CHƯƠNG 4: CHIẾN KHU DƯƠNG HOÀ (2)
Trước ngày 18 định mệnh năm 1960, đồng chí Trung - lính thông tin công tác tại một đơn vị kháng chiến nhỏ đóng quân ở Khe Tre đương cùng một đồng đội khác của mình trèo lên cây bồ kết được trồng bên cạnh thác Mơ, để hái những trái bồ kết treo lủng lẳng trên đó. Anh Trung là người trèo, anh còn lại đứng phía dưới, cầm giỏ mây canh những lúc anh Trung ném bồ kết xuống thì hứng. Bọn họ đã trèo hết các cây bồ kết ở thác Mơ này, hái cũng đã đầy giỏ, nhưng dường như anh Trung nọ vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Anh đu bám trên cây bồ kết trồng gần con thác nhất, sóng thác đánh tới rát mặt, phía dưới là những mỏm đá nằm rải rác, lởm chởm trên dòng nước đục ngầu đương còn chảy xiết sau trận bão lớn đêm qua. Anh vươn tay, cố gắng chạm tới trái bồ kết cuối cùng ở tít đầu cành bên kia. Sau khi hái xong, anh ném xuống cho đồng đội mình, rồi ngửa đầu quan sát xem phía trên kia có còn trái nào nữa không. Lúc này, anh Luông là đồng chí đi cùng cất giọng trêu ghẹo:
- Mày hái như vậy, còn cây bồ kết nào sống nổi nữa. Thôi xuống đi!
Anh Trung ngồi dạng hai chân trên cành cây trông có vẻ chắc chắn nhất, hỏi:
- Rứa đầy hai giỏ chưa?
- Đầy rồi! Đầy lắm rồi!
- Còn chỗ mô chứa nữa không?
Anh Luông bực mình gắt:
- Không! Chứa trong quần tao thì có!
Anh Trung gãi đầu cười hì hì, rồi lấy đà nhảy cái phịch xuống. Ngay khi anh vừa tiếp đất, thì anh Luông lập tức đẩy cái giỏ mây đầy vung bồ kết cho anh.
- Cầm cái của nợ của mày nè. Nãy giờ tao cầm muốn gãy tay.
Nhận cái giỏ mây từ anh Luông, anh Trung đeo nó sau lưng, bĩu môi nói:
- Khẩu Tôm - xông nặng mi còn cầm chạy băng băng trong rừng, răng có giỏ bồ kết nhẹ như kiến mà mi cũng than rứa?
- Tôm - xông khác, cái thứ quỷ yêu này khác.
- Rứa khác chỗ mô? Hay mi ghen tị với tau, là tau có người yêu còn mi thì không có?
Anh Trung vừa đi, vừa nghía sang anh Luông đương ngậm cọng cỏ dại trong miệng, mắt ngước lên trời trông cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ. Anh Luông phun phì cọng cỏ ra, liếc xéo anh Trung, trợn mắt đáp:
- Tao mà đi ghen tị với mày à? Mơ!
Đoạn anh Luông bá cổ anh Trung, chỉ vào giỏ mây đeo sau lưng đối phương, nhướng mày hỏi:
- Hái tặng nàng à?
Câu hỏi như mũi tên ghim thẳng vào tim khiến anh Trung chỉ còn biết ngại ngùng gật đầu. Anh thúc cùi chỏ vào bụng anh Luông, cố tình nhìn lảng sang chỗ khác để khỏi phải trưng hai gò má đỏ gay của mình cho người đồng đội thấy. Nhưng anh Luông đã sớm nắm thóp được đối phương, anh nắm tóc anh Trung, ép anh phải quay đầu nhìn mình, rồi anh giục:
- Tặng nàng thì cứ nói, cần chi phải giấu giấu giếm giếm.
Hết cách, anh Trung đành phải ngả mũ thừa nhận:
- Ừ thì... tặng nàng.
- Lại là nàng Trang! Chớ ở Dương Hòa không có bồ kết hay sao mà mày phải cất công hái gửi lên vậy?
- Tau nghe nàng nói, trên nớ chẳng có cây bồ kết mô sống nổi cả. Mà mi cũng biết đó, đàn bà con gái, họ thích gội đầu bằng bồ kết lắm.
- Mày hái như vậy, là cả tiểu đội xài còn được.
Anh Trung tủm tỉm cười, đáp:
- Ừ thì hái dư dư, để các o nớ còn xài chớ.
Cả hai người vừa đi về đơn vị vừa luyên thuyên với nhau, chủ yếu là tập trung vô câu chuyện giữa anh Trung và nàng Trang nọ.
Cách đây vài tháng trước, lúc này anh Trung đương công tác tại một đơn vị chiến đấu đóng quân ở Phú Vang, trong một lần làm nhiệm vụ truyền đơn liên lạc từ đơn vị lên Dương Hoà, anh Trung đã gặp chị Trang, khi ấy chị làm nhiệm vụ hậu cần trong chiến khu. Anh Trung nhớ rõ, lúc giáp mặt nhau, chị Trang mặc cái áo sơ mi màu hồng nhạt sờn cũ, quần vải màu đen, chân xỏ dép cao su. Chị đội mũ tai bèo, bên tay trái còn đeo cái đồng hồ nhỏ màu bạc. Dáng người nhỏ nhắn, cao chừng mét rưỡi hơn của chị cứ chạy từ lán này sang lán nọ, nhanh như một con báo. Trông chị nhỏ con thế thôi, chứ nồi cơm nặng hơn chục cân chị cầm nhẹ hều, mà nồi cơm đó bình thường phải hai chiến sĩ nam khiêng mới nổi.
Buổi trưa sau khi gửi thư liên lạc xong, bên chiến khu có mời anh Trung ở lại ăn cơm cùng đơn vị, nhờ vậy mà anh mới có dịp được bắt chuyện với chị Trang. Sau khi thăm hỏi đủ điều, anh mới biết chị Trang năm nay chỉ mới hai mươi ba, nhỏ hơn anh bốn tuổi. Anh còn biết thêm, quê chị ở Hương Trà, cụ thể ở làng Văn Xá, là quê ngoại của vua Minh Mạng. Cha mạ chị Trang đều mất hết, chị ráng đợi tới lúc đủ tuổi thì xin đi xung phong, và đã công tác trong chiến khu làm công việc hậu cần, chăm lo bữa ăn cho các chiến sĩ được năm năm rồi. Càng nói chuyện, anh Trung càng thêm yêu cô bộ đội này hơn, vì cách nói chuyện của chị Trang vừa mạnh mẽ, mang đậm phong cách người lính, nhưng cũng vừa dịu dàng, một sự dịu dàng lạ thường mà sau này anh Trung kể lại, là anh chưa từng nhìn thấy nó ở bất kì người con gái nào khác. Mỗi lần nói chuyện, cặp mắt chị cứ ánh lên một vẻ sáng ngời, và khuôn miệng chúm chím của chị cười ra trông thật có duyên làm sao.
Từ lúc vô bộ đội tới nay, anh Trung đã từng gặp qua rất nhiều những cô thanh niên xung phong trên khắp mọi miền xứ Huế, ở Phong Điền có, Hương Thuỷ có, Phú Lộc cũng có, nhưng lạ thay, chẳng có cô nào khiến cho anh cảm thấy rung động như cô thanh niên xung phong tên Trang ở chiến khu Dương Hòa này cả. Trong suốt bữa ăn, anh cứ nhìn chị Trang chăm chăm, dường như ở chị toát ra một sức hút vô hình nào đó khiến anh bị mê hoặc. Tới nỗi mà, dù bữa ăn đã diễn ra nửa tiếng, các chiến sĩ ngồi chung mâm đều đã đứng dậy dọn chén đũa hết mà anh vẫn còn ngồi nguyên tại chỗ, với chén cơm nguội ngắt cùng nửa con cá khô, mà theo như chị Trang nói là chị để dành mấy con cá đó, đợi tới dịp đặc biệt sẽ đem chiên chiêu đãi bộ đội.
Anh cứ ngồi thơ thẩn như vậy, phóng tầm mắt ra ngoài chỗ bếp Hoàng Cầm, chị Trang cùng với hai nữ chiến sĩ nữa đương bận rộn quét dọn quanh khu bếp cho sạch sẽ. Anh Trung vô thức bật ra nụ cười, khi trông thấy chị Trang ngoái lại nhìn mình. Hai người họ chạm phải mắt nhau. Một tiếng loảng xoảng, đôi đũa anh cầm trên tay tự nhiên rơi xuống mâm hồi nào mà anh chẳng hề biết.
- Đồng chí nớ ăn nhanh lên, để chị em tôi còn dọn dẹp chớ.
Chị Trang cười tít mắt trêu như thế, rồi hai chị em khác cùng làm việc chung với chị bật cười thích thú. Một trong số hai người họ còn nói thêm vào:
- Đồng chí định ngồi đó tới chừng mô? Tới lúc cơm thiu hay răng?
Anh Trung, một chàng trai từ xưa tới giờ chưa từng bị con gái trêu, thành ra chỉ với lời ghẹo chọc đó đã khiến hai bên má anh ửng đỏ. Anh luống cuống cầm đôi đũa lên, lùa cho hết nửa chén cơm vô miệng, rồi tu ngụm nước để nuốt cho dễ. Xong xuôi, anh bưng cả mâm cơm tới chỗ bếp, giúp các đồng chí ấy bỏ chén dĩa vào thau nước. Đương lúc anh định ngồi xuống rửa chén, thì chị Trang lén lút đứng đằng sau lưng anh. Cảm giác như có người rình rập mình ở đâu đó, anh Trung đứng phắt dậy, hai tay làm thành cái ống nhòm nhìn tứ phía, chính cái điệu bộ khôi hài này của anh đã khiến chị Trang bật cười ha hả.
- Đồng chí làm cái chi rứa? Không có giặc mô, là tôi đây.
Anh Trung lúc này mới quay sang, thấy chị Trang đương nhìn mình mà cười, anh gãi đầu đáp:
- Ra là đồng chí. Rứa mà tôi tưởng giặc tràn vô chiến khu đó chớ.
- Chiến khu Dương Hòa ni luôn có chiến sĩ canh gác ngoài tê, làm răng có giặc tràn vô mà tụi tôi không hay?
Anh Trung gật gù. Chị Trang lại nói:
- Đồng chí định rửa chén à?
- Ừ! Tôi... tôi định rửa chén...
Trái ngược với cách nói chuyện có phần ấp úng của anh Trung, thì cách nói chuyện của chị Trang lại dứt khoát, cứng rắn hơn nhiều. Chị xắn tay áo lên, ngồi chồm hổm trước thau chén, bỏ từng cái chén sành bị nứt vỡ vào thau nước vo gạo bên cạnh, vừa làm chị vừa nói:
- Mấy việc như ri là nhiệm vụ của tụi tôi, đồng chí ăn xong thì ra ngoài tê với các đồng chí khác đi chớ.
- Những đồng chí nớ đều đi gác hết rồi, tôi ra nói chuyện, không khéo lại làm phiền.
Nói rồi, anh Trung ngồi xuống bên chị Trang, anh cũng xắn tay áo, thò tay vào thau nước vo gạo, rửa hết những cái chén mà vừa nãy chị vừa bỏ vào.
Chị Trang khẽ hỏi.
- Khi mô đồng chí về lại đơn vị?
Anh Trung cười hiền, đáp:
- Tầm nửa tiếng nữa.
- Đồng chí đi bộ à?
Anh gật đầu.
- Rứa đồng chí phải về nhanh thôi, không khéo tới chiều có bão đó.
- Răng đồng chí biết chiều sẽ có bão?
Chị Trang khịt khịt mũi vài cái, cười toe toét:
- Vì tôi ngửi được mùi bão. Đồng chí biết không? Tôi có tài dự báo thời tiết đó. Hễ tôi nói chiều có bão, là sẽ có bão.
Chị nhấn mạnh câu cuối, như để tăng tính thuyết phục hơn cho câu nói. Anh Trung ngây thơ cứ ngỡ chị nói thật, nên liền há hốc mồm kinh ngạc, anh tự hỏi sao mà cô bộ đội này lại có cái tài kỳ lạ thế? Từ nhỏ tới lớn, anh chưa từng nghe người nào lại có cái tài này bao giờ. Chị Trang trông qua nét mặt ngờ nghệch của anh, biết rằng anh tin lời mình, nên chị càng thích thú hơn, và chị cố gắng bịa ra thêm nhiều chuyện nữa.
- Khi bữa, nhờ có tôi mà chiến khu mới tránh được một cơn bão lớn đó.
Anh Trung tròn mắt thốt lên:
- Rứa à? Rứa chuyện xảy ra khi mô? Đồng chí kể tôi nghe với.
- Hôm nớ, tôi nhớ không nhầm là hôm thứ năm, đương lúc chuẩn bị bữa trưa cho bộ đội như ri, tự dưng tôi ngửi thấy một mùi ẩm mốc ở mô đó. Mà mùi đó, là mùi ẩm của đất, đồng chí biết mùi ẩm của đất mà đúng không? Rứa là tôi bỏ dở việc nấu cơm, lần theo mùi nớ, tôi lặn lội băng qua ba con dốc, đi tới bờ suối ở cuối chiến khu. Tôi có thiên lý nhãn, và một cái mũi ngửi được bão, nên mới nhìn phía xa cách đây ngàn dặm có một đám mây đen ùn ùn kéo tới. Tôi biết chắc rằng sẽ có bão, và ước lượng rằng chỉ trong vòng đêm mai là bão đổ bộ, nên liền chạy về báo với đại đội trưởng. Đại đội trưởng nhờ lời báo cáo của tôi, lập tức ra lệnh cho toàn chiến khu chuẩn bị phương án chống bão. Mọi người thu gom lương thực mang đi cất hết, cả súng ống, đạn dược. Y như rằng đúng chín giờ tối đêm hôm sau, bão đổ bộ. Bão lớn tới nỗi làm cây vả đầu cổng bật gốc đổ sập, làm bay mất cả nóc lán luôn đó. Nhưng may rằng không bị thất thoát lương thực, và không đồng chí mô bị thương hết. Sau việc nớ, tôi được toàn đại đội tuyên dương. Đồng chí thấy tôi có tài không?
Chị Trang vừa kể xong, thì ở đây anh Trung đứng dậy vỗ tay không ngớt. Anh trầm trồ tới độ mắt tròn mắt dẹt, và thích thú vô cùng trước câu chuyện đầy ly kỳ này của chị Trang. Đương nhiên rồi, với cái cách diễn đạt không quá phô trương mà lại rất tự tin như thật này, thì làm sao anh Trung nghi ngờ cho được. Anh vỗ tay xong thì ngồi xuống, bằng một vẻ hớn hở, anh nói dồn:
- Rứa đồng chí có tài thiệt! Tôi không ngờ, trong chiến khu ni lại có một nhân tài như đồng chí. Câu chuyện đồng chí kể hay quá!
Chị Trang phải cố gằn giọng, bấm bụng dữ lắm mới không lăn ra cười trước sự khờ khạo này của anh. Chị dùng hết sức bấu thật mạnh vào đầu gối, mặt đỏ bừng lên, chị xua xua tay:
- Đồng chí quá khen! Đồng chí quá khen!
Anh Trung lại hỏi:
- Chừ đồng chí vẫn còn làm trong ban hậu cần à? Tôi tưởng sau vụ nớ, đại đội trưởng phải đưa đồng chí lên quan sát ở đài tê thì mới xứng. Đồng chí có tài rứa mà.
Chị Trang tiếp tục nói dối:
- Đại đội trưởng cũng định làm như rứa, mà thôi tôi xin ở lại ban hậu cần để nấu cơm cho bộ đội. Cái tài hèn mọn như tôi, thì làm được cóc khô chi.
- Răng không làm được? Đồng chí ngửi được mùi bão, rứa là thần kì lắm rồi. Hay để tôi năn nỉ với đồng chí đại đội trưởng, chuyển đồng chí sang ban khác làm nghe!
Nói rồi, anh đứng dậy định vụt chạy đi. Chị Trang hoảng hồn nhoài người nắm thắt lưng anh, kéo anh ngồi xuống. Chị thở hổn hển vì sợ hãi, vội tìm cách ứng biến:
- Thôi thôi! Đồng chí ở đơn vị khác, làm răng mà xin được đại đội trưởng đơn vị ni? Không khéo, đại đội trưởng la đó.
Anh Trung khoanh tay ngẫm nghĩ, cảm thấy lời nói của chị Trang cũng đúng, nên anh không còn giữ ý định vừa rồi nữa. Song anh vẫn cảm thấy tiên tiếc, cái tài này của chị Trang mà được phát huy trong quân đội ở thời điểm bây giờ, thì quả thực là một lợi thế to lớn cho quân ta. Bởi chuyện thời tiết nắng mưa là một chuyện ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình chiến đấu, nhất là trong vấn đề vận chuyển đồ tiếp tế. Thời gian này, ở miền Trung liên tục xuất hiện những cơn bão bất ngờ, gây cản trở rất nhiều trong vấn đề vận chuyển đạn dược, lương thực từ dưới xuôi lên các đơn vị đóng quân, đặc biệt là đơn vị đóng quân ở miền núi như Dương Hoà đây. Cứ hễ bão nổi lên một cái, là đường vận chuyển bị đất đá, mưa gió chắn ngang, đoàn xe và người tiếp tế không sao mò lên thấu chiến khu nổi. Đôi khi bão kéo tới đột ngột quá, gây ra thiệt hại khủng khiếp cho cả người và của. Mà trong thời chiến khốc liệt thế này, mỗi một sinh mạng của người dân là mỗi mạch máu của Đảng, và mỗi hạt gạo là ẩn chứa một niềm hy vọng sống của bộ đội. Nếu như biết rõ được bão tới khi nào, thì sẽ có cơ hội cho đoàn tiếp tế tránh được thương vong, cũng như có thời gian tìm cách ứng phó. Càng nghĩ, anh Trung lại càng đứt ruột đứt gan vì tiếc.
Anh tặc lưỡi, vỗ tay cái Chát!, hàng lông mày chau chặt vào nhau, anh nói:
- Rứa đồng chí không nghe theo tôi, thì tiếc lắm! Tiếc lắm đồng chí ạ!
Chị Trang ngồi đây tự giác cảm thấy câu chuyện mình bịa ra đã khiến cho anh Trung suy nghĩ quá xa, chị liền thấy hối hận, sự hối hận ấy còn xen cả bồn chồn lẫn lo lắng. Chị lo, rủi lỡ anh Trung ngứa mồm ngứa miệng đem câu chuyện này đi kể cho khắp chiến thu, thì lúc đó coi như chị chết toi. Chị vội đứng lên, xoa dịu niềm tiếc nuối và bực bội của anh, bằng cách bẻ câu chuyện đương hồi gây cấn sang một câu chuyện khác.
- Nhưng đồng chí tên chi? Nãy chừ nói chuyện, tôi chưa biết tên đồng chí.
Anh Trung đương đăm chiêu suy tính điều gì đó, nghe chị Trang hỏi, câu hỏi cùng chất giọng ngọt ngào của cô bộ đội ấy làm anh ngẩn ngơ, và thành công làm đứt luôn mạch suy nghĩ trong đầu anh. Tự dưng anh thấy trái tim mình đập nhanh một cách bất thường. Anh khẽ đáp:
- Tôi tên Trung, Trần Văn Trung.
Chị Trang "À!" một chữ rõ dài.
Đoạn anh Trung nhìn lên đồng hồ đeo tay, đã thấy gần hai giờ trưa, anh xuýt xoa:
- Ui chao! Răng mới nói chuyện chưa bao lâu mà tới giờ về rồi hè?
- Đồng chí phải về à?
- Ừ, tôi phải về thôi, không khéo trễ giờ.
Chị Trang thấy anh Trung chạy vào lán, tích tắc sau lại trở ra với cái ba lô cùng khẩu súng đeo chéo sau lưng. Anh chạy tới bắt tay chị Trang, và luôn cả hai đồng chí đương phụ dọn bếp đằng kia nữa. Nhưng riêng chị Trang, anh lại bắt tay lâu hơn cả. Ngay tới chị cũng ngầm cảm thấy sự đối đãi có phần thiên vị của anh Trung dành cho mình, và khi ngẩng lên nhìn vào mắt anh, chị chợt thấy trong đôi mắt ấy ánh lên một sự luyến tiếc không nỡ. Lúc ấy, chị Trang không suy nghĩ gì nhiều, chỉ nghĩ rằng anh Trung vẫn còn tiếc vì câu chuyện bịa ra của mình, nên chị cũng ngoảnh mặt làm ngơ. Coi như đây chỉ là một cuộc gặp gỡ với một đồng chí thuộc đơn vị khác mà thôi.
Nhưng điều không ngờ rằng, ngay ngày hôm sau, chị Trang lại thấy anh Trung đi tay không lội bộ lên chiến khu. Lần đi này không phải anh lên truyền đơn liên lạc, cũng không phải đi làm nhiệm vụ của đơn vị giao. Người ta thấy anh trước cổng chiến khu từ hồi sáu giờ sáng, và đứng thập thò sau thân cây vả như một kẻ trộm. Đồng chí gác ca đó vừa phát hiện ra anh, tưởng là quân địch nên liền chĩa súng và định bắt trói anh. Khi này anh Trung phát hoảng, vội thanh minh rằng:
- Tôi không phải địch mô, tôi không phải địch mô! Tôi là Trung, lính thông tin hôm qua vừa tới đây truyền thư.
Đồng chí canh gác không tin, nòng súng càng dí sát vào ngực anh Trung hơn. Đồng chí ấy đanh mặt hỏi:
- Làm răng để tau tin mi? Lũ giặc tụi mi nhìn như rứa chớ ranh ma xảo trá lắm. Thôi không nói nhiều...
Đồng chí ấy ngừng nói. Anh Trung run rẩy quan sát, và gương mặt anh lập tức tái mét khi thấy đồng chí nọ lấy từ trong túi quần ra đoạn dây thừng. Lăm le đoạn dây thừng đó trong tay, họ nhảy vồ tới đẩy anh ngã ra đất. Anh Trung bị tấn công bất ngờ nên không kịp chống trả. Đồng chí ấy tuy nhỏ người, nhưng lại khỏe chẳng khác gì một con voi. Họ bẻ quặp tay anh ra sau lưng, trói chặt anh vô gốc cây vả bên cạnh. Anh Trung chỉ còn biết kêu la bất lực, y hệt một con heo bị chọc tiết:
- Đồng chí thả tôi ra! Tôi có giấy của ban chỉ huy đơn vị đây, giấy có chữ ký hẳn hoi đây. Đồng chí...ưm...
Đồng chí kia vì thấy anh lôi thôi nhiều lời quá, nên liền lấy miếng giẻ nhét thẳng vào miệng anh. Anh Trung ú ớ, vùng vẫy, nhưng càng cử động thì sợi dây thừng càng siết chặt cổ tay hơn, khiến anh đau tới ứa nước mắt.
- Yếu nhớt như ri mà cũng bày đặt. Chừ ngoan ngoãn ở yên đó, tau vô báo cáo với đội trưởng, rồi ra giải mi vô để lấy lời khai. Cái thứ phản quốc theo giặc như mi, xứng đáng bị tử hình.
Doạ anh xong, đồng chí ấy trở vô trong. Anh Trung ngồi một mình ngoài gốc cây vả, sương đêm còn đọng lại trên đất và trên những tán cây nhiễu tỏng tỏng xuống áo, thêm cơn gió lạnh buốt chốn thâm sơn cùng cốc khiến anh rét run người. Cái áo trấn thủ mặc bên ngoài, và bộ đồ lính mặc bên trong không đủ dày để giữ ấm cho anh. Tự dưng lúc này anh mơ tưởng, giá như bây giờ có một điếu thuốc hút thì tuyệt hảo biết bao. Nhưng ai lại ban phát cái đặc ân ấy cho một kẻ bị trói và bị nghi ngờ là người của giặc như anh chứ? Nghĩ thế, anh Trung chán nản thở dài ra.
- Biết rứa hồi nãy đừng có đứng thập thò.
Anh càu nhàu tự trách mình như thế, và gục đầu xuống mệt mỏi.
Chừng năm phút sau, anh Trung nghe thấy tiếng dép cao su loạt soạt, và giọng nói của đồng chí canh gác vừa nãy vang lên làm anh tỉnh người.
- Báo cáo, hắn đây ạ!
Anh Trung chầm chậm nhìn lên hai đồng chí đương đứng trước mặt mình.
Vừa nhận ra người bị trói đối diện là đồng chí hôm qua mình mời cơm ở chiến khu, anh Thanh đội trưởng liền kêu lên thảng thốt. Anh quay sang đồng chí canh gác, và nói với đồng chí ấy hãy cởi trói cho anh Trung. Ban đầu, đồng chí canh gác ấy nhất mực không chịu với lí do là:
- Rứa lỡ hắn là giặc đội lốt quân ta thì làm răng? Tôi không cởi trói cho hắn mô, chừng mô có bằng chứng chứng minh hắn không phải giặc thì tôi mới cởi.
Anh Thanh lấy miếng giẻ ra khỏi miệng anh Trung, hỏi:
- Đồng chí có chi chứng minh không?
Anh Trung cựa nguậy mình mẩy, lia mắt xuống túi quần, anh nói:
- Trong túi tôi có giấy phép của ban chỉ huy đơn vị cấp. Đồng chí lấy ra kiểm tra đi.
Anh Thanh vội lục tìm trong túi của anh Trung. Cầm tờ đơn xin phép trên tay, anh chăm chú đọc thật kĩ những gì được ghi trong đơn, và nhìn xuống con dấu đỏ cùng chữ ký của ban chỉ huy đơn vị. Một lát sau, anh đưa cho đồng chí đứng gác phía sau mình. Anh Trung thấy họ lầm bầm nói gì đó với nhau. Được chừng nửa phút, đồng chí ấy tiến tới cởi dây trói cho anh, giọng nói họ lúc này đã có phần dịu hơn, nhưng vẫn còn chút gì đó khó chịu lắm.
- Răng đồng chí cứ đứng thập thò ở ngoài tê rứa? Tôi tưởng đồng chí là gián điệp của giặc nên mới làm như ri.
Anh Trung lồm cồm đứng dậy, xoa xoa lòng bàn tay vô nhau cho giảm bớt cái rét. Anh run cầm cập, đáp:
- Tại tôi thấy đồng chí đứng gác căng quá, tôi sợ ra, đồng chí bắt tôi thì làm răng?
Người nọ vỗ vô lưng anh, miệng đã nở nụ cười. Anh Trung thấy họ không còn khó chịu với mình nữa, thì anh nói thêm rằng:
- Nhưng có ra hay không tôi vẫn bị đồng chí bắt trói. Đồng chí có cho tôi giải thích mô.
- Thôi, tại tôi cảnh giác nên mới như rứa. Chừ biết đồng chí là đồng chí đồng đội của tôi rồi, tôi có còn bắt trói đồng chí nữa mô.
Anh Thanh đội trưởng khen đồng chí canh gác rằng:
- Đồng chí Nhất giữ sự cảnh giác đề phòng là rất tốt. Trong lúc thời cuộc rối ren, địch thường xuyên cài người vô làm gián điệp, gây nhiễu loạn quân ta như rứa, thì mỗi đồng chí không được lơ là với bất kì kẻ lạ mặt nào. Ngay sáng hôm ni, sau khi đơn vị tổ chức cuộc họp, tôi sẽ tuyên dương đồng chí Nhất trước mọi người. Đồng chí cứ như vậy mà phát huy.
Đồng chí Nhất đứng nghiêm trang, chỉnh lại nón cối đội trên đầu cho ngay ngắn hẳn hoi, hô to:
- Rõ!
Anh Thanh gật gù hài lòng, đoạn anh hỏi anh Trung:
- Rứa đồng chí lên đây giờ ni là có chuyện chi? Mà răng tôi không thấy đồng chí đem thư từ chi hết?
- Báo cáo! Tôi tới để đưa cái ni cho đồng chí Trang làm bên hậu cần.
Anh Thanh nhướng mày hỏi:
- Đồng chí muốn gặp o Trang?
Anh Trung gật đầu. Anh Thanh và anh Nhất thấy anh Trung luồn tay vô áo trấn thủ, lấy từ trong áo ra một chùm trái gì đó dài dài dẹt dẹt.
- Bồ kết?
Anh Nhất ngạc nhiên thốt lên.
Anh Trung gãi đầu cười, đáp:
- Bồ kết ni, con gái hay dùng để gội đầu lắm. Chừ hai anh cho tôi gửi ở đây, khi mô đồng chí nớ ra, hai anh đưa cho đồng chí nớ giùm tôi nghe?
Cả anh Thanh và anh Nhất ngơ ngác nhìn nhau, rồi cùng bật cười.
- Chỉ có như rứa à?
- Chỉ có rứa.
Anh Thanh ôm bụng cười chảy cả nước mắt, trêu:
- Chú em làm tôi tức cười quá. Rứa chú em vô thẳng bếp, gặp o Trang có phải hay hơn không?
Tới đây, giọng anh Trung đáp lại nhỏ dần:
- Thôi đồng chí, làm răng tôi dám?
- Chớ răng mà không dám? Không dám, là không cưới được vợ đâu nghe!
- Thì... mà ai nói đồng chí, tôi muốn cưới vợ chớ?
Anh Nhất trề môi nói chen vào:
- Hắn tặng bồ kết cho người ta, trèo đèo lội suối cả mấy cây số lên đây chỉ để gặp người ta, rứa mà còn dám chối.
Biết anh Trung đương khó xử, anh Thanh liền giải vây:
- Ông bà ta có câu: "Thò tay mà ngắt cọng ngò. Thương em đứt ruột giả đò ngó lơ" quả không sai mô. Chú em thương o Trang, thì đừng ngó lơ cái tình của mình chớ. O Trang dễ tính lắm, hôm qua o nớ cứ nhắc về chú em suốt.
Biết chuyện chị Trang nhắc về mình, hai mắt anh Trung sáng rỡ, thấp thoáng sự mong chờ. Anh vội hỏi:
- Đồng chí nớ nói chi tôi, anh?
Anh Thanh xoa cằm, một lát sau thì đáp:
- O nớ khen chú em thiệt thà dễ thương, đi bộ đội không biết mấy năm mà trông khờ khạo quá.
Mặt anh Trung nghệch ra.
- Rứa... là khen hay chê?
- Tôi có biết mô.
- Đồng chí nớ còn nói thêm chi nữa không?
Anh Thanh lắc đầu.
Khi này cả hai người nghe tiếng anh Trung thở dài, đoán chừng anh thất vọng lắm. Nhưng sao anh lại thất vọng? Điều này khiến cho anh đội trưởng và đồng chí Nhất cùng khó hiểu như nhau.
Đương lúc ba người họ im lặng vì không còn biết nói thêm điều gì nữa, thì bỗng có giọng phụ nữ vang lên sau lưng làm họ giật bắn.
- Các đồng chí tụ tập ở đây làm chi rứa?
Nhận ngay ra giọng nói đó là giọng chị Trang, anh Trung lập tức gạt anh Nhất đứng sang một bên. Tim anh đập loạn xạ trong lồng ngực, mặt mày đỏ bừng và nóng lên như vừa ăn ớt. Chị Trang trông thấy anh Trung, chị thất thần mất mấy giây, nhưng sau đó chị cười hiền, dịu giọng hỏi:
- Lại là đồng chí à?
- Là... là tôi đây.
Dứt câu, cả người anh Trung bất ngờ bổ nhào về phía trước, nếu như không nắm được lan can của căn lán bên cạnh, thì có lẽ anh đã chụp ếch rồi không chừng.
- Đó, nàng nớ đó. Mạnh mẽ lên, đàn ông đàn ang chi mà thấy tình là chạy như chuột gặp mèo.
Thì ra là vừa nãy anh Thanh đã đẩy anh Trung.
- Đồng chí nói chi? Tôi có hiểu cái chi mô?
Rồi anh Trung nghe giọng anh Thanh thì thào bên tai:
- Đừng có giả ngu. Tôi tạo điều kiện cho chú em, chú em phải biết nắm bắt đi chớ. Chùm bồ kết mô? Đưa cho o nớ đi.
Giọng nói vừa êm tai, vừa khẽ khàng của anh Thanh như liều thuốc lú khiến đầu óc anh Trung mụ mị hết cả. Anh gật đầu vài lần, rồi răm rắp nghe theo những gì mà anh Thanh vừa nói.
- Cái ni... tặng đồng chí.
Anh Trung chìa chùm bồ kết ra, trong sự ngỡ ngàng của chị Trang. Anh nhắm mắt nhắm mũi, hít thở một hơi thật sâu rồi gằn giọng:
- Đồng chí nhận cho tôi vui nghe.
Chợt, anh Trung nghe tiếng chị Trang cười khúc khích.
- Răng đồng chí biết tôi đương cần bồ kết?
- Thì hôm qua, tôi nghe đồng chí nói với hai đồng chí hậu cần kia, là tiểu đội hết bồ kết để gội đầu rồi. Ở dưới đơn vị tôi, bồ kết trồng nhiều lắm, nên tôi mới hái đem lên đây cho đồng chí...
- Đồng chí dám nghe lén cuộc nói chuyện của chị em tụi tôi?
Anh Trung ngại ngùng gật đầu.
Chị Trang giả vờ khó chịu, chau mày gắt:
- Nghe lén chuyện người khác là bất lịch sự lắm, chừ đồng chí còn dám nghe lén chuyện của chị em phụ nữ thì thiệt...
Nói tới đây, chị Trang chẹp miệng. Anh Trung vì sợ chị Trang nghĩ mình có ý xấu nên vội đáp lia đáp lịa:
- Tôi không cố tình mô. Chỉ là... chỉ là tôi vô tình nghe các đồng chí nói chuyện thôi. Tôi thề tôi chỉ nghe nhiêu đó, chớ tôi không nghe ngang nớ. Nếu tôi nói dối, đồng chí cứ gửi đơn kiện tôi ra tòa án binh, tôi sẽ nhận hoàn toàn trách nhiệm.
Để củng cố thêm cho lời nói của mình, anh Trung còn liếm ngón trỏ và giơ lên trời.
- Đồng chí đừng có mà lý sự với tôi như rứa. Chừ đồng chí có hứa, nhưng tai đồng chí nghe thì đồng chí cũng chối. Dại chi mà nhận.
Nét mặt anh Trung lộ vẻ buồn xo. Anh rũ mắt nhìn xuống đất, lí nhí đáp:
- Tôi nói thiệt mà.
- Rứa chừ đồng chí lên đây là có việc chi?
- Có việc chi mô. Lên đưa bồ kết cho đồng chí xong, tôi về.
Chị Trang thốt lên:
- Lội bộ hơn chục cây số chỉ để đưa bồ kết cho tôi thôi à?
- Ừ. Đồng chí đừng lo, tôi có giấy phép của đơn vị đây. Có tôi mới dám đi chớ.
Chị Trang bây giờ mới chịu để ý tới chùm bồ kết anh đương cầm. Chị cảm động tấm lòng của anh. Hai mắt chị đỏ hoe, lòng dạ chị thổn thức, và rung động trước người chiến sĩ thật thà, dễ mến này. Chị cầm lấy chùm bồ kết từ tay anh, giấu nó ra sau lưng, chị nói:
- Rứa thì... cảm ơn đồng chí.
Lúc chị Trang vươn tay ra nhận lấy bồ kết, lòng bàn tay chị có sượt ngang qua mu bàn tay anh. Cảm nhận sự mềm mại và ấm áp lạ kỳ ấy, anh ngẩn ngơ, có chút nuối tiếc khi chị rụt tay về nhanh quá. Anh ngượng chín mặt, tủm tỉm cười rất lâu. Chị Trang lại hỏi:
- Đồng chí có ở lại ăn với đơn vị bữa cơm giống hôm qua không?
- Chắc không được mô. Tôi xin đội trưởng cho tôi đi hết buổi sáng ni, chừ tôi phải về đơn vị rồi.
Mặt chị Trang thoáng thất vọng.
- Đồng chí về cẩn thận. Chừng mô có nhiệm vụ, đồng chí hẵng lên đây. Chớ xin về phép như rứa, uổng cả ngày phép.
Nghe được lời dặn dò thân tình từ chị, anh Trung sướng rơn gật đầu lia lịa.
Kể từ ngày hôm đó, anh Trung nghe theo chị Trang, không còn dám tuỳ tiện sử dụng ngày nghỉ phép của mình để lên chiến khu nữa. Nhưng việc không được gặp mặt người thương trong suốt mấy ngày liền khiến anh đâm ra khó chịu, bứt rứt vô cùng. Ấy là vì, anh nhớ chị ấy. Con trai tới tuổi thì biết yêu, con gái tới tuổi thì biết thương. Chuyện anh Trung nảy sinh tình cảm với cô chiến sĩ ấy cũng chẳng có gì là lạ. Trong suốt hai mươi sáu năm cuộc đời, đây là lần đầu anh Trung biết được cảm giác nhớ thương một người là như thế nào. Nhiều lúc những đồng đội khác hay thấy anh ngồi trước cổng đơn vị, hay là ngồi trên phản, nhưng dù ngồi chỗ nào thì anh cũng chống cằm thơ thẩn nhìn đi đâu không biết. Rồi có mấy khi họ còn phát hiện trong ba lô của anh chứa đầy trái bồ kết. Ban đầu mọi người không biết anh hái bồ kết là để dành tặng cho chị Trang, nên họ cứ trêu anh mãi. Họ trêu rằng đàn ông đàn ang gì mà lại lấy bồ kết gội đầu, rồi còn dọa sẽ ném hết mớ bồ kết ấy xuống sông. Mỗi lúc như vậy, anh Trung đều ôm khư khư cái ba lô chứa đầy bồ kết vào lòng, tuyệt đối không để cho ai đụng vào nó cả, ngay tới lúc ngủ, anh cũng không chịu bỏ ra.
Những đồng chí đồng đội trong đơn vị nói anh bị khùng. Nhưng anh mặc kệ, anh cãi:
- Răng mà khùng? Nói như rứa, thì những ai đi hái bồ kết đều khùng hết à?
Tới đó, họ chẳng còn biết nói làm sao nữa, đành nhún vai cho qua.
Thời gian gần đây, đội trưởng chỉ giao cho anh việc liên lạc, truyền thư ở trong Phú Vang mà thôi, không còn sang những chiến khu ở các quận lân cận nữa. Nhiều lúc truyền thư dư được chút thời gian, anh có ý định sẽ tận dụng những giây phút ít ỏi ấy để lên Dương Hoà thăm chị Trang, nhưng ngặt dự định đó của anh còn chưa kịp thực hiện thì đã bị đội trưởng phát giác. Biết chuyện anh định trốn đi gặp người yêu, đồng chí đội trưởng đã mắng anh té tát thế này:
- Đồng chí có gan làm chuyện nghiêm trọng như thế à? Đồng chí xem kỷ luật quân đội là gì? Muốn làm gì thì làm sao? Hay đồng chí nghĩ mình mình đồng da sắt, đạn ghim vô không thủng nên đồng chí mới có suy nghĩ ấy? Tôi nói cho đồng chí biết, rủi đi giữa đường đồng chí bị địch tập kết vây bắt, thì hậu quả về sau, đồng chí dám nghĩ đến không? Hả?
Đồng chí đội trưởng còn mắng nhiều lắm, nhưng anh Trung vì mải nghĩ tới cái ba lô bồ kết của mình còn nằm lại trong lán, nỗi sợ bị các đồng chí khác cướp mất ba lô đã khiến anh quên sạch những lời răn đe, kỷ luật của đội trưởng.
Anh đứng nghiêm, hai tay ép sát vô đùi nhưng mặt thì cứ nhìn xuống đất. Lời nói của đồng chí đội trưởng cứ vào tai này, rồi lại chui tọt qua tai bên kia, hoàn toàn không đọng lại được trong đầu anh bất kì điều gì. Tới khi mắng đã, răn đã, anh đội trưởng ngồi phịch xuống, mở hộc bàn, lấy ra tờ giấy trắng phẳng phiu cùng cây viết mực. Anh đẩy giấy viết về phía anh Trung, nghiêm giọng nói:
- Bây giờ đồng chí viết bản kiểm điểm cho tôi. Và ngay chiều hôm nay đồng chí vác cuốc ra vườn tăng gia sản xuất. Đồng chí nghe rõ?
Đợi một lát không nghe đối phương trả lời, mà trông mặt anh Trung cứ ngơ ngơ, đội trưởng bực mình quát lớn:
- Đồng chí Trung nghe rõ?
Bị tiếng quát làm cho giật mình, anh Trung vội ngước nhìn đội trưởng. Vừa chạm mắt với đôi mắt nghiêm nghị, trừng trừng của anh ta, anh Trung liền co vai sợ hãi
- Báo cáo, tôi nghe rõ...
- Đồng chí nghe những gì? Nhắc lại đầy đủ cho tôi.
Anh Trung ngập ngừng đáp:
- Tôi... đội trưởng kêu tôi...
Nhận thấy biểu hiện lạ của anh Trung, đội trưởng liền đoán ra anh đương có chuyện khó nói. Anh ấy dịu giọng hỏi:
- Đồng chí bị làm sao đấy? Không khoẻ à?
- Báo cáo, không ạ.
- Chớ sao tôi thấy sắc mặt đồng chí ỉu xìu thế kia?
- Báo cáo, do tôi... tôi...
Đội trưởng "Hử" một tiếng, anh Trung liền thở dài, đáp:
- Do tôi sợ.
- Đồng chí sợ cái chi? Nói to dõng dạc tôi nghe. Làm bộ đội ra mặt trận chiến đấu, đối diện trực tiếp với bom đạn, cái chết mà cứ ăn nói lí nhí như thế thì làm sao đáng mặt bộ đội?
Nghe đội trưởng nhắc, anh Trung lập tức chỉnh đốn tư thế đứng sao cho thật nghiêm trang. Mặt anh ngẩng cao, ngực hơi ưỡn ra, nhưng nét mặt hiện rõ sự rụt rè, sợ sệt của anh thực sự chẳng ăn khớp với cái điệu bộ oai phong này chút nào.
Đội trưởng tiến tới sát bên anh, anh lại đề phòng lùi về phía sau vài bước. Cho tới khi bị dồn vào chân tường, anh mới nghe đồng chí đội trưởng cất giọng hỏi:
- Đồng chí Trung! Bây giờ tôi hỏi, đồng chí bị cái chi?
Biết mình không thể giấu giếm hay nói dối được, anh Trung chỉ còn cách thừa nhận rằng:
- Tôi sợ những đồng chí khác lấy mất cái ba lô đựng bồ kết của tôi. Đội trưởng cho tôi về lán một chút, để tôi mang ba lô theo, rồi tôi sẽ trở lại đây viết bản kiểm điểm ngay.
Đương kể tới đây, chợt chị Hân ngưng ngang làm Nhung chưng hửng. Em ngó mặt chị, phát hiện ra hốc mắt chị đỏ hoe, rưng rưng dòng nước mắt trong veo, em lặng người hồi lâu, mọi người trong tiểu đội không ai còn nói với ai lời nào. Dường như, câu chuyện dang dở về đồng chí Trung và chị Trang đã gợi lại trong lòng họ những mảng kí ức mà đáng lẽ ra, họ không nên nhắc lại nó trong thời điểm này.
- Trời tối mất rồi.
Một chị lên tiếng nhắc. Nhung ngẩng đầu nhìn trời, đúng thật, trời đã tối hồi nào mà em chẳng hay biết.
- Khi mô rảnh, tau sẽ kể tiếp cho mi nghe. Câu chuyện nớ dài lắm, mi à!
Chị Trang lén Nhung gạt nước mắt, rồi quay sang âu yếm xoa đầu em.
Nhung không đáp, em chỉ gật đầu. Không hiểu sao lúc này, em bỗng thấy tim mình nhoi nhói.
Tối hôm đó không biết vì lí do gì, mà trước giờ ngủ Nhung lại mò sang chỗ ngủ của chị Trang. Lúc này chị Trang đương ngồi trên phản xếp mớ quần áo của mình để chuẩn bị bỏ vào ba lô. Vừa thấy bóng dáng Nhung từ phía đầu lán bên kia sấp ngửa chạy qua, chị liền hỏi:
- Làm răng mà chạy qua đây giờ ni?
Nhung ngồi thụp xuống phía đầu phản, đôi mắt tròn xoe, long lanh của em nhìn chị chẳng khác gì một con mèo nhỏ. Chị Trang đánh hơi được mùi chẳng lành, nên thành ra, chị càng tỏ vẻ đề phòng Nhung hơn. Nhưng con bé ngây thơ lắm, em chẳng nghĩ gì nhiều cả, chỉ đơn giản hỏi thế này:
- Chị Trang đương làm chi rứa?
- Đương nấu cơm.
- Nhưng em thấy chị Trang đương xếp đồ mà.
- Biết rứa răng còn hỏi?
Nhung thở hắt, tay chống cằm chăm chú ngắm nghía chị tiểu đội trưởng của mình. Chị Trang nhìn em bằng đôi mắt chứa đầy sự dị nghị, vì khi không tự dưng con bé này lại chạy qua đây, hỏi mấy câu không đâu, nhất định là có chuyện gì hệ trọng rồi. Nhưng chị Trang nghĩ hoài, mà vẫn chẳng thể nghĩ ra được việc hệ trọng đó, rốt cuộc là việc gì. Sau cùng vì không chịu nổi ánh mắt ấy của em nữa, chị Trang liền mở lời:
- Rứa mi sang đây có việc chi?
Nhung nhổm dậy, ngồi mớm ở một góc phản. Em kéo tay áo chị Trang, chu môi đáp:
- Chị Trang cho em ngủ chung đêm ni hí?
- Răng? Ngủ chung?
Chị Trang ngạc nhiên hỏi ngược lại. Hai mắt chị mở to sửng sốt.
- Tự dưng mi đòi ngủ chung với chị làm chi?
- Thì... em muốn ngủ chung với chị rứa thôi. Chớ có lý do chi quan trọng mô.
Đoạn em bất ngờ nhào tới, ôm chầm lấy chị Trang trong sự thảng thốt của chị. Chị Trang không kịp chống tay đỡ, nên cả hai người đều ngã vật xuống phản. Nhung nằm đè lên người chị, ôm riết chị và nũng nịu hệt như một đứa trẻ.
- Chị Trang cho em ngủ chung đêm ni đi. Đi mà!
Sự đụng chạm này của em khiến toàn thân chị rùng lên vì nhột. Chị bật cười ha hả, đánh khẽ vài cái lên lưng Nhung, chị mắng yêu:
- Mi mười sáu tuổi rưỡi, lớn già đầu như rứa mà đòi ngủ chung. Ốt dột thiệt!
Nhung không đáp, em chôn mặt vào mớ quần áo còn dồn thành một đống trên phản. Lúc này, chị Hân nằm ở phản bên cạnh lên tiếng trêu:
- Chị Trang cho hắn ngủ chung đi. Hắn thương chị Trang, nên mới nhõng nhẽo rứa đó.
- Muốn xin xỏ cái chi thì nói luôn, khỏi phải mắc công lấy lòng.
Nhung lắc đầu nguầy nguậy. Em ló một nửa gương mặt ra khỏi mớ quần áo ấy, khe khẽ đáp:
- Có lấy lòng mô. Tại tối ni Phương xin về phép, em không có ai ngủ cùng hết. Ngủ một mình, buồn lắm!
Hai chữ cuối cùng vừa thốt ra, em bặm môi, đôi mắt càng lộ rõ vẻ khẩn cầu. Chị Trang có chút mềm lòng. Chị lặng người suy ngẫm, dù sao trong tiểu đội, Nhung cũng là em út, đương tuổi ăn tuổi lớn, tuổi giỡn tuổi chơi như thế thì mình chiều em ấy một chút, chắc cũng không sao. Nghĩ tới đó, chị Trang liền gật đầu đồng ý. Chị xoa nhẹ lên đôi má bầu bĩnh của em, rồi hất hàm về phía cuối lán, ngay chỗ ngủ thường ngày của Nhung, chị nói:
- Ưng ngủ chung thì tự giác đem mền gối sang đây. Ngủ chung mền, chị không cho mô.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com