm, kẻo trưa thì đồ ăn nguội, mất ngon. Chị Trang nhanh chóng gạt nước mắt, xốc lại tinh thần. Nét mặt chị lại trở nên nghiêm nghị như mọi ngày. Rồi chị quay lưng rời đi, bỏ lại Nhung đứng đó với sự ngổn ngang quẩn quanh trong tâm trí.
Việc vận động bà con sơ tán khỏi nơi nằm trong tầm ngắm là một việc không phải quá khó khăn gì, nói chừng hơn mười phút là xong ngay. Việc tụi Mỹ lên kế hoạch ném bom xuống Huế, cụ thể là những nơi như Phong Điền, Hương Điền, Nam Hòa và Phú Lộc đã gây nên sự xôn xao rất lớn trong lòng người dân. Riêng quận Phú Lộc là nơi có thể trở thành trung tâm của vụ ném bom. Vậy nên, bên chiến khu Dương Hòa đã gấp rút cử các trung đội thuộc đại đội 5 đi tới các làng, các xã thuộc quận Phú Lộc nhằm vận động bà con sơ tán càng sớm càng tốt. Trong lúc vận động, chị Trang có hướng dẫn mọi người cách sơ tán thế nào cho đúng, và địa điểm các hầm trú ẩn của quận được đặt ở đâu, vì làng Vĩnh Hoá không có hầm trú ẩn.
Đáng lẽ ra việc xây hầm trú ẩn là việc mà làng nào cũng phải thực hiện, không kể làng nhỏ hay làng lớn, nhưng riêng làng Vĩnh Hoá, thì là một trường hợp cá biệt.
Còn nhớ cách đó hơn chục năm về trước, khi có lệnh phải xây hầm trú ẩn để giảm thiểu thương vong do những vụ ném bom chiến tranh diễn ra, tất cả mọi nơi trên ba miền đều đồng lòng làm theo. Làng nào, hay xã, huyện nào cũng đều đào hàng chục hầm trú ẩn nằm sâu dưới lòng đất. Làng Vĩnh Hoá tuy đã năm lần bảy lượt được vận động xây hầm, nhưng vị trưởng làng của làng này lại từ chối, với cái lý do rằng đất làng là đất thiêng, không thể tùy tiện đào hầm như thế được. Nếu phạm phải điều tối kị này, thì người dân trong làng sẽ đời đời chịu tai họa. Người làng còn tin rằng, sở dĩ làng này từ xưa tới giờ chưa bao giờ bị ném bom hay bị giặc tàn phá, ấy là do làng Vĩnh Hoá được ơn trên chở che suốt cả trăm năm nay. Trên đời này, không gì có thể ngăn cản được một tập thể mê tín dị đoan. Vận động từ ngày này qua tháng nọ, ấy thế mà vẫn chẳng có tiến triển gì. Đương lúc mọi người đã gần như bỏ cuộc vì vị trưởng làng cứng đầu và sự mê muội ơn trên ấy, thì tin tức ném bom lại một lần nữa dấy lên. Lần này, biết chắc rằng không thể ngó lơ được, nên mọi người trong chiến khu chỉ còn biết quyết liệt cử người tới vận động. Không vận động được, thì bắt ép. Họ không muốn một làng có hàng trăm hộ dân phải chịu bỏ mạng vì cái sự mê tín ấy.
Trước khi hành quân tới làng, chị Trang cũng đã được thủ trưởng phổ biến rõ tình hình của làng, để tìm cách ứng biến. Chị vốn là một người thông minh, nổi tiếng với tài ăn nói vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn, vậy nên, việc thuyết phục người làng đi sơ tán và xây hầm trú ẩn, ai trong chiến khu cũng đều tin rằng, nhất định chị Trang sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đứng giữa một rừng người già trẻ, gái trai, chị Trang nhận thức rõ được mình cần nói điều gì, và không cần nói điều gì. Việc hướng dẫn sơ tán là việc dễ, nhưng còn việc vận động xây hầm trú ẩn, đó mới là việc khó. Vừa xong phần hướng dẫn địa điểm sơ tán xong, chị liền quay sang nói với ông trưởng làng, bằng một giọng nói nhẹ nhàng nồng ấm, chị trình bày rành mạch rằng:
- Dạ, chừ ông cho cháu nói tiếp việc cuối. Nhiệm vụ của tụi cháu không phải chỉ dừng lại ở mỗi việc hướng dẫn địa điểm hầm trú ẩn cho mọi người, mà tụi cháu còn phải vận động người làng ta trong việc xây hầm nữa. Các o, các bác, các ông và các bà cũng biết, thời chiến, mỗi mạng sống của dân là mỗi mạch máu chảy trong người của Đảng, của chiến sĩ. Rứa nên, bộ đội tụi cháu phải có trách nhiệm bảo vệ cho người dân. Mà điều chừ thời thế khốc liệt quá, tụi cháu không thể theo sát mọi người được. Việc xây hầm trú ẩn ở mỗi làng, là việc mà người làng ta có thể bảo vệ được mạng sống của chính mình. Mỗi xã, mỗi huyện còn rất nhiều làng khác. Nếu làng mô cũng không chịu xây hầm trú ẩn, thì hầm trên huyện, trên xã nào mà chứa cho đủ. Chừ mọi người chần chừ vì tin rằng nếu đào hầm sẽ phạm phải điều cấm kị của ơn trên. Rứa cháu xin phép hỏi, nếu giặc ném bom xuống Vĩnh Hoá ta, ơn trên có hiện ra cứu mọi người được không?
Câu hỏi của chị Trang khiến cho bầu không khí hội họp trong làng trở nên im phăng phắc. Những đứa trẻ vừa rồi còn nô đùa chạy nhảy khắp nơi, hay sà vào lòng cha mạ đùa nghịch cũng im lặng. Mọi người trầm lặng nhìn nhau, nhìn nhau xong, mọi người lại nhìn trưởng làng đương ngồi nghiêm nghị trên chiếc ghế mây đặt ở bậc thềm đình làng. Ông vuốt chòm râu bạc trắng, cái miệng móm mém chóp chép liên tục, dường như, ông đương suy nghĩ về lời nói của đồng chí tiểu đội trưởng vừa phổ biến.
Được chừng hơn một phút, trống ngực chị Trang, và của cả tiểu đội 3 đều đập thình thình. Các đồng chí ấy sợ, trưởng làng sẽ từ chối lời vận động này, hoặc nếu tệ hơn, có khi người làng cũng sẽ từ chối luôn việc đi sơ tán. Các đồng chí chiến sĩ hồi hộp chờ đợi câu trả lời từ người dân, còn người dân, thì chờ đợi câu trả lời của trưởng làng. Một vòng luẩn quẩn như thế, cho tới khi cuộc họp xuất hiện giọng nói của một người con gái. Người ấy đứng giữa hàng người đông đúc, giơ tay nói rằng:
- Cháu thấy...lời nói của đồng chí tiểu đội trưởng rất đúng. Chừ không thể trông đợi vô ai để cứu chúng ta nữa cả, chúng ta phải tự cứu lấy chính mình thôi.
Sự tán thành của người con gái ấy đã trở thành tâm điểm thu hút tất cả ánh mắt từ mọi người. Nhung đứng trong hàng có đôi chút sửng sốt. Em thúc vào mạn sườn bạn mình, thì thầm hỏi:
- Ai rứa? Ăn nói răng nghe cứng dữ.
- Có biết mô.
Câu trả lời ngắn gọn của người bạn làm Nhung chỉ còn biết nhún vai. Em chăm chú quan sát người nọ, đôi đồng tử giãn ra ngạc nhiên. Người con gái ấy, kỳ thực rất đẹp. Đứng cách xa nhau cả mấy mét, ấy thế mà Nhung vẫn nhìn rõ được nét mặt thanh tú của người nọ, rõ chẳng khác gì sử dụng cái kính lúp của thủ trưởng Long mà soi.
Cuộc đời Nhung tính tới nay đã mười bảy tuổi, em đã được chiêm ngưỡng qua rất nhiều vẻ đẹp khác nhau của những người phụ nữ ở Phong Điền mình. Đa phần, các o, các chị ấy đều mang nét đẹp chân chất, mộc mạc của người làng quê. Cho tới khi gia nhập chiến khu, Nhung còn được nhìn ngắm nét đẹp kiên cường, mặn mà của những đồng đội cùng chung công tác. Thế nhưng, dù có được chiêm ngưỡng bao nhiêu nét đẹp đi chăng nữa, thì bây giờ, người con gái đứng trước mặt Nhung như đã hoàn toàn chiếm trọn cảm tình của em, không chỉ bằng nét đẹp, mà còn bằng cách người nọ dám đứng lên bày tỏ ý kiến của mình. Ở cái làng phong kiến Vĩnh Hoá, việc một người phụ nữ dám đứng lên nói giữa dám đông thế này là một việc còn hiếm hơn là lên trời.
- Chuyện ni là chuyện hệ trọng, không thể quyết định ngày một ngày hai được mô.
Trưởng làng gằn giọng đáp lại cô gái. Không chịu quy phục, cô ấy vẫn tiếp tục nói:
- Nhưng cháu nghe nói, còn ba hôm nữa là giặc sẽ ném bom xuống đó. Nếu còn chần chừ, e rằng sẽ không kịp...
Trưởng làng dọng mạnh đầu gậy ba – ton xuống nền gạch, ngắt ngang lời cô gái:
- Răng làng ni bị giặc phá được? Mọi người quên, làng mình được bảo vệ bởi ơn trên à? Từ xưa tới dù đứng giữa rừng đạn mưa bom, mà chưa khi mô ta thấy làng phải chịu cảnh tan tác như các làng khác.
Nói xong, ông ngửa mặt lên trời và cười thật lớn như thể hiện rằng, những điều mình nói ra là hoàn toàn đúng. Còn riêng Nhung, em chỉ thấy lão ta chẳng khác gì đương phát rồ.
- Dạ thưa ông, rứa vẫn có chuyện chi quan trọng hơn chuyện sống hay răng ạ?
Cô gái nọ tiếp tục hỏi. Lần này, câu hỏi của cô đã khiến cơn cười man dại của lão trưởng làng vụt tắt.
Trưởng làng trở mặt lộ vẻ giận dữ, quắc mắt nhìn cô gái. Rồi ông hướng về phía hàng người ngồi bên tay trái mình, dáo dác nhìn quanh như đương tìm ai đó. Vài giây sau, như tìm được kẻ mình muốn rồi, ông bèn lớn tiếng quát:
- Mi là con thầy đồ, răng cha mi không dạy mi, để mi ăn nói với người lớn như rứa à? Mi định dạy đời ai? Thầy Lĩnh mô? Ra mà dạy con mình đi chớ.
Tiếng quát của ông khiến các chiến sĩ kinh hồn bạt vía.
Ngay khoảnh khắc này, Nhung chợt nhớ tới một sự việc. Hồi vài tháng trước trong lúc đi làm nhiệm vụ dò bom trên các cao điểm, tiểu đội của Nhung được chỉ huy bởi một người chỉ huy trưởng đã ngoài sáu mươi. Gương mặt lão ta thoạt nhìn vô cùng có phúc, nhưng chỉ khi tiếp xúc rồi mới thấy, lão ấy thực chất là một kẻ vô liêm sỉ, cả gan tham ô tiền bạc của đơn vị. Sau khi bị phát hiện, đơn vị liền đưa lão ra toà án binh, về sau lão bị tống tù chung thân. Bây giờ nhìn vị trưởng làng này, ký ức về lão chỉ huy ngày trước chợt ùa về trong tâm trí Nhung. Nếu đem lão ta và lão trưởng làng đặt cạnh để so sánh với nhau, nhất định là kẻ tám lạng, người nửa cân. Khi nhìn lại cảnh tượng lão ta đương lăng mạ cô gái ấy, Nhung tức tới độ đỏ mắt. Em định đứng ra ngăn cản lão, nhưng một đồng chí bên cạnh thấy em tức như thế, thì vội ngăn cản. Họ ghé sát vô tai em, nói:
- Cậu đừng manh động. Chừ lão nớ đương giận lắm. Cậu mà nói, thể mô cũng khiến mọi chuyện rắc rối lên cho coi.
Nhung nghĩ tới chị tiểu đội trưởng, nghĩ tới bộ mặt của chiến khu khi em trót hành động dại dột, em bèn nhắm tịt mắt, bịt cả hai tai để khỏi nghe phải những lời chua chát ấy.
Lão ta chửi tới chán chê, ấy thế mà chị Trang vẫn không nghe cô gái kia hồi đáp nửa lời. Chị chỉ thấy, cô gái đứng cúi gằm mặt, một nét mặt vô cảm từ cô hiện ra khiến chị Trang hơi e dè. Lão cứ kêu cha, gọi mạ cô gái ấy ra, ấy thế mà vẫn chẳng có ai chịu ra để nhận là cha, là mạ của cô gái cả. Không gian xung quanh mỗi lúc một căng thẳng khiến chị Trang, và tiểu đội 3 lâm vào thế khó xử. Từ trước tới giờ chị đi tuyên truyền cho rất nhiều nơi, gặp rất nhiều trường hợp có người ngoan cố không chịu nghe, những trường hợp ấy, chị Trang đều có cách giải quyết, riêng trường hợp lão trưởng làng của làng Vĩnh Hoá này, chị đành bó tay không biết nên giải quyết làm sao.
- Răng mi không trả lời tau? Chừ để tau tống cổ mi ra khỏi làng, là mi không sống nổi mô!
Dứt câu, lão đứng phắt dậy định đi tới động tay động chân với cô gái, thì chị Trang đã kịp lao tới cản lão lại. Chị ngăn lão, trấn an lão, và trấn an cả mọi người. Các chị em trong tiểu đội thấy tình hình có vẻ sắp xảy ra một vụ ẩu đả thì cũng nhanh chóng vô phụ giúp tiểu đội trưởng một tay. Sau khi được bộ đội can thiệp, có vẻ như lão cũng không muốn làm ầm thêm nữa. Lão như một đứa trẻ không đòi được kẹo thì lăn ra ăn vạ. Và quả đúng vậy thật, lão lăn đùng ra giữa sân đình, ôm ngực làm bộ đau đớn. Lão lăn qua lăn lại, thở hơi lên, trợn mắt trông vô cùng ghê sợ. Chị Trang nghĩ lão lên cơn đau tim, nên bèn nhờ các anh, các bác trong làng đưa lão về nhà nghỉ ngơi, ngặt, lão cứ vùng vằng không chịu.
- Tau phải đi gặp cha mạ mi! Tau phải đi gặp cha mạ mi! Răng mi dám nghênh mặt dạy đời tau, dạy đời các cụ?
Lão đấm thùm thụp vô ngực mình như thế.
- Đất ni là đất thiêng, mi không được phép lật mồ, lật đất của tổ tiên lên như rứa. Kẻ nào dám đào hầm, xây hầm, tau thề tau sẽ bắn chết những đứa đó. Tau không tha cho mô.
Chị Trang vẫn không một lời trấn an lão, vì chị biết, những người cổ hủ và phong kiến như lão, có trấn an bao nhiêu câu cũng chỉ như nước đổ lá môn. Sau khi có người cưỡng chế đưa lão về nhà xong, sân đình mới được yên ổn. Cô gái vừa rồi bị lão mắng cũng lẳng lặng ngồi xuống. Bên cạnh cô, các o và các chú vẫn luôn miệng bàn tán xôn xao với nhau.
- Đáng sợ rứa.
Nhung thở phào một hơi, khi nhận ra tình thế đã giảm đi phần nào căng thẳng. Chính bản thân em cũng không ngờ, làng Vĩnh Hoá từ xưa tới nay vẫn giữ hoài cái sự phong kiến ấy. Tự dưng, Nhung không còn cảm thấy yêu làng như yêu quê hương đất tổ nữa. Thay vào đó, một nỗi kinh sợ dấy lên trong lòng, khiến em có phần dè chừng với chính ngôi làng này, và cũng với chính những người dân sống ở đây.
- Có mặt bộ đội ở đó mà lão còn như rứa. Thử hỏi bình thường lỡ có ai làm phật lòng lão, thì lão còn tới mức nào nữa?
Người bạn chơi với Nhung cũng thì thầm vô tai em như thế.
Sự việc ấy diễn ra khiến chị Trang không thể tiếp tục buổi tuyên truyền được. Mặc dù không muốn, nhưng chị phải đành giải tán người dân và kêu đồng đội ra về. Đương lúc mọi người chán nản khoác ba lô và súng lên vai, thì các o trong làng chạy tới giữ chân tiểu đội lại. O nào o nấy đều nài nỉ rằng:
- Các o ở lại ăn bữa cơm với tụi tôi cho vui. Thức ăn đã chuẩn bị xong hết rồi.
Mải mê lo lắng về chuyện không tuyên truyền được khiến chị Trang quên bén đi bữa cơm với dân làng, cho tới khi các o nhắc, chị mới sực nhớ ra. Chị vội bảo các đồng chí khác bỏ ba lô và súng xuống, sau đó đáp các o bằng giọng dịu dàng:
- Tụi con quên mất. Chừ để tụi con phụ các o dọn cơm ra nghe!
O Trinh đáp. Cùng lúc đó, Nhung để ý thấy bọng mắt o ấy đã sưng lên chùm bụp. Chắc o vì chuyện thằng con trai mình mà khóc đây mà.
- Cơm đã được dọn sẵn rồi, các o chỉ việc rửa tay vô ăn thôi.
Nói đoạn, o Trinh chỉ về phía cái giếng làng được xây cách ngôi đình chừng chục mét và dặn:
- Các cô ra tê mà rửa tay chân cho mát. Xong thì ra ăn nhé.
Chị Trang niềm nở gật đầu.
Tiểu đội 3 xếp hàng thật ngay ngắn ra giếng nước rửa tay cho thật nhanh, vì mọi người không muốn các o phải đợi lâu. Mười hai người đứng vây xung quanh cái giếng nhỏ xíu, chị Trang giúp các đồng đội mình múc nước từ giếng lên và xối cho các o, mỗi o một ít vừa đủ để làm sạch tay chân.
- Các đồng chí đã xong chưa?
- Báo cáo! Đã xong!
Mọi người cùng đồng thanh hô vang. Chị Trang hài lòng gật đầu, nói:
- Chừ mọi người tập trung ra sân đình, các o đương đợi. Bên phải...Xoay!
Tiếng dép cao su vang lên loạt xoạt, động tác xoay phải được các nữ chiến sĩ thực hiện đều răm rắp. Chị Trang thổi hồi còi quen thuộc, hô to:
- Tất cả đi đều!
- Chưa chưa! Còn tôi nữa đồng chí ơi!
Ngay lúc những người khác định đi đều, tức thì có đồng chí nào đó ngắt ngang sự nghiêm túc ấy. Chị Trang không cần nhìn cũng biết kẻ đó là ai. Chị trừng mắt nhìn về phía cuối hàng, đồng chí Nhung nghịch ngợm đương còn loay hoay làm gì đó với chiếc thắt lưng. Chị nghiêm giọng hỏi:
- Đồng chí bị chi rứa?
- Báo cáo! Khoá cài thắt lưng của tôi bị bung, tôi không cài vô được.
- Lí do vì răng lại hư?
Nhung vừa đáp, vừa khổ sở luồn khóa cài vào thắt lưng vải bố.
- Báo cáo! Tôi không biết.
- Vậy đồng chí định làm răng với nó?
- Báo cáo! Các đồng chí cứ ra sân đình trước, khi mô sửa xong, tôi sẽ ra ngay.
Chị Trang lắc đầu ngao ngán, nhưng chị vẫn không làm theo ý kiến của Nhung, chị muốn nhân dịp này phải đó cho con bé ấy một bài học vì sự cẩu thả và nghịch ngợm của mình. Chị đứng nghiêm, hai tay ép sát vô đùi. Tiểu đội thấy chị như vậy, cũng tự giác đứng nghiêm theo.
- Trong quân đội, một trong số những điều cấm kỵ nhất là không được bỏ rơi đồng đội của mình. Có sướng khổ, thì cùng chịu chung, không có bất kì ai bị bỏ lại phía sau. Nay đồng chí Nhung bị hư khoá cài thắt lưng, chúng ta không thể bỏ mặc đồng chí nớ một mình được. Vậy nên tôi đề nghị, cả tiểu đội sẽ cùng đứng đó, đợi khi nào đồng chí Nhung sửa xong thắt lưng thì mới được đi. Về bữa ăn với dân làng, tôi sẽ đi thông báo cho mọi người là hãy ăn trước, vì tiểu đội có nhiệm vụ đột xuất. Các đồng chí đồng ý không?
Chị Trang vừa đưa ra hình phạt xong, hàng chục con mắt sắc lẹm từ các chị em khác trong tiểu đội đều hướng về Nhung, như muốn ăn tươi nuốt sống một kẻ mang đầy tội lỗi. Tuy có bực tức vì sự bất cẩn của Nhung, nhưng mọi người không ai dám đứng lên phản bác lại điều gì, vì suy cho cùng, đó là điều luật của quân đội. Một cá nhân làm sai, thì một tập thể phải chịu. Chị em ai cũng biết rõ điều đó, họ chỉ giận Nhung trong chốc lát, vì con bé báo hại cả tiểu đội phải đứng ngoài nắng không biết khi nào mới được ăn cơm. Nhìn cái khoá cài bung hẳn ra khỏi đó lưng thế kia, không biết khi nào cô bé mới có thể sửa xong nữa.
- Mi có kim chỉ chi không? Cho tau mượn.
Nhung khẩn thiết hỏi người bạn bên cạnh mình, nhưng người ấy lại lắc đầu đáp:
- Không. Đi tuyên truyền như rứa mà đem kim chỉ làm chi?
- Chết thiệt! Cái ni phải khâu lại bằng chỉ, thì may ra mới đeo được mi ơi!
Nhung hoảng loạn, mếu máo gần như sắp khóc. Đôi bàn tay trắng nõn của em cứ cầm khoá cài và ra sức nhét nó vô đó thắt lưng, với cái hy vọng rằng cái khoá sẽ dính vào đó. Nhưng vô dụng, khoá cài đã bị bung ra hẳn, dù có nhét thế nào thì cũng không làm sao giữ cố định nó trên đó lưng được. Hoảng quá, Nhung không biết làm thế nào. Các chị em khác đương đói lả và chờ mình, nếu cứ như thế, e rằng cả tiểu đội phải đứng ngoài nắng cả buổi trưa, hơn thế nữa, còn phải nhịn đói. Lúc này, Nhung mới cảm thấy cái sự nghịch ngợm, táy máy tay chân của mình nó tai hại xiết bao.
Cái thắt lưng này hôm qua em đã dùng nó để đập chết một con cóc, vì nó đã nhảy lên bụng em đương lúc em nằm võng ngủ trưa. Nhưng mắt nhắm mắt mở, Nhung không đập trúng con cóc, mà lại đập trúng tảng đá phía dưới chân mình, vì con cóc đã nhảy xuống nấp sau tảng đá ấy. Em còn nhớ âm thanh Cốp! và Keng! của khoá cài thắt lưng vang lên lạnh lẽo thế nào. Lúc đó do lực đập mạnh, cái khoá đã sắp bung ra, ấy thế mà Nhung vẫn không báo cáo với thủ trưởng xin cấp lại đó lưng mới, và vẫn ngoan cố mang nó đi cho buổi tuyên truyền hôm nay. Tới bây giờ, chính cái thắt lưng ấy đã khiến em và cả tiểu đội có một phen khốn đốn.
- Mi sửa xong chưa? Răng mà lâu rứa?
Người bạn ngước nhìn bầu trời nắng gắt, mồ hôi các chị em đều chảy ròng trên trán. Họ sốt ruột quá, liền hỏi Nhung. Câu hỏi ấy vô tình đã khiến Nhung vốn đã hoảng thì nay lại càng hoảng hơn. Tay em cầm khoá cài mà run như cầy sấy, em thì thào đáp:
- Tau không gắn lại được.
Rồi em hơi ngả người về phía trước để quan sát sắc mặt của tiểu đội. Người nào người nấy, mặt mày đỏ bừng bừng vì sức nóng của buổi trưa xứ Huế, mồ hôi mồ kê chảy đầm đìa trên những gương mặt nhăn nhó. Không khí đã trở nên ngột ngạt, nóng bức hơn bao giờ hết.
- Đồng chí Nhung!
Nhận thấy đã trôi qua hơn năm phút mà Nhung vẫn chưa có động tĩnh gì, chị Trang lập tức gọi.
- Báo cáo! Tôi có mặt!
- Đồng chí có sửa được thắt lưng không?
Ban đầu, Nhung vì tự ái nên định trả lời là "Có", sau cùng, cơn đói bụng đã không thể chiến thắng được sự tự ái ấy, nên em bèn lắc đầu.
- Tôi hỏi đồng chí, và yêu cầu đồng chí phải trả lời cho tôi. Không được lắc, hoặc gật đầu.
Câu quát của chị Trang khiến cả người Nhung mềm nhũn ra như con giun. Em giơ tay chùi nước mắt, khóc oà lên và đáp:
- Báo... báo cáo! Tôi sửa, hức... sửa không được.
Nói rồi, em gục mặt vào cánh tay, khóc ngon lành như một đứa trẻ vừa bị quở phạt. Cả tiểu đội 3 thấy Nhung khóc, ai nấy đều ngỡ ngàng nhìn nhau. Từ trước tới giờ, các chị em chưa từng thấy Nhung rơi một giọt nước mắt nào. Nó quậy thì quậy, chị tiểu đội trưởng phạt thì cứ phạt, nhưng đó là lần đầu tiên mọi người thấy con bé bị phạt mà khóc rấm khóc rức như thế. Ngay tới chị Trang cũng không tin vào mắt mình. Bả vai Nhung run lên bần bật, tiếng nức nở phát ra từ cổ họng em mỗi lúc một nhiều, khiến một người nghiêm khắc như chị Trang đó cũng không cầm lòng được mà nhẹ giọng hỏi:
- Răng đồng chị lại khóc?
- Tôi làm... tôi làm liên luỵ tới các đồng chí. Tôi khiến cho các đồng chí phải bị đứng nắng và nhịn đói...
Giọng nói của Nhung trở nên nghẹn như có thứ gì đó chắn ngang cổ họng, khiến lời em vừa thốt ra vô cùng khó nghe. Những đồng chí khác gần như không nghe được em nói gì, chỉ có duy nhất chị Trang là nghe được.
Chị Trang khẽ bước tới đối diện em, tấm lưng nhỏ và mảnh mai của chị chìa ra ngoài, như để che bớt đi phần nào sự nắng gắt cho con bé. Chị trầm giọng hỏi:
- Đồng chí đã biết lỗi chưa?
Nhung gật đầu lia lịa. Hai mắt em dán chặt xuống nền đất, không dám ngước lên nhìn tiểu đội trưởng của mình dù chỉ là một giây.
- Lần này xem như tôi cảnh cáo đồng chí, để đồng chí biết lỗi mà bảo quản quân tư trang của mình cho tốt. Khi ra ngoài chiến trường, trong lúc phải đối đầu trực tiếp với giặc, có thể đồng chí bị hư thắt lưng, không ai nói gì đồng chí, hoặc dép đồng chí bị sứt quai, bung đế, đồng chí có thể đi chân không chiến đấu cũng được. Mà đối với các nhiệm vụ như tuyên truyền, đồng chí gặp mặt người dân, yêu cầu đồng chí phải giữ đúng tác phong về quân phục và cử chỉ, lời nói. Những đồ đồng chí mặc, những điều đồng chí làm chính là bộ mặt của chiến khu nói riêng, và của người lính nói chung. Chừ khoá cài thắt lưng đồng chí bị hư, đồng chí không đeo được, người dân cũng không để ý hay bắt bẻ đồng chí. Nhưng đối với người lính trong hoàn cảnh ni, đó là sai tác phong, và một khi sai tác phong sẽ bị kỷ luật. Đồng chí có hiểu không?
- Tôi hiểu.
Hai chữ " Tôi hiểu" của Nhung phát ra lí nhí trong cổ họng. Nếu như bình thường, chị Trang sẽ nghiêm khắc nhắc em rằng phải nói to rõ ràng, nhưng hôm nay thấy Nhung khóc nức nở thế này, chị chẳng còn lòng dạ nào mà cứng rắn được nữa. Chị gật đầu, dịu dàng xoa đầu em, hệt một người chị đương dỗ dành em gái. Chị lấy trong túi áo ra chiếc khăn mùi xoa và giúp em lau nước mắt.
- Đồng chí nín khóc. Chừ tôi tha cho đồng chí, đồng chí ra ăn với mọi người nghe?
Sự chăm sóc quá đỗi ân cần của chị Trang khiến Nhung mủi lòng. Em cố kiềm nước mắt, nhưng chẳng hiểu sao nước mắt cứ chảy ra hoài, chảy như một dòng thác không bao giờ ngừng lại. Chị em trong tiểu đội thương Nhung là em út, vậy nên bèn xúm xụm lại với nhau, cùng tiểu đội trưởng dỗ dành em. Mọi người xoa đầu em, động viên và trấn an em, không còn sự cứng ngắc, hay nghiêm túc nào ở đó nữa. Các chị em quây quần với nhau như một gia đình, và đối xử với Nhung như một đứa em ruột thịt.
Mãi một lúc lâu sau, nhờ có sự an ủi từ mọi người, Nhung cuối cùng cũng nín khóc. Con bé giờ mới dám ngẩng mặt nhìn chị Trang. Khi bắt gặp nụ cười tươi rói cùng ánh mắt dịu dàng của chị, mọi cảm giác tội lỗi chất chứa trong lòng em như đều tan biến hết cả.
- Tiểu đội ta mau ra sân đình đi, dân làng đương chờ. Còn Nhung, rửa mặt rồi vô sau nghe.
Nhung gật đầu đồng ý. Nhìn bóng lưng của mười một chị em đi càng lúc càng xa, Nhung mới dám lủi thủi múc nước từ dưới giếng lên rửa mặt. Em trầm lặng nhìn xuống giếng, Nhung vốn định xem thử gương mặt mình khi khóc có xấu xí lắm không, nhưng tiếc thay giếng đã sắp cạn, không thể soi bóng mặt em được nữa. Đương lúc Nhung chuẩn bị lấy gào múc nước, thì tức thì, phía sau lưng em vang lên giọng nói trầm bổng của ai đó.
- Đồng chí khóc à?
Nhung giật bắn người, vội vã quay sang. Hoá ra, người đương đứng sau lưng em là cô gái bị trưởng làng mắng vừa nãy. Bây giờ, Nhung mới có dịp được nhìn rõ hơn mặt mũi của cô ấy. Chỉ cách nhau chưa tới mười bước chân, ngũ quan người nọ được ánh sáng rọi vào, càng thêm phần rực rỡ và xinh đẹp, hệt như một đoá hoa đương đắm mình trong nắng. Nhung vì chiêm ngưỡng nhan sắc ấy mà thất thần cả mấy giây, hồi lâu sau, em đáp:
- Tôi có khóc mô.
Người nọ phì cười, chắp hai tay sau lưng, họ chậm rãi tới bên cạnh em.
- Đồng chí giấu tôi làm chi? Vừa nãy tôi đứng nấp ở gốc cây kia, thấy đồng chí bị tiểu đội trưởng phạt. Răng đồng chí bị phạt?
Nhung kiễng chân nhìn ra phía tay phải, quả đúng ở đó có một cây phượng, thân cây to, đủ để che khuất một người có vóc dáng mảnh mai như cô gái đây. Em tin những lời cô gái nói, rồi đỏ mặt, ngại ngùng vì chuyện mình chịu phạt bị người lạ nhìn thấy. Em nhìn lảng sang chỗ khác, lắp bắp đáp:
- Cô...cô hỏi làm chi rứa? Tôi bị phạt thì kệ tôi.
- Thắt lưng đồng chí bị hư phải không?
Câu hỏi của cô gái khiến Nhung sững sờ. Em im lặng không đáp, chỉ nghía xuống cái thắt lưng đương cầm trong tay.
- Không trả lời, vậy tôi đoán đúng rồi. Đồng chí đưa tôi xem thử, nếu sửa được, tôi sẽ sửa cho đồng chí.
- Thiệt không?
Như một đứa trẻ, Nhung mở to mắt hỏi. Cô gái gật đầu, khẽ đáp:
- Thiệt mà. Đồng chí đưa đây.
Nhung liền đưa thắt lưng của mình cho cô gái, với hy vọng cô ấy sẽ giúp mình sửa được cái nào hay cái đó. Trong sự ngóng chờ của Nhung, cô gái vẫn chậm rãi quan sát khoá cài thật kĩ, rồi thử vài lần gắn khoá cài vào dây lưng xem thử thế nào. Sau đôi ba lần thất bại, cô ấy trả thắt lưng lại cho Nhung, nói:
- Nó hư nặng rồi, không sửa được mô.
Gương mặt Nhung tràn ngập một nỗi thất vọng.
- Rứa thôi, để khi về tôi lên thủ trưởng, xin thủ trưởng cấp cho tôi thắt lưng khác.
Đương định quay đi múc nước để rửa mặt, thì người con gái tiếp tục bắt chuyện với Nhung:
- Thằng em tôi đi bộ đội, kỳ trước hắn đem về một cái thắt lưng còn mới toanh. Nếu đồng chí muốn, tôi sẽ đưa cho đồng chí mượn thắt lưng của hắn.
Nhung quay phắt sang, lại một câu nói nữa của cô gái khiến em ngạc nhiên.
- Cô dám làm rứa?
- Có chi mà không dám. Nếu bộ đội cần, cái nhà tôi cũng cho.
Nhung đắng đo không biết nên đồng ý hay từ chối, trong lúc đó, cô gái nọ đã tiến sát lại em thêm vài bước nữa. Lần này, cả hai người chỉ cách nhau chưa tới một sải tay. Không biết vì sao, tự dưng Nhung cảm thấy có một sự nguy hiểm đương rình rập mình. Em bất giác lùi về sau vài bước, hai má ửng lên màu hồng như vừa đánh phấn. Cô gái không nói không rằng, chỉ cầm lấy cái gào múc nước em còn để trên thành giếng, cúi người múc một gào rồi đưa cho em.
- Nước giếng làng tôi sắp cạn, đồng chí không cẩn thận là té nhào xuống giếng đó.
- Tôi... cảm ơn.
Nhung thẹn thùng nhận lấy cái gào chứa nước, dội thẳng lên mặt không chút chần chừ. Quỷ thật, khi không em lại thấy thẹn? Trước giờ em có biết thẹn là gì đâu, sao hôm nay...
Nước mát hắt vô da, khiến tinh thần Nhung tỉnh táo và sảng khoái hơn hẳn. Sau khi rửa mặt xong xuôi, em vẫn thấy cô gái đó đứng bên cạnh chưa rời đi. Nhận ra nếu cứ im lặng thế này sẽ không hay, nên em liền mở lời hỏi rằng:
- Rứa cô có phải là cái cô vừa rồi đứng lên nói chuyện với trưởng làng không?
Câu hỏi vừa thốt ra khỏi miệng, Nhung lập tức hối hận không thôi. Em tự chửi bản thân, đã biết rõ đó là cô gái ấy rồi, làm sao mà cứ hỏi những câu vô lí ấy thế?
- Phải, là tôi đó.
- Rứa cô tên chi? Bao nhiêu tuổi để tôi tiện xưng hô. Gọi đồng chí mãi, cũng không hay mô.
Cô gái nhoẻn miệng cười, nhỏ nhẹ đáp:
- Tôi tên Chi, năm ni mười tám tuổi. Cha tôi là thầy đồ Vũ Lĩnh dạy học ở làng ni. Còn đồng chí?
Khi biết người nọ lớn hơn mình một tuổi, Nhung liền đổi cách xưng hô.
- Em tên Nhung, mười bảy. Rứa o Chi lớn hơn em một tuổi.
- Răng mà gọi o? Gọi cô nghe kì rứa. Tôi với em chênh nhau có mấy tuổi mô.
- Rứa gọi chị được không? Chị Chi.
Chi cười, nàng cười, vì cái sự ngây ngô này của Nhung khiến nàng cảm thấy em vô cùng dễ thương. Chi gật đầu hài lòng, rồi nàng giục rằng:
- Em vô ăn với tiểu đội nhanh lên. Đồ ăn ngon lắm, các o kỳ công chuẩn bị từ trưa tới chừ.
Nhung rướn cổ nhìn về phía sân đình cách giếng không xa. Ở đó vang lên tiếng cười nói rôm rả của mọi người, cả tiếng những ly rượu va vào nhau leng keng khiến Nhung cũng ham vui muốn chạy tới. Em chùi đại tay ướt vô áo quần cho khô, rồi hào hứng chạy ra sân đình. Nhưng khi chỉ vừa chạy được vài bước, đột nhiên em dừng lại và nhìn về sau lưng, Chi vẫn đứng ở giếng nước ấy không chịu đi. Hiếu kỳ, em vội trở ngược lại, gặp Chi rồi, em hỏi:
- Răng chị Chi không đi ra đình?
Chi buồn bã đáp:
- Tôi không đi mô, em đi đi.
- Có chuyện chi à? Chẳng lẽ, chị Chi sợ trưởng làng răng?
Nhắc tới đó, hình ảnh Chi thân cô thế cô nói chuyện với lão trưởng làng, rồi bị lão ấy lăng mạ sỉ nhục trước bàn dân thiên hạ hiện về trong tâm trí khiến Nhung tức anh ách. Vốn định mở miệng khuyên nhủ Chi vài câu cho nàng đỡ phần nào buồn tủi, nhưng chưa kịp gì hết thì nàng đã đáp:
- Tôi không sợ, có sợ, là tôi đã không dám đứng lên ý kiến rồi. Tự dưng tôi thấy trong người không được khỏe, nên muốn về nghỉ một chút.
Nói rồi, Chi mệt mỏi đi ngang qua mặt Nhung. Dưới trời nắng nóng như đổ lửa, bóng dáng Chi bước đi một cách xiêu vẹo, càng lúc càng xa tầm mắt Nhung hơn. Lại một lần nữa, không hiểu lí do gì mà thâm tâm em không nỡ để nàng ấy phải đi về một mình. Mọi người trong làng đương tập trung đông đúc và ăn uống náo nhiệt ngoài sân đình, cớ sao Chi lại phải đơn độc đi về thế này? Nghĩ tới đó, Nhung lập tức chạy ùa theo Chi, vừa chạy, em vừa vẫy tay gọi thật to:
- Chị Chi ơi! Ra ăn một chút rồi về. Về nhà giờ ni, không khéo gặp ma đó chị ơi!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com