Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tử tù tự xử lý

Trần Thư

Tử tù tự xử lý nội bộ

Lời Nói Đầu

Tôi viết cuốn sách này vì nghĩ rằng mình đã may mắn được sống những hoàn cảnh mà ít người được sống, không viết ra thì thật phí của trời.

Tôi muốn viết thành một cuốn tiểu thuyết vì đủ chất liệu cho một cuốn tiểu thuyết. Nhưng trong đời tôi chưa viết cuốn tiểu thuyết nào, cho nên nếu viết chắc chắn phải cần thời gian.

Mà tôi thì không còn thời gian. Tôi bị bệnh ung thư, sống chết không biết thế nào, đành chọn cách viết kể chuyện thật, tuy cũng có cái phiền của nó nhưng có thể nhanh hơn, may ra kịp.

Hy vọng rằng:

Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh.

Chương 1

Nhọ mặt người một lúc thì tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh và tôi, chính trị viên, đã cùng hai đồng chí cần vụ có mặt trên đê sông Luộc. Trăng hạ tuần cho nên phải về khuya mới sáng. Địch càn quét bao giờ cũng chọn tuần trăng, cái đó đã thành quy luật. Trong bóng tối, dòng sông âm thầm cuồn cuộn chảy. Đã cuối mùa lũ nhưng nước còn khá xiết.

Trung đoàn chúng tôi vừa tránh được một nguy cơ bị tiêu diệt gần như có thể sờ mó thấy. Cuối năm 1951, trước khi đánh lên Hòa Bình, địch đã tập trung 3 GM càn quét vùng bắc Thái Bình. Trước đây cứ có triệu chứng địch tập trung lớn quân cơ động thì trong băm sáu chước, chúng tôi chọn cái chước mình coi là khôn ngoan nhất: chuồn. Tránh voi chẳng xấu mặt nào. Quân cơ động rút đi, chúng tôi lại quay trở lại nói chuyện với bọn quân chiếm đóng. Nhưng hồi ấy lực lượng chúng tôi còn yếu. Bây giờ được trang bị và tổ chức lại thành trung đoàn mạnh, và trên các mặt trận chính diện, chủ lực ta cũng đánh mạnh, nên chúng tôi nhận được nhiệm vụ phải tích cực đánh địch cả trong càn quét lớn. Lần đầu tiên toàn trung đoàn chống càn lớn chưa có kinh nghiệm, chúng tôi cứ quanh quẩn trong vòng vây, chiến đấu chặn địch trong suốt một tuần. Đến ngày thứ sáu, thấy vòng vây địch đã khép, đất tự do còn lại quá hẹp, không cơ động được, và bộ đội đã tiêu hao mệt mỏi, mới nghĩ tới chuyện rút. Nhưng đến lúc nghĩ tới thì rút không được nữa. Tất cả các mũi trinh sát tung đi đều về báo cáo chạm địch.

Thực ra kinh nghiệm về sau của chúng tôi cho thấy rõ càn quét một vùng rộng thì không có vòng vây nào hoàn toàn kín cả. Chẳng qua chỉ là vì chúng tôi đã chọn hướng rút dễ nhất: rút xuống nam Thái Bình, đường liền, đất rộng. Ta biết thế ắt địch cũng phải biết thế. Cho nên chúng đã rải quân và xe tăng ra canh phòng cẩn mật suốt dọc đường số 10 là con đường ta sẽ phải vượt qua nếu đi xuống phía nam.

Thế là hôm qua toàn trung đoàn đã phải lộn trở lại chiếm lĩnh các trận địa phòng ngự để quyết chiến với địch thêm một ngày nữa đợi đến tối tìm hướng rút khác. Ngày hôm qua quả thật là một ngày căng thẳng đối với tiểu đoàn tôi. Nếu hôm qua không giữ vững được, và đến đêm không rút được thì hôm nay bốn chục khẩu pháo 155 và 105 ly và không biết bao nhiêu khẩu cối 120 và 81 ly sẽ trút đạn lên đầu chúng tôi, từng đoàn máy bay sẽ đổ lửa xuống trận địa chúng tôi, và 3 binh đoàn cơ động từ mấy phía sẽ bâu vào chúng tôi...

Cố thủ đến hai giờ chiều vẫn giữ vững được, các đợt xung phong của địch đều bị đánh bật thì chúng tôi biết chắc chắn là sẽ giữ được đến tối. Cho nên từ hai giờ chiều ban chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi đã chuyển trọng tâm sang làm các công tác chuẩn bị cho cuộc hành quân đêm. Tôi cùng các đồng chí địa phương lo chôn cất tử sĩ, săn sóc thương binh, chuyển anh em về những cơ sở có hầm bí mật, gửi vào vùng tề, và các công tác hậu cần khác. Công việc búi như lông lươn.

Còn tiểu đoàn trưởng Mạnh thì tổ chức trinh sát nắm tình hình địch xung quanh. Rút kinh nghiệm đêm trước, lần này trung đoàn cho rút theo hướng khó nhất, cho nên cũng có thể là bất ngờ nhất cho địch: rút qua sông Luộc. Chắc địch không thể nghĩ rằng cả một trung đoàn đã sứt mẻ và mệt mỏi sau một tuần chiến đấu và không có phương tiện vượt sông, lại có thể đem theo toàn bộ vũ khí, khí tài và thương binh của mình trong một đêm lách qua vòng vây của họ, hành quân hàng chục cây số, vượt qua một con sông lớn, rồi lại hành quân tiếp gần chục cây số nữa về một nơi địch vừa càn xong, cơ sở bị rệu rã.

Vả lại đêm hôm trước, khi chúng tôi bị mắc lại ở đường số 10 thì một đại đội của tỉnh Hưng Yên đã qua lọt sông Luộc. Chứng tỏ phía ấy địch có sơ hở, đúng như phán đoán của chúng tôi. Mặc dù một đại đội thì lọt, còn một trung đoàn thì có thể không.

Đi cả trung đoàn thì cồng kềnh quá, Trung đoàn cho xé nhỏ một tiểu đoàn, phân tán tại chỗ. Chỉ còn hai tiểu đoàn hành quân luôn ra bờ sông đi làm hai mũi cách nhau khoảng một cây số, để nếu tiểu đoàn nào chạm địch thì tiểu đoàn kia sẽ yểm trợ. Toàn trung đoàn nhiệm vụ chính là bảo toàn lực lượng.

Xẩm tối, tiểu đoàn tôi đã rải dài trên đê Sa Lung để tránh trận tập kích pháo chập tối của địch và chuẩn bị hành quân chiến đấu.

Tiểu đoàn trưởng Mạnh đã nắm một tổ trinh sát và một tiểu đội trang bị toàn tiểu liên đi dò đường, nếu gặp địch phục kích thì diệt, mở đường mà đi. Dò từng quãng, thông đến đâu thì cho liên lạc về dẫn đơn vị lên, và trong khi đơn vị hành quân lên thì Mạnh dò tiếp. Nghĩa là hành quân kiểu sâu đo. Nếu không thì không kịp.

Đứng trên đê Sa Lung, tôi nóng ruột như bào. Một tiếng không có tin của Mạnh. Hai tiếng cũng không. Tôi tranh thủ thời gian này thanh toán nốt những công việc còn dở dang. Nhìn theo những chiếc võng đi khuất dần vào bóng đêm đưa anh em thương binh về các cơ sở, tôi cảm thấy trong lòng nặng trĩu. Mấy ngày tới sẽ là những ngày thử thách gay gắt nhất đối với họ, số phận của họ sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lòng dân, vào sự dũng cảm và sức chịu đựng của mỗi người, vào may rủi. Chúng tôi đã bỏ anh em lại trong vòng vây của địch mà ra đi. Nhưng chúng tôi ra đi có lọt hay không, ngày mai cái Trung Đoàn 42 này có còn tồn tại nữa hay không cũng là chuyện chưa rõ. Nhưng dẫu sao thì thành thật mà nói tôi không muốn ở vào hoàn cảnh của những anh em đó.

Mọi công việc tôi đã làm xong từ lâu mà Mạnh ra đi vẫn bặt vô âm tín. Lính ngồi chống báng súng ngủ la đà. Cũng như cánh cán bộ tiểu đoàn chúng tôi ở những cuộc họp trong ngôi miếu nhỏ trên gò Vú Cô Tiên.

Đó là nơi tối tối ban chỉ đạo chống càn triệu tập các cán bộ chỉ huy các đơn vị tới họp. Trong miếu không thắp Chỉ có hai ba cái đèn pin pha đèn dán kín bằng giấy than đánh máy chỉ để hở một lỗ nhỏ bằng hạt đỗ, rê đi rê lại trên tấm bản đồ trải dưới đất, tỏa ra một ánh sáng mờ mờ. Bọn cán bộ tiểu đoàn chúng tôi lợi dụng bóng tối cứ ngồi lẩn sau lưng các vị cấp trên, gục xuống ngủ. Cực kỳ mệt. Vả lại chúng tôi ở đây là đuôi trâu. Chính ủy mặt trận, Nguyễn Khai, mắt đỏ như mắt cá chày vì thiếu ngủ, thỉnh thoảng lại gọi:

- Này, ngủ cả à! Lay lay các tướng ấy dậy hộ tý! Phát biểu đi chứ?

Chúng tôi mắt nhắm mắt mở ậm ừ phát biểu một hai câu chung chung rồi lại... ngủ. Không cưỡng được.

Bây giờ, trên đê Sa Lung, chắc anh em chiến sĩ cũng nghĩ họ là đuôi trâu. Còn tôi thì đã thành đầu gà. Mắt cay xè và chắc cũng phải đỏ như mắt cá chày, nhưng vẫn tỉnh căng. Bây giờ nếu có kê giường trải chiếu đàng hoàng cho tôi, tôi cũng không tài nào ngủ được. Lo đến xoắn ruột. Đi đi lại lại kiểm tra các đại đội cho quên cái mặt đồng hồ lân tinh đi mà không sao quên được. Chốc chốc lại ngó. Pháo địch vẫn bắn cầm canh.

Cuối cùng mãi gần nửa đêm mới có liên lạc của Mạnh hiện ra từ trong đêm tối:

- Báo cáo! Anh Mạnh bảo anh cho đơn vị lên. Em dẫn đường.

Lính đang ngủ chỉ cần một lệnh khẽ đã lục tục dậy. Rồi đoàn quân chuyển mình. Cả một tiểu đoàn, lại kéo theo cả nghìn dân, hành quân đội hình một hàng dọc trên đường đồng, nếu đầu đội hình có nhởn nha bước một thì từ giữa đến cuối đội hình cũng phải chạy hộc tốc xốc gan. Vậy mà về sau tôi được nghe anh em kể lại, trong khi chạy như thế với một tinh thần luôn luôn sẵn sàng nổ súng, vẫn có một cậu chiến sĩ nào chạy qua một bãi cứt trâu, đã vừa chạy vừa ngoái cổ lại nói nhỏ bảo anh em chạy sau:

- Này, nhặt hộ cái mũ nồi!

Và một cậu chạy sau đã nhanh nhẩu thọc tay xuống bãi cứt, rồi vặc khẽ:

- Mẹ thằng xỏ lá!

Chạy một quãng, gặp chỗ khó đi thì dồn tầu, rồi lại chạy, lại dồn tầu, không biết bao nhiêu lần như thế, cuối cùng dừng lại đợi. Đợi Mạnh trinh sát dò đường tiếp. Lính ngồi quỵ xuống thở, súng chĩa sang hai bên. Cứ thế cho đến ba giờ sáng tôi cúi rạp xuống đất nhìn lên vẫn chưa thấy bóng đê sông Luộc đâu. Thế này thì sang sông làm sao kịp?

Tôi chạy đến đầu làng Nội thì trời đã mờ mờ sáng, gặp Mạnh đứng đón ở đó. Mạnh người Thái Nguyên, lúc ấy mới hai mươi bốn tuổi nhưng trông già. Tính tình hiền, ít nói, nhưng mặt nom lì lợm, đôi mắt lừ lừ, lính sợ lắm. Không bao giờ nói chuyện gái, chuyện vợ, ai hỏi đến chỉ cười trừ. Tình yêu của anh là garanxuya (gargantua), hiểu theo nghĩa tiếng Việt là gà rán sữa. Nghĩa là mỗi lần diệt xong cái đồn nào, tỉnh ủy địa phương bao giờ cũng tặng riêng ban chỉ huy tiểu đoàn chúng tôi 100 đồng Đông Dương, và lần nào Mạnh cũng tủm tỉm:

- Thế nào, ông Thư, garanxuya chứ!

- ừ thì garanxuya, sợ gì!

Lúc này anh đứng đó, cổ gầy ngẳng, mặt vêu vao, và vốn lì lợm nom càng lì lợm. Anh chỉ cho các đại đội tỏa về ba làng. Phải trú quân lại, bố trí phòng ngự chân kiềng, đợi đến đêm mới sang sông được.

Các cán bộ đại đội cũng đứng cắm ở cổng làng của đơn vị mình rồi thấy bất cứ ai chạy tới, dù là lính đơn vị nào còn rớt lại, dù là quân hay dân, cũng cứ ấn bừa cả vào trong làng. Không mau lên thì sáng toét!

Khi trời sáng hẳn, ai đi qua đầu làng thì tưởng đâu làng không người. Toàn bộ kho kinh nghiệm giữ bí mật của một đơn vị địch hậu tích lũy được từ bao lâu nay đã được các đơn vị đem ra thi thố hết.

Tôi đi vào làng, không nghe thấy một tiếng gà, không thấy bóng một con lợn, chỉ bừa bãi vỏ đồ hộp. Hỏi dân thì mới vỡ nhẽ ra là sáng hôm qua một cánh quân địch còn đóng đây. Và chính từ đây chúng đã tiến vào hợp điểm. Và đến đêm, chúng tôi đã luồn qua nách chúng về chiếm lĩnh cái trận địa chúng vừa rời khỏi ban ngày.

Như trẻ con chơi đổi chỗ vậy.

Cả đêm hôm qua chúng tôi đã chạy được... 5 ki-lô-mét. Những ki-lô-mét vô giá.

Lát sau có liên lạc của trung đoàn xuống báo tin tiểu đoàn bạn cũng phải trú quân lại và triệu tập Mạnh lên họp.

Được một ngày nghỉ ngơi và chuẩn bị cho cuộc vượt sông. Chập tối Mạnh đã cho một phân đội sang chiếm lĩnh đầu cầu bên kia sông và trinh sát tình hình bên trong đê. Tôi đứng trên đê nhìn các tiểu đội từ trong bóng tối nhô lên mặt đê rồi lại tụt xuống bãi. Anh nào cũng đánh độc cái quần đùi, ôm một cây chuối. Và tất cả lùi lũi đi như những bóng ma. Các cán bộ ra lệnh cũng khe khẽ. Dưới nước các tiểu đội giàn thành hàng ngang, tiểu đội nọ cách tiểu đội kia một quãng, nom như từng làn sóng. Sườn bên phải khúc vượt sông của chúng tôi là tiểu đoàn bạn. Sườn bên trái, Mạnh đã bố trí một lực lượng đánh ca-nô, nếu chúng xuất hiện.

Dân Thái Bình hầu hết đã ở lại, đợi địch rút thì quay trở về làng. Đi theo bộ đội chỉ còn cán bộ và dân hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương bị mấy trận càn vừa xảy ra ngay trước trận càn này dồn về đây. Địa phương đã chuẩn bị được một số ít đồ gỗ, đò nan thường ngày vẫn chở khách sang ngang để chở phụ nữ và trẻ em. Còn thì xuống sông tuốt. Tuy vậy nhiều chị em cũng chuẩn bị cây chuối cho chủ động.

Và bây giờ thì không giữ được bà con đi sau bộ đội nữa. Qua các đường ruộng, bà con cứ tự động vọt lên đê. Rồi đến một lúc tôi thấy từ dưới chân đê nhô lên hai bóng trắng. Hai cô gái trần truồng như nhộng, một tay ôm bọc quần áo, một tay vác cây chuối trên vai, lè tè chạy tới. Trong đêm tối trông thấy rõ bốn cái vú nhảy nhảy. Đã thế, tới chỗ chúng tôi đứng, còn dừng lại ghé sát vào, thì thầm hỏi:

- Đi lối này phải không các anh?

- Phải, đi lối ấy. Nhưng sang bên kia sông nhớ mặc quần áo vào đấy nhé!

Chẳng biết ai đó trả lời, cũng bằng cái giọng thì thào như thế.

- Khỉ gió các anh!

Chắc phải là các mẹ cán bộ huyện mới dám táo tợn vậy. Không biết có phải đó là hai cái cô mà xẩm tối hôm qua, trên đê Sa Lung, tôi đã vô tình nghe lỏm được cuộc đối thoại trong bóng tối:

- Mày đi hay ở?

- Tao ở. Còn mày?

- Tao đi. Theo bộ đội.

- Mày theo, tao cũng theo.

Rồi cười rúc rích. Cuộc chọn lựa thật là dứt khoát!

Đứng trên đê, tôi lấm lét nhìn theo hai cái bóng đang tưng tưng đi xuống bờ sông. Phá vây đêm mà nom cứ trắng lốp! Và bất chợt tôi liên hệ nghĩ đến bốn khẩu pháo 105 ly sáng nay.

Sáng nay, sau khi chúng tôi luồn tới được vị trí mới, đôn đốc các đơn vị chuẩn bị trận địa chiến đấu xong, tôi ngồi tựa một gốc cây chợp mắt một tý cho đỡ mệt. Đang ngủ say thì bị ai vỗ đốp một cái vào vai, giật bắn mình. Và có tiếng hỏi giật:

- Này, mày ơi! Ban chỉ huy tiểu đoàn đâu?

Tôi mở mắt: một cậu chiến sĩ trạc tuổi tôi đang đứng trước mặt. Vừa bực mình, vừa buồn cười, tôi đáp lại cũng bằng cái giọng cậu ta:

- Tao đây, mày hỏi gì?

Cậu ta đỏ mặt lúng túng.

- Báo cáo anh, em mới về đơn vị, chưa thuộc...

- Chuyện gì thì nói đi.

- Báo cáo, địch kéo tới bốn khẩu pháo 105 ly, bố trí trên đê, ngay trước mặt chúng ta...

Tôi bật dậy:

- Vào báo cáo anh Mạnh! Nằm trên cái nong trong nhà kia kìa.

Vài phút sau, tôi cùng tiểu đoàn trưởng Mạnh và trung đoàn phó Nguyễn Tiệp đã nấp sau bờ tre. Trên đê có bốn khẩu 105 ly thật, giàn hàng ngang cách chỗ chúng tôi khoảng 700m đồng trống.

ùng... ùng... ùng... ùng bốn tiếng nổ đầu nòng. Đạn pháo rú qua đầu chúng tôi. Rồi oàng oàng... bốn tiếng đạn nổ sau lưng chúng tôi, cách khoảng bốn, năm cây số về hướng trận địa chúng tôi vừa rời bỏ đêm qua. Tiên sư chúng mày nhá, bố chúng mày đây cơ mà!

Trên đê, trần xì bốn khẩu pháo nằm tênh hênh, không thấy bóng một đơn vị bộ binh bảo vệ.

Tiểu đoàn trưởng Mạnh cười nói:

- Mẹ! Chúng nó chủ quan thật. Yên trí anh em còn đang lúng túng như gà mắc tóc trong kia mà.

Trung đoàn phó Tiệp cười khì khì, hỏi chúng tôi:

- Thế nào, oánh chứ? Trông ngon quá!

Oánh thì oánh được. Thế nào cũng diệt được một hai khẩu, còn một hai khẩu thì chắc chúng sẽ kịp móc vào xe bò chạy. Hoặc nếu cối ta bắn giỏi thì cũng có thể diệt được cả bốn. Nhưng đánh xong thì thế nào? Mình đang ở tình thế buộc phải nằm im như thóc, ẩn mình trong mấy làng, bốn bề là địch đang đi tìm mình. Đánh thì khác gì lạy ông tôi ở bụi này. Thôi, các ông ơi, ngon thì đành nuốt nước bọt vậy, không xơi được đâu!

Thực ra cả ba chúng tôi đều hiểu thế. Trung đoàn phó có hỏi oánh chứ chẳng qua chỉ là nói lên nỗi tiếc của trời mà thôi.

Câu chuyện bốn khẩu 105 là như thế. Tôi nhìn xuống chân đê: hai cái bóng trắng đã mất hút. Chắc là xuống nước rồi. Bốn khẩu 105 ly sang sông.

Hai mẹ cán bộ huyện này đã xử lý tình huống một cách dứt khoát và nhanh gọn như thế! Còn cái cô sư nữ chùa gì tôi chẳng nhớ thì sao nhỉ? Cứ xúng xính quần chùng áo dài, hay là... thế nào? Tối qua, trên đê Sa Lung tôi thấy một cô sư nữ ngồi lẫn trong hàng quân. Quái nhỉ, dân đi theo bộ đội tôi đã cho xếp hàng, cử cán bộ phụ trách hẳn hoi, nối đuôi bộ đội, cách một quãng, để đề phòng chạm địch, phải nổ súng, sao lại có cô sư nữ này ngồi lẫn vào đám tiểu đoàn bộ? A... tôi chợt nhớ ra.

Cánh trinh sát tiểu đoàn bộ đồn đại nhiều về chuyện cô sư nữ này. Họ bảo cô là học trò Hải Phòng chẳng hiểu vì sao chán đời bỏ về quê đi tu. Hồi còn tề, chùa của cô là cơ sở của trinh sát. Có lần lính dõng vào định kiểm soát chùa, thấy cô đang ngồi gõ mõ tụng kinh một cách thành kính thì bỏ đi ra. Chúng có ngờ đâu trong gầm bệ thờ có cậu tiểu đội trưởng trinh sát đẹp trai, cũng học trò Hải Phòng, đang ngồi thu lu. Rồi một tối nọ, một cậu trinh sát khác đi ngang đàng sau chùa, nghe thấy trong vườn có tiếng thở dài não nuột:

- Tiếc rằng sao bây giờ mới gặp nhau...

Cậu trinh sát tinh nghịch này ghé mồm nói qua hàng rào:

- Chưa muộn đâu! Có tổ chức thì để anh em giúp một tay! Rồi ù té chạy.

Đi đến gần chỗ cô sư nữ ngồi, tôi đã nghe thấy tiếng lính ta hỏi trêu:

- Sư mà cũng phải chạy à?

Cô đáp:

- Bắt được em thì nó cũng chẳng tha.

Phải rồi, trước kia là dõng thì có đối phó được, còn bây giờ GM chỉ toàn lính Âu Phi, cô sợ là phải. Thôi được, đối với một ni cô xinh đẹp và lại biết xưng em với lính thì ta có thể tha thứ cho nhiều điều. Xin mời cô cứ ngồi đấy. Tiểu đoàn bộ cũng có một thuyền nan nhỏ.

Như vậy là cuộc vượt sông ban đầu diễn ra khá đẹp. Nhưng nửa giờ sau, từ giữa sông bắt đầu nổi lên một tiếng ồn. Lúc đầu nhỏ và thưa thớt, rồi cứ tăng dần lên. Có lúc nghe rõ một tiếng kêu thét cụt lủn:

- Mẹ ơi!

Sóng sông Luộc đã đánh tan các đội hình. Dưới nước dân gọi nhau, lính gọi nhau, người đuối sức kêu cứu, người đã lên bờ cũng gọi tìm nhau. Tiếng ồn tăng lên dần, rồi trở thành như tiếng vỡ chợ. Đứng trên bờ, chúng tôi lo lắng và bất lực nhìn ra giữa sông...

Rồi bất thình lình oàng oàng, hai quả đạn đại bác nổ trên không lóe ra hai khối lửa úp xuống dòng nước:

- đạn fusant! Tiếng ồn lặng bặt để sau đó lại nổi to hơn, hòa vào tiếng pháo địch bắn dồn dập hơn. Đạn pháo lóe lên, nhảy nhót trên trời như những khối lửa địa ngục. Đêm hôm, tiếng nổ rung chuyển cả một vùng.

Mạnh ra lệnh cho các đại đội:

- Lộ rồi, đợi một lát pháo ngớt thì cho anh em sang ào cả một lần càng nhanh càng tốt, tản rộng ra.

Và anh cho tăng cường lực lượng đánh ca-nô. Lát sau, thấy pháo đã ngớt, tôi bảo Mạnh:

- Tôi bơi sang trước. Anh đợi thuyền đi với các anh bộ tư lệnh.

Tôi cởi quần áo, súng lục, sắc cốt, giao cho đồng chí cần vụ để anh ta đi thuyền. Anh ta bơi kém. Tôi giữ độc chiếc quần đùi để bơi vô. Tôi không quen bơi cây chuối.

Sang tới bờ bên kia, tôi lảo đảo lội lên bãi, rồi nằm vật xuống, má áp xuống cát, mồm đớp đớp như cá mắc cạn. Đứt hơi. Tôi cứ nằm dang rộng hai tay ôm lấy cái bãi cát Lệ Chi như thế một lúc, rồi hình như nghe có tiếng ai gọi xa xa, không rõ lắm.

- Anh Thư ơi!

Tiếng gọi lặp lại gần hơn và rõ hơn.

- Anh Thư ơi!

Rồi chỉ lát sau tôi thấy cậu cần vụ của tôi vừa đi tới, vừa gọi tìm.

Tôi lóp ngóp bò dậy.

- Ôi giời ơi! Anh...

Cậu ta chạy tới đỡ tôi dậy và cười ngượng ngập như người có lỗi:

- Thế mà em cứ tưởng... Em tìm anh mãi.

Tôi nhìn ra sông. Chỉ còn ít người bơi rải rác. Mấy cái thuyền cấp cứu đang qua lại xuôi ngược. Pháo địch đã ngừng. Đồng chí cần vụ báo cáo.

- Các đơn vị sang ào cả một chuyến gần hết rồi. Sang đến đâu đi luôn. Anh Mạnh cùng vào trong kia rồi. Ta đi thôi, anh.

Tôi vịn vai đồng chí cần vụ đi xuyên qua xóm bãi Lệ Chi. Sức tôi hồi lại dần. Lên tới mặt đê, tôi thấy trung đoàn trưởng Nguyễn Như Thiết đang xuống dốc đê. Thoáng thấy tôi, anh ngoái cổ lại giơ cao tay làm hiệu cho tôi với một nụ cười đắc thắng.

Quả thật, đưa được một trung đoàn sang sông trong điều kiện như vậy không phải chuyện đùa.

Đi được hơn một cây số tự nhiên tôi thấy bụng đau quặn. Tôi tạt xuống ruộng, ngồi tụt xuống. Rặn mãi chỉ són ra tí nước nhầy. Tôi lê đít xuống cỏ để chùi (đào đâu ra giấy bây giờ?). Rồi đi tiếp. Một lát sau lại đau quặn. Lại tạt xuống ruộng. Lại tí nước nhầy. Lại đi. Lại đau quặn. Mấy lần như thế. Rồi tức mình chẳng rẽ xuống ruộng nữa, cứ ngồi thụp ngay bên vệ đường. Lính từng người, từng tốp chạy qua sát mặt tôi. Kệ họ! Rồi cuối cùng mệt quá, hậu môn rát như phải bỏng do lê xuống cỏ, tôi giản chính nốt cả cái động tác ngồi xuống. Cứ đi, và cứ mặc nó chảy ra quần, ướt hết cái đũng, rồi bò xuống đùi nong nóng. Mặc! Nó làm việc nó, mình làm việc mình. Đường ta ta cứ đi.

Về đến địa điểm bố trí, thuộc huyện Phù Cừ thì trời còn tối, nhưng đã nghe thấy tiếng phụ nữ lao xao và tiếng lợn eng éc. Chị em Phù Cừ đang mổ lợn nấu cơm cho bộ đội vượt sông.

Tôi xuống ao, kỳ cọ một lúc tỉnh người. Vào nhà thì đã thấy cậu cần vụ bưng về một bát tiết canh:

Anh mệt quá nên bị nhiệt đấy thôi. Anh ăn đi, rồi ngủ một giấc, dậy sẽ khỏi.

Chẳng biết thực hư ra sao, nhưng đói quá tôi cứ cầm lên ăn. Mát ruột! Tôi ngủ độ nửa tiếng thì bật dậy lật đật đi nắm tình hình thương vong trong đêm vượt sông. Và mãi đến chiều mới để ý thấy cái cơn đau bụng kiết lỵ kia đã biến đâu mất thật! Chẳng còn hiểu ra làm sao.

Nghỉ một ngày để chỉnh đốn đơn vị, bổ sung quân số v.v... Một ngày nghỉ rối tung rối mù. Rồi ngay ngày hôm sau, tiểu đoàn tôi nhận được lệnh chuẩn bị gấp rút để đến tối vượt lại sông Luộc, lộn trở về Thái Bình. Địch đã cho một cánh quân từ thị xã Hưng Yên vòng xuống để truy kích chúng tôi. Trong khi đó, bên Thái Bình, địch đã cất vó xong, và đã bắt đầu rút một bộ phận, để lại một bộ phận làm công việc bình định. Nhiệm vụ của chúng tôi là trở về Thái Bình tạo cơ hội đánh bọn bình định ấy. Còn cánh quân truy kích của địch thì tiểu đoàn bạn sẽ ở lại đối phó với nó.

Trong một buổi hỏi cung tôi, ông Nhuận nói:

- Biết cái gì về anh Văn thì khai ra.

Câu nói thật tế nhị trong sự mập mờ của nó. Cái gì là cái gì nhỉ?

Có, tôi biết một cái. Đích xác. Vì nó liên quan trực tiếp đến chúng tôi. Tức là đến ngày thứ năm của trận chống càn nói trên, khi chúng tôi còn đang chiến đấu trong vòng vây, đầy lo âu, chúng tôi đã nhận được một bức điện ngắn gọn:

Các đồng chí cứ yên tâm. Chủ lực đã mở chiến dịch Lý Thường Kiệt đánh thu hút lực lượng địch, đỡ đòn cho các đồng chí - Ký tên: VĂN.

Chiến dịch Lý Thường Kiệt là chiến dịch Đại Đoàn 312 đánh giải phóng Nghĩa Lộ. Và quả thật, nhận được điện chúng tôi đã yên tâm.

Nhưng khai cái này ra thì chắc ông Nhuận chẳng bằng lòng. Cái khác cơ! Cái khác thì tôi không biết.

Chương 2

Một ngày tháng 6 năm 1973, tại trại giam quân sự Trung ương ở Bất Bạt, Sơn Tây.

Tôi quay lại nhìn một lần chót ngôi nhà nhỏ giam tôi. Đó là một ngôi nhà vuông, nom như cái chòi canh đê, đủ cho một người ở, kê một giường cá nhân, một bàn viết kèm theo ghế tựa, trên giường có giá xích đông để đặt các đồ linh tinh. Nhà có hai cửa sổ, xây trên sườn đồi thoai thoải, trước nhà là sân và vườn rộng khoảng một sào, có giếng nước trong leo lẻo với con cá lội tung tăng, có chuồng gà ghép bằng thân cây sắn, có hố vệ sinh.

Bên ngoài, dưới chân đồi là ruộng lúa và xa xa mấy ngọn đồi thông. Ngồi trước cửa sổ nhìn ra sân thấy một bụi hồng lớn, hoa lá um tùm, cao hơn đầu người, do ai bị giam ở đây trước tôi đã trồng. Không rõ loại hồng gì mà hoa chỉ nhỏ bằng những bông nhài lớn, nhưng nhiều lớp cánh đỏ chót, rất đẹp, và chi chít hàng trăm, mấy trăm bông. Bao nhiêu buổi chiều xuống, tôi đã đứng ngắm bụi hồng này hồi lâu, chọn xem bông nào là Thúy Kiều, bông nào là Thúy Vân.

Đại để là một ngôi nhà kẻ sĩ ở ẩn, trong đó anh muốn làm gì thì làm. Một ngôi nhà ở ẩn, nếu không có cái hàng rào dây thép gai xen lẫn với mấy hàng cây sắn cao rậm rạp, và nếu ban đêm cửa buồng không bị khóa trái. So với tất cả những nơi tôi bị giam giữ trước đó thì đây quả thật là một nơi không dám mơ ước.

Sáu tháng trước khi được chuyển từ trại giam Tân Lập, Yên Bái, về đây, tôi đã ngạc nhiên một cách thú vị. Nhưng chỉ một tuần sau là mọi sự đã rõ: gia đình tôi lên thăm, báo tin một số anh em đã được về. Vậy là tôi cũng sắp được về. Và đây là nơi tôi được chuẩn bị để làm quen dần với tự do. Thực là chu đáo quá! Nếu đùng một cái được thả ra khỏi cổng nhà tù, khéo tôi hóa rồ mất thật. Và đây cũng là nơi để người ta vỗ béo cho tôi (tất nhiên là bằng tiền của vợ con tôi) trước khi tôi được cho về triềng làng triềng nước (trình làng trình nước). Vì ở đây gia đình được đi thăm nom tiếp tế thoải mái. Chỉ sợ không có sức.

Vậy là một lần chót tôi quay lại nhìn từ biệt ngôi nhà nhỏ đã chứng kiến bao nhiêu tâm tư của tôi, rồi bước đi theo người quản giáo. Tôi mặc bộ quần áo tù nhuộm chàm, đầu đội nón, vai gánh chiếc ba lô lính và đồ đạc lỉnh kỉnh (nồi niêu chai lọ hộp...) treo lủng lẳng hai đầu chiếc đòn gánh làm bằng cành cây, tay trái xách chiếc bu gà có một con gà mái già đã đẻ ba bốn lứa mà bà mẹ vợ tôi đã đem đến tiếp tế cách đây mấy tháng để nó làm bạn với tôi trong cảnh cô quạnh. Bây giờ trông thấy tôi trong bộ dạng này chắc bà phải cười ra nước mắt.

Người quản giáo dẫn tôi loanh quanh đường đồi đến một gian nhà khác, bảo tôi đặt đồ lề vào góc, và chỉ cho tôi ngồi vào bên bàn, ở đó đã có ba người hai cán bộ chấp pháp của Bộ Công An và một trung tá của Cục Bảo Vệ Quân Đội, ngồi chực sẵn.

Một trong hai người kia mở đầu:

- Chắc anh đã rõ hôm nay anh được gọi ra đây để làm gì?

Tôi gật đầu:

- Có.

Rồi ông ta đọc cho tôi nghe liền một lúc bốn cái lệnh:

Lệnh thứ nhất: lệnh tạm giam Trần Thư 3 năm vì tội chống Đảng, ký tháng 12-1967.

Lệnh thứ hai: lệnh tạm giam thêm 3 năm, ký 3 năm sau, tức 1970.

Lệnh thứ ba: lệnh tạm tha, ký mấy ngày trước đây.

Đến đây thì kèm theo lời giải thích:

- Như thế là anh được về sớm 6 tháng so với thời hạn. Đó là do chính sách khoan hồng của Đảng và do anh đã cải tạo tốt.

Cuối cùng là lệnh thứ tư: lệnh quản chế ba năm lao động cải tạo tại huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, ký cùng ngày với lệnh tạm tha.

Tôi có vài ý nghĩ:

Một là: tất cả các lệnh trên đây, cùng với lệnh bắt tôi trước kia và các lệnh khác sau này, tôi chỉ được đọc cho nghe qua một lần, không được cầm đọc, càng không được có một bản sao gửi cho đương sự để thi hành, cho nên tôi không nhớ được cụ thể ngày ký và người ký. Hình như người ta không muốn tôi có được bất cứ một thứ giấy tờ gì làm bằng chứng cho việc tôi bị bắt.

Hai là: tôi có cảm tưởng cả bốn lệnh trên đây đều được ký cùng một lúc, một ngày, nhưng lại đề ngày tháng khác nhau. Nếu không thì tại sao một lệnh ký cách đây 5 năm rưỡi lại phải đợi đến bây giờ mới được đọc cho đương sự nghe để thi hành?

Ba là: tất cả đều là tạm. Tạm giam, nghĩa là không xét xử, không có án, không có thời hạn, nếu cần thì tạm giam thêm, không cần nữa thì tạm tha, nghĩa là không tha hẳn, có thể hiểu là: được cho về thì tăng xương, vớ vẩn là ông bắt lại.

Bốn là: một cơ quan Nhà Nước là Bộ Công An lại bắt giam người vì tội chống Đảng, và tha người cũng vì chính sách khoan hồng của Đảng. Tất cả các thủ thuật để làm cho việc bắt bớ tôi có vẻ hợp hiến ấy, tôi thấy nó lủng ca lủng củng quá! Nhưng những ý nghĩ ấy là mãi về sau này, ngồi nghĩ lại tôi mới nảy ra dần dần. Chứ ngay lúc đó thì những cảnh hiện ra trước mắt tôi, những câu nói lọt vào tai tôi rồi lại bay đi đâu mất, tôi đâu có để ý đến.

Chỉ có độc một ý nghĩ: Tự do! Tự do!

Người tôi cứ bàng hoàng, nhẹ như bấc. Và tất cả những gì đã xảy ra với tôi trong những năm tháng vừa qua bỗng trở thành một quá khứ xa xăm.

Lúc ấy tôi đã quên sạch.

Quên rồi, những đêm giá rét nằm trong xà lim Hỏa Lò, nghe tiếng chuông xe điện leng keng từ phía Cửa Nam vọng lại mà có cảm tưởng như nằm dưới đáy mồ lạnh lẽo nghe tiếng động của trần gian vọng xuống.

Quên rồi, những đêm tháng Sáu, cũng vẫn cái xà lim Hỏa Lò rộng vài mét vuông ấy với một cửa sổ thông hơi sát trần cao năm mét. Tiếng bay rào rào của hàng trăm con muỗi to bằng con ruồi. Chiếc màn ngủ bằng vải xô bí rì, đình màn còn phủ kín quần áo để che bớt cái ánh đèn điện 100 oát quái ác ở trên trần cứ chiếu xoáy vào mắt. Và bên trong cái lồng ấp ấy, tôi nằm trần truồng, vật vã trên sàn xi măng nóng hổi và nhầy nhụa mồ hôi chảy ròng ròng từ khắp người tôi xuống. Cảm giác mình như con lợn lăn lộn trong cái chuồng đầy cứt đái.

Quên rồi, những buổi bức cung đáng sợ. Suốt hai tháng trời chỉ có độc một câu hỏi: Hoàng Minh Chính đã lệnh cho anh hoạt động những gì ở trong quân đội? có lúc đổi thành: Hoàng Minh Chính đã truyền đạt cho anh những chỉ thị gì của Liên xô về hoạt động ở trong quân đội?, hoặc dữ dằn hơn Liên xô đã chỉ thị cho anh hoạt động những gì ở trong quân đội?

Nếu chuyện đó có thật thì chắc là tôi đã khai ra hết rồi. Vì sau chín tháng trời bị quần như thế, người tôi đã nhão hết. Vả lại... Đảng hỏi anh cơ mà, Đảng mà anh đã hy sinh cả thời trai trẻ của mình cho nó, Đảng đầy tình thương yêu đồng chí, chỉ mong anh trút bỏ tội lỗi đi thì sẽ tha thứ cho anh. Đảng chỉ muốn cứu vớt anh. Anh khai mau cho xong đi, để về. Về cho chị ấy đi học bác sĩ chứ, cơ quan chị ấy định bố trí cho chị ấy đi học lớp bác sĩ mà. Về mà chăm lo con cái chứ mặc cho một mình chị ấy hay sao? Và còn tương lai của anh nữa, anh là một cán bộ trẻ có năng lực...

Đúng là nếu chuyện mà người ta muốn tôi khai ra là có thật thì chắc chắn tôi đã khai ra hết. Nhưng chuyện đó không hề có và tôi còn đủ tỉnh táo và lương tâm để không đơm đặt điều gì cho ai. Nhưng trình bày như thế nào thì cái ông Nhuận có bộ mặt lầm lì da sát tận xương kia vẫn nhất định không tin. Và tiếp theo những lời dỗ dành ngon ngọt là một cái đập bàn: Anh định chết rũ xương trong tù hay sao mà không chịu khai? Tôi ngồi đó, lòng đầy tuyệt vọng, nước mắt chỉ muốn ứa ra và óc lởn vởn một ý nghĩ: có nên lao ra đập đầu vào cái ô cửa kính kia hay không?

Bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu ê chề, bao nhiêu cơ cực, bao nhiêu hờn oán nặng trĩu hai vai!

Nhưng lúc này đây tôi đã quên sạch. Tôi cứ ngồi đó, người lâng lâng, miệng mỉm cười.

Anh chú ý là về địa phương tình hình phức tạp, có những kẻ xấu, đừng để họ lôi kéo.

Câu nói ấy của một trong hai người cán bộ chấp pháp kia làm tôi bừng tỉnh. Và bất ngờ tôi bật ra một câu đối đáp:

Các anh coi thường tôi quá! Chẳng gì tôi cũng là một tên phản cách mạng cỡ kha khá, lại để mấy anh tề ngụy ở xã lôi kéo hay sao? Tôi tha lôi kéo họ thì thôi chứ!

Nói câu ấy là tôi muốn ám chỉ cái lệnh bắt tôi trong đó gọi tôi là tên phản cách mạng Trần Thư và cũng ám chỉ cả cái sắc lệnh trừng trị phản cách mạng đầy những điều khoản mơ hồ mà năm 1967 ban Thường Vụ Quốc Hội đã thông qua vội để làm cơ sở pháp lý cho việc bắt bớ chúng tôi. Và trong quá trình hỏi cung người ta không đánh giá tôi là cái gì khác ngoài cái là phản cách mạng, phản động, phản quốc, phản dân, phản Đảng, tóm lại là ngũ phản.

Nhưng nói câu ấy tôi cũng nói một cách vui vẻ, như một câu pha trò. Tôi tưởng họ sẽ phản ứng. Ngờ đâu họ cũng cười, chắc là thấy câu pha trò có duyên.

Một không khí thật là hồn nhiên vui vẻ.

Lát sau người ta bảo tôi ra xe. Anh trung tá Cục Bảo Vệ sẽ áp tải tôi về Phù Cừ. Tôi định ra lấy đồ lề thì anh ta ngăn tôi lại, ôn tồn nói:

- Anh cứ ra xe, đồ lề để đây tôi bảo anh em cảnh vệ mang đỡ ra cho.

Quả thật hôm nay, người với người là... bạn.

Tôi hăm hở bước ra xe com-măng-ca, hùng dũng như một vị thủ trưởng. Bỗng từ một ngọn đồi xa xa, vẳng lại một tiếng con gái trong trẻo:

- Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai...

Tiếng hò của các cô gái dân công trên đường đi chiến dịch năm nào! Tôi đứng sững lại. Và nước mắt cứ thế trào ra, trào ra, không tài nào ngăn được. Còn miệng thì cười. Một nụ cười thê thảm.

Chương 3

Tôi vốn là một học trò trường Bưởi, cũng như bao bạn khác, nghe lời kêu gọi của cách mạng, đã xếp bút nghiên lên đường tranh đấu. Hoạt động nghiệp dư hơn một năm thì tôi được chỉ thị của cấp trên thoát ly gia đình đi làm chuyên nghiệp. Tôi trốn nhà ra đi, lấy trộm mang theo một tạ gạo là toàn bộ số gạo mà bố mẹ tôi tích trữ để đề phòng nạn đói. Nhưng đi được ít lâu thì bị ông bố tôi tóm gọn.

Số là tôi có một người anh họ, cũng đi Việt Minh nhưng không thoát ly gia đình, và thỉnh thoảng tôi có qua lại nhà để trao tài liệu. Bố tôi đã thuyết phục được anh họ tôi hôm nào tôi đến thì phi báo cho cụ vì cụ muốn nói chuyện với tôi. Thế là một bữa nọ, tôi đã bị bắt sống.

Bố tôi là một ông giáo học rất nghiêm khắc. Trong họ tôi nổi tiếng sợ rắn. Duyên do là hồi tôi còn nhỏ, hàng ngày kèm tôi học ở nhà, không bữa nào cụ không củng lên cái đầu trọc lóc của tôi vài cái cốc tưởng phải thủng sọ. Vậy mà sọ tôi vẫn gin. ở trường tôi vẫn giỏi về môn tiếng Pháp, viết chính tả thường không phạm lỗi nào, hoặc chỉ một hai lỗi là cùng. Nhưng cũng vẫn bài ấy, về nhà bố tôi đọc cho viết lại thì bao giờ tôi cũng phạm từ mươi lỗi trở lên. Chẳng là vì bao nhiêu tâm trí của tôi đều tập trung hết lên đỉnh đầu, nơm nớp đón đợi cái cốc như trời giáng sắp nện xuống. Này, này, sắp này... sắp này... cốc! Toàn thân tôi giật bắn lên, mắt tôi nổ đom đóm. Và có lần tôi đã vãi đái.

Riêng chữ charrette thì nó đã là cái tai họa một thời của tôi. Vì tôi viết nó không bao giờ đủ được cả hai r và hai t, không thiếu chữ nọ thì thiếu chữ kia. Cuối cùng hết kiên nhẫn, cụ tôi quát:

- Ngu lắm! Charrette là cái xe bò. Xe bò thì phải có hai càng và hai bánh, cho nên phải có hai r và hai t. Nhớ chưa?

Thì ra là xe bò có hai càng và hai bánh! Tôi mừng quá! Và từ đó thoát được cái nạn xe bò.

Tôi có một người chị ruột học ở trường Albert Sarraut mới vào ban tú tài. Ngày xưa con gái Hà Nội nhà tử tế đi học đều mặc áo dài, đi dép có quai hậu, và đến tuổi mười bảy, mười tám ra đường bao giờ cũng bước khoan thai, nghiêm trang nhìn thẳng trước mặt, không bao giờ ngó nghiêng hai bên. Chị tôi cũng thuộc loại ấy, mặc dầu chị được coi là hoa khôi.

Một thầy giáo chủ nhiệm người Pháp kêu chị lên bảng đọc bài không gọi bằng cái tên nào khác là Mignonne.

Lần ấy lớp chị tôi tổ chức liên hoan tất niên. Nhân dịp ấy, chị đã xoa một lớp phấn kín đáo và ra đi thoát qua được mặt bố tôi an toàn. Dè đâu vài phút sau cụ sực nghĩ ra:

- Con Nhung đi qua mặt tao có mùi gì thơm thơm. Nó đánh phấn!

Thế là cụ lập tức bắt tôi phải đi cùng anh người ở bưng một chậu nước thả sẵn cái khăn mặt đuổi theo chị tôi và bất kỳ bắt gặp ở đâu cũng cứ đặt chậu nước xuống, bắt chị phải rửa mặt tại chỗ.

Nhận được cái lệnh oái oăm ấy, tôi nghĩ ngay đến cái anh chàng học trò trường Bưởi trắng trẻo và nho nhã nom khá dễ thương, đi học vẫn lẽo đẽo theo sau chị tôi một quãng. Và một ngày chủ nhật gần đây, lợi dụng lúc chỉ có một mình tôi trông cửa hàng, anh ta đã ném vào cả một quyển thơ Sonnet bằng tiếng Pháp của anh viết tặng người đẹp, lời thơ đầy đau buồn và thương nhớ. Tôi lấm lét nhìn vào trong nhà thấy không ai biết, vội đút ngay vào trong người, rồi đợi đến lúc mẹ tôi ra, tôi lỉnh luôn lên gác, lặng lẽ đưa chị tôi. Trong nhà, hai chị em tôi thuộc tầng lớp những người cần phải... liên hiệp lại! Chị tôi ngỡ ngàng lật ra xem, và khuôn mặt xinh đẹp của chị ửng dần lên, rồi đỏ rừ. May mắn làm sao là bà mẹ tôi đã kịp thời huy động toàn bộ dự trữ nước mắt của bà và chặn đứng được sự thực thi cái mệnh lệnh quái ác kia. Bà có ngờ đâu bà vừa làm được một việc rất thánh thiện. Còn tôi thì thở phào nhẹ nhõm.

Tôi biết rằng những lời thơ đau buồn ấy đã làm cho tâm hồn con gái của chị rung động. Vì đôi lần tôi bắt gặp chị mở tập thơ ra xem... trộm, thấy tôi đến lại vội cất đi. Và tôi cũng biết chắc chắn rằng chị chưa lần nào thư từ đáp lại lời tỏ tình ấy, vì nếu có thư thì tôi ắt phải là con nhạn mang thư. Ông cụ tôi như thế thì chị nào dám thư từ đi lại với ai. Và ngày ngày chị đi học vẫn có anh học trò trường Bưởi lẽo đẽo theo sau.

Hai năm sau chị lâm bệnh nặng qua đời.

Đám tang ngợp những vòng hoa trắng. Và ở cuối dòng người đi tiễn chị, có anh học trò bước đi những bước vô tri, mặt cúi gầm giấu hai hàng nước mắt.

Tên anh học trò ấy là Phạm Xuân Lân, nếu bây giờ còn sống, anh cũng phải khoảng 75 tuổi, liệu có lúc nào anh hồi nhớ lại mối tình đầu ấy không? Trên bia mộ của chị, tôi đã thay mặt anh cho khắc câu thơ của Rông-xa (Ronsard) khóc người yêu:

Rose, elle a vécu ce que vivent les roses

L espace d un matin.

Thực ra ông cụ tôi không phải là người ác. Cụ chỉ sống theo một lễ giáo nào đó thôi, và không phải con người sắt đá vô tình. Chứng cớ là tôi đã được thấy cụ khóc, khóc một cách đau khổ. Đó chính là vào cái hôm cụ bắt được tôi ở nhà ông anh họ tôi. Vừa khóc vừa kể lể:

Nó đi, bỏ lại trong ngăn kéo bàn học của nó hai cái hộp in truyền đơn... Hộp thì tôi chẻ ra đem đốt, khói mù cả nhà, cả một buổi mới cháy hết... Còn đất sét thì tôi nhét xuống cống... Thế mà người ta bắt được nó thì người ta chặt đầu chứ còn gì...

Hồi ấy ở phố Chả Cá có chuyện lính Nhật đi đường bị một con chó hàng phố xồ ra cắn, đã rút kiếm chém một nhát đứt phăng cái đầu. Chắc là cụ đã nghĩ đến chuyện ấy, và nói đến đây, cụ đứng bật dậy, lao vào tường định đập đầu tự vẫn. Tất nhiên cả nhà đã xô đến, giữ chặt lấy cụ.

Trước cảnh tượng ấy, tôi cũng... khóc. Tôi không nhớ sau đó mọi người đã thuyết phục cụ như thế nào, chỉ biết rằng rốt cuộc cụ vẫn để tôi đi. Tôi ra đi, lòng dạ rối bời: tôi mới mười tám tuổi.

Đoàn thể giao cho tôi in báo Hồn Nước. Cơ sở in của chúng tôi được đặt cho cái tên rất kêu là Nhà In Ký Con Đoàn Trần Nghiệp, thực ra chỉ có hai người và vài viên đá li-tô, đầu tiên đặt ở làng Mọc Giáp Nhất, ngoại thành Hà Nội. Suốt ngày hai anh em chúng tôi cứ đóng cửa, cấm cung trong cái buồng đầu hồi một căn nhà lá ba gian là nhà của gia đình anh Hải Hùng, sau này là Cục Phó Cục Tuyên Huấn, Tổng Cục Chính Trị. Trong căn buồng tối tăm ấy chúng tôi suốt ngày ngồi viết chữ ngược trên đá li-tô và hì hục in, đến đêm mới được ra bờ ao mài đá. ở đó suốt một tháng mà trong làng không ai biết là có chúng tôi.

Đến nạn đói ất Dậu, sáng nào xe bò cũng chở kìn kìn những xác người chết đói nhặt trên các vỉa hè Hà Nội mang ra ngoại thành chôn. Chúng tôi cũng đói, vì đoàn thể không đủ gạo cung cấp. Thực ra thì không phải nhịn bữa nào, nhưng là bữa nào cũng chỉ ăn lưng lưng dạ dày. Có đêm tôi đã lẻn ra ruộng rau của dân, mạn phép đoàn thể hái trộm rau về luộc ăn.

Một đôi lần về nội thành, tôi bị bố tôi bắt gặp ngoài đường. Nhưng những lần ấy cụ chỉ mắt trước mắt sau lẳng lặng dẫn tôi đến hiệu ăn Nghi Xuân, một hiệu ăn Tàu nổi tiếng hồi ấy ở gần chợ Hàng Da, cho ăn một bữa nhớ mấy ngày. Ăn xong, cũng lại mắt trước mắt sau dúi cho tôi một hai chục đồng Đông Dương. Những đồng tiền ấy tôi giữ như những lá bùa hộ mệnh. Hồi ấy, cơ sở in của chúng tôi đã chuyển về làng Canh, đặt tại nhà anh em anh Bảo Thé (anh Bảo có giọng nói vỡ the thé và sau này là chính ủy một binh chủng) và hai chúng tôi được gia đình anh nuôi. Nhà anh Bảo là nhà gạch hai tầng xây kiểu nửa cổ nửa kim, khá to, vậy mà hồi ấy cũng thiếu, bữa nào mỗi người cũng chỉ có hai lưng cơm chan với nước bã đậu. Cho nên mỗi lần về Canh, qua Cầu Giấy, tôi lại xuất ra, và cũng chỉ dám xuất ra một đồng mua một nắm cơm tấm Sài Gòn trắng bong, ở giữa nắm có ấn trũng xuống để khi có khách mua thì nhà hàng đổ vào đó thìa muối vừng mặn chát. Đối với tôi lúc ấy thế đã là sang trọng rồi.

Cách Mạng Tháng Tám thành công. Không cần phải nói rằng ông bố tôi rất lấy làm hãnh diện về thằng cả Cò nhà cụ. Nói đúng ra thì đến lúc ấy, đối với cụ tôi đâu phải thằng cả Cò nữa, và cũng không phải thằng Cung, mà là anh Cung.

Công bằng mà nói thì cụ nên tự hào về chính cụ: cụ đã vượt được lên cao hơn chính bản thân mình. Vì thực ra, lần gặp tôi ở nhà người anh họ tôi, cụ có đủ quyền uy để kéo tai tôi lôi về, rồi nhốt tịt ở một xó nhà quê nào đó. Và tất cả sẽ không còn gì để nói nữa.

Kháng chiến toàn quốc. Cụ đã thuê người cáng bà mẹ quanh năm đau ốm của tôi, cùng bầy đàn thê tử, bỏ tất cả ở lại, lốc nhốc dắt díu nhau tản cư lên Việt Bắc theo kháng chiến.

Lúc ấy tôi đang ở bộ đội.

Chương 4

Những năm hòa bình mới lập lại tôi đã sống một không khí thật là hào hứng. Không phải chỉ là vì tôi bước vào hòa bình với trên vai một ba lô thành tích có thể làm cho một thanh niên như tôi cảm thấy tự hào được. Cũng không phải chỉ vì đất nước tôi vừa thực hiện được một kỳ tích lịch sử chấn động địa cầu, mở đầu một phản ứng dây chuyền làm sụp đổ toàn bộ hệ thống thuộc địa thế giới. Mà còn là vì phong trào cộng sản quốc tế và phe xã hội chủ nghĩa đang ở điểm cao vinh quang chói lọi của nó. Liên xô chiến thắng trong một cuộc chiến tranh đẫm máu chưa từng có trong lịch sử, đã cứu loài người khỏi hiểm họa phát xít. Cách Mạng Trung quốc thành công đã ném một quả tạ ngàn cân lên cán cân so sánh lực lượng giữa hai phe trên thế giới. Và với Cuba, chủ nghĩa xã hội đã đặt được đầu cầu sang tận châu Mỹ. Rồi tên lửa vượt đại châu, rồi đại nhảy vọt, vân vân và vân vân.

... Không còn như Mác nói nữa, không phải bóng ma cộng sản đang ám ảnh châu Âu, mà là ánh hào quang của chủ nghĩa cộng sản đang tỏa ra khắp thế giới. Nhân loại khao khát hòa bình và nhân ái, mệt mỏi vì những tai ương mà chủ nghĩa tư bản đem lại cho họ - thất nghiệp và khủng hoảng định kỳ, sự bóc lột thuộc địa, hai cuộc đại chiến thế giới trong vòng 30 năm, chủ nghĩa phát xít và lò thiêu người v.v... hướng con mắt hy vọng về phía những người cộng sản. Những nước đế quốc đầu sỏ cũng nhìn phe xã hội chủ nghĩa lớn mạnh lên bằng con mắt lo ngại và đã huy động toàn bộ lực lượng của họ để ngăn chặn làn sóng đỏ.

Lúc bấy giờ, là một người cộng sản quả thật là một niềm kiêu hãnh lớn lao.

Nếu là hoa tôi sẽ là hoa hướng dương.

Nếu là chim tôi sẽ là bồ câu trắng.

Nếu là người tôi sẽ người cộng sản.

Mà tôi thì không những là người cộng sản, lại còn kiêm thêm là lính Bác Hồ nữa.

Sau tiếp quản ít ngày tôi về thăm nhà. Gia đình tôi tản cư lên Việt Bắc vài năm, hết lương, đã hồi cư về Hà Nội. Hôm ấy về Hà Nội tôi đã đánh bộ quần áo cánh nâu, đội chiếc mũ lá, đi dép lốp, súng lục côn bát (Colt) đeo trễ hông, cứ thế nhâng nháo bước giữa đường phố Hà Thành hoa lệ. Tôi có ngờ đâu chính hình ảnh của tôi lúc ấy đã là hình ảnh chàng trai lý tưởng của nhiều cô gái Hà Nội.

Ông cụ tôi cứ nhất định đòi sắm cho tôi một chiếc xe đạp và một bộ complê mới. Tất nhiên tôi chẳng nhận làm gì. Tôi không muốn đổi cuộc sống khắc khổ của bộ đội chúng tôi lấy bất cứ cái gì khác. Và quân lệnh như sơn, kỷ luật tiếp quản nghiêm như kỷ luật chiến trường. ở đây không phải là những viên đạn đồng mà là những viên đạn bọc đường đang nhắm vào chúng tôi. Vả lại tôi chẳng thiếu gì: trong tay tôi là cả một giang sơn, trong tầm tay tôi là cả thế giới.

Ông cụ tôi thấy tôi từ chối thì không bằng lòng. Cuối cùng cụ thốt lên:

- Nghiêm như Nhật!

Đối với cụ đó là lời khen ngợi cao nhất.

Bây giờ người ta tốn nhiều công sức để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Thậm chí người ta còn phải ghi điều đó vào hiến pháp để không cho ai được phép nghi ngờ và phủ định. Nhưng đối với tôi hồi ấy, và chẳng phải riêng tôi, vấn đề thật rõ rành rành, không cần nhiều lời, không cần hiến pháp. Đành rằng có những chuyện chẳng hay (ai mà tránh được không bao giờ phạm sai lầm, kể cả Đảng?) nhưng chẳng rõ rành rành là Đảng đã dẫn dắt chúng tôi vượt qua muôn vàn thác ghềnh đi tới thắng lợi vĩ đại ngày nay hay sao? Chẳng phải là Đảng đã nêu cho tôi biết bao tấm gương hy sinh, tấm gương đồng cam cộng khổ với dân, hơn thế nữa, khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư đó sao? Đảng đã dạy cho tôi biết phải trái, biết yêu, biết ghét, biết quên, biết nhớ, nhớ nỗi nhục mất nước, quên bản thân mình. Trên ý nghĩa đó Đảng đã sinh ra tôi lần thứ hai.

Mon parti m a rendu les yeux et la mémoire.

Je ne savais plus rien de ce qu un enfant sait

Que mon sang fut si rouge et mon coeur francais

Je savais seulement que la nuit était noire

Mon parti m a rendu les yeux et la mémoire.

Cho nên đối với tôi thì không nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa Mác Lênin là chân lý phổ biến tung ra bốn biển đều đúng, rằng chủ nghĩa tư bản đang dẫy chết và chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản. Đối với tôi lúc ấy, tất cả những gì của Liên xô, Trung quốc đều là tốt, là đúng, và nếu có cái gì chưa tốt thì có thể giải thích được bằng những nguyên nhân khách quan, những điều kiện lịch sử cụ thể. Và tất cả những gì của tư bản, đế quốc đều là xấu, và nếu có cái gì xem ra là tốt thì chỉ là cái bề ngoài giả dối hoặc là cái phụ. Tôi đọc Thăm Liên xô Về của Ang-drê Gít (Andre Gide) nó không vào, cứ bật ra, rồi cuối cùng tôi bỏ dở, không đủ kiên nhẫn đọc hết. Những bài báo hồi bấy giờ tôi viết thì đầy dẫy những câu trích dẫn của Mác, Ang-ghen, Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh và đủ thứ nghị quyết của Đảng.

Không thể khác được. Không phải do tôi lựa chọn. Tôi chỉ thực sự lựa chọn có một điều: giành lại độc lập cho đất nước. Còn tất cả những cái khác là tự nó đến, dần dần, một cách tự nhiên. Và tôi cũng không phải người cuồng tín nhất.

Từ sau chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950, tư tưởng Mao Trạch Đông ùa vào Việt nam. Từ đó trở đi, càng ngày tôi càng cảm thấy mình bị coi là phần tử tiểu tư sản bấp bênh, hồi đó được gọi là dân tạch tạch sè. Chưa lấy gì làm nặng nề lắm nhưng đôi lúc cũng khó chịu, lâu dài thành mặc cảm. Mao Chủ Tịch nói: Tri thức sách vở không bằng cục cứt. Cứt còn bón được ruộng chứ tri thức sách vở thì không dùng được vào việc gì. Mà tôi thì hầu như chỉ có tri thức sách vở. Thế mới thật là mệt! Chính cái đó đã kích thích tôi cứ nằng nặc xin bằng được ra đơn vị chiến đấu. Để xem mèo nào cắn miêu nào!

Chương 5

Như tôi đã nói, ông cụ tôi là một ông giáo. Một ông giáo tiểu học trường tư, nhưng đã nghỉ dạy mấy năm trước cách mạng Tháng Tám, ở nhà giúp bà mẹ quanh năm đau ốm của tôi trông nom cửa hàng tạp hóa của bà. Kiểu buôn bán là như thế này: lấy lại hàng của các cửa hàng lớn chuyên doanh, đều là chủ hàng quen, đem về bán lại cho các bà hàng xén chợ nhà quê (Đình Bảng, chợ Dầu v.v...) cũng đều là khách hàng quen, cứ dăm bảy ngày lại gánh đôi bồ to tướng ra cất hàng: một súc vở học trò, vài tá bút chì, vài cân đường cát, một cân phèn chua, vài ba cân miến, chục bao nến, một tá khăn mặt v.v... tạp pí lù, khoảng vài chục món như thế chất đầy vào hai cái bồ. Câu linh tinh như cái bồ hàng xén xuất xứ là như thế. Bà khách hàng ngồi tựa gối trên phản vừa bỏm bẻm nhai trầu, vừa xướng lên những món hàng mình cần, xướng đến đâu thì bố tôi lại ghi thành cột vào quyển vở mua hàng lem nhem của bà, còn mẹ tôi thì gảy bàn tính lách cách tính tiền. Tôi còn làm cái nhiệm vụ đi lấy hàng, nghĩa là chỉ có việc đến nhà chủ hàng bảo họ mang đến cho một tải đường chẳng hạn. Tuổi nhỏ mải chơi, nhiều lúc đi được nửa đường thì quên, không nhớ ở nhà dặn đi lấy gì, phải quay về hỏi lại.

Tản cư theo kháng chiến cụ tưởng chỉ vài ba năm là cùng. Cụ gửi giấy tờ vào Hà Nội nhờ bán cái nhà lấy tiền theo đuổi kháng chiến đến thắng lợi. Bán tống bán tháo. Dân thành thị, chồng già, vợ ốm, con nhỏ, không nghề ngỗng gì, chỉ ngồi ăn thì núi cũng lở. Ăn đã mòn vẹt cả cái nhà mà xem ra kháng chiến vẫn chưa đâu vào đâu, nên đầu năm 1950 lại dắt díu khiêng cáng nhau hồi cư. Về Hà Nội không có nhà, lên ở nhờ nhà thờ tổ. Còn ít tiền, chung vốn với một người cháu mở hàng phở. Hàng phở ăn dần vào vốn. Lại quay trở về nghề hàng xén. Vốn ít, cửa hàng không có thì ngồi vỉa hè vậy. May mắn có ông anh vợ chỉ tản cư có mấy tháng, sớm hồi cư nên nhà cửa còn giữ được, và thời chiến tranh buôn bán phất lên như diều, nên khá giả. Tình anh em, ông giúp đỡ bố

Chương 6

Cuối năm 1963, Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 9, khóa Đại Hội III, ra nghị quyết Chống chủ nghĩa xét lại hiện đại. Trước đó ba năm. Đảng đã ký vào bản Tuyên Ngôn và Cương lĩnh chung của 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới, chấp nhận lập trường chung của 81 đảng. Nhưng sau đó thì từng bước ngả sang lập trường mao-ít của Đảng cộng sản Trung quốc, và đến nghị quyết 9 thì ngả hẳn, coi lập trường của 81 đảng do Liên xô đề xướng là chủ nghĩa xét lại hiện đại.

Anh Văn Doãn, tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, lúc ấy đang học ở trường Đảng cao cấp của Liên xô, được tin trên, đã xin ở lại cư trú chính trị ở Liên xô cùng các anh Lê Vinh Quốc, nguyên phó chính ủy Đại đoàn 308, chính ủy Quân Khu Tả Ngạn, và anh Nguyễn Minh Cần, thường vụ Thành ủy, phó chủ tịch Hà Nội. Việc Văn Doãn ở lại Liên xô đã đặt ban biên tập báo Quân Đội Nhân Dân chúng tôi, và cá nhân tôi vào một tình thế tế nhị.

Doãn đối với tôi là một người bạn khá gần gũi. Tôi nhớ, cách đó 20 năm, tức là năm 1944, khi tôi mới tham gia Việt Minh ít lâu, một hôm tôi được nhóm trưởng hẹn đến một địa điểm ở phố Hàng Bát Đàn, Hà Nội, để nghe một thượng cấp giảng chính trị. Tôi đến thì gặp một thanh niên thấp nhưng đậm người, củ mỉ củ mì và có đôi mắt to và sáng. Đó là Văn Doãn. Thượng cấp của tôi lúc ấy mới 17 tuổi (còn kém tôi một tuổi) là người Duyên Hà, Thái Bình, lên Hà Nội làm gia sư để kiếm tiền trọ học.

Lớp học chính trị ấy đối với tôi là một sự khám phá. Cho tới lúc ấy, toàn bộ vốn liếng chính trị của tôi được gói gọn trong hai cuốn Đông Dương SOS của Viôlis (Violiste?) và Việt nam của Manrô (André Malraux), tôi đã mượn đọc ở thư viện trung ương, và trong nội dung những tờ truyền đơn bươm bướm mà tôi đã dán đại ở các góc phố hoặc đút bừa vào khe cửa các nhà: ủng Hộ Việt Minh, Đánh Đuổi Nhật Pháp, Việt nam Độc Lập. Và đây là lần đầu tiên tôi được biết thế giới chia làm hai phe, có bốn mâu thuẫn, được biết thế nào là tuyên truyền, tổ chức quần chúng v.v... tóm lại là nội dung của cái được gọi là bốn bài Việt Minh. Văn Doãn không quên đem câu chuyện quả trứng và con gà để giải thích cho chúng tôi rõ cách mạng sẽ nổ ra như thế nào.

Sau đó ít lâu, Doãn về quê tham gia phong trào địa phương, và cướp chính quyền xong, làm chủ tịch huyện Duyên Hà, rồi trưởng ty công an tỉnh. Lần cụ Hồ về thăm Thái Bình, Doãn lên bộ complê, cravát ra đón. Chắc hẳn thấy anh chàng non choẹt đóng bộ complê nom buồn cười, cụ đã túm lấy cravát của Doãn kéo thít vào cổ, nói đùa:

- Cái chú này, đeo cái dây thắt cổ này vào làm gì!

Tháng 11-1946, súng nổ ở Hải Phòng, cuộc kháng chiến ở Hải Phòng đã nổ ra sớm hơn kháng chiến toàn quốc một tháng. Lúc ấy tôi đang ở Hà Nội tham gia việc xây dựng chiến lũy đường phố, bỗng một hôm nhận được thư của Doãn. Thư viết ngắn gọn, bằng một giọng Gia-cô-banh đối với tôi lúc ấy không phải không có sức thuyết phục. Đại thể là: quân thù đã nổ súng, tổ quốc lâm nguy, hãy xốc tới mặt trận v.v... Và cuối cùng rủ tôi và Mai Luân về làm báo Quân Bạch Đằng của chiến khu ba với anh. Hai chúng tôi đã khăn gói ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc lâm nguy, về Thái Bình làm báo với anh mấy năm. Sau đó mỗi người đi một ngả, ra đơn vị chiến đấu, Doãn về làm chính ủy Trung Đoàn 52, Đại Đoàn 320, tôi về Tả Ngạn.

Hai năm sau khi hòa bình lập lại, tôi về báo Quân Đội Nhân Dân, gặp lại Văn Doãn thì Doãn nghiễm nhiên đã trở thành cây lý luận. Lên lớp chính trị không cầm giấy bao giờ, cứ hai tay đút túi quần rủ rỉ nói cả ngày, trích dẫn từng đoạn dài của Mác, Lênin v.v... cấm sai chữ nào nghe rất sướng tai. Những dịp có bài có tính chất lý luận cần viết cho báo chí trong hoặc ngoài nước, ông đại tướng Võ Nguyên Giáp thường giao cho Doãn chấp bút. Cả ông đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng vậy. Một lần ông Thanh giao cho Doãn viết một bài quan trọng, tôi nhớ là bài Chiến Tranh Nhân Dân thì phải. Doãn đã viết một bài dài đăng kín hai trang báo, sau đó nhà xuất bản Sự thật in thành sách. Ông Thanh không biết đã nghĩ như thế nào, không nỡ ký tên một mình, đã bảo ký tên hai đồng tác giả: Nguyễn Chí Thanh - Văn Doãn.

Báo Quân Đội Nhân Dân nổi đình đám một thời thì một phần quan trọng cũng là nhờ lòng nhiệt tình, tài năng sắc sảo và đầu óc nhạy bén của Doãn. Và về sau báo Quân Đội Nhân Dân có trở thành cái lô cốt của chủ nghĩa xét lại hiện đại (theo như nhận định của Tổng Cục Chính Trị) cần phải đập tan và người ta đã đập tan thì một phần quan trọng cũng là tội của Doãn.

Nhà ở của Doãn, cách tòa soạn vài bước, trước đây tấp nập, từ ngày Doãn đi không ai dám lai vãng. Chị Huyền, vợ của Doãn hồi bí mật làm giao liên cho nhiều đồng chí lãnh đạo, trong số đó có ông Văn Tiến Dũng, lâu nay về làm hành chính cho báo Quân Đội Nhân Dân, ngày ngày đến cơ quan, âm thầm như một cái bóng, không dám trò chuyện riêng với ai. Và ngày ngày bà mẹ già của Doãn, còng lưng quét lá rụng trên đường Lý Nam Đế về đun, vì lương của một mình chị Huyền bây giờ phải nuôi sáu bà cháu.

Năm ấy đứa con trai lớn của tôi chuẩn bị thi hết cấp hai. Tôi tổ chức một nhóm bạn bè của nó đến nhà tôi nhờ một thầy phụ đạo vào các ngày chủ nhật. Chị Huyền ngỏ ý với tôi muốn cho thằng bé đầu lòng của chị đến cùng học. Hai thằng bé cùng tuổi, hai bà mẹ cùng sinh ra hai cháu và cùng nuôi con ở vùng Đầm Đa, Chi Nê. Và bây giờ bố nó đi, thằng bé nhà Doãn không có người kèm cặp. Nhưng nó chỉ đến học được vài buổi thì phải thôi vì ông Phạm Ngọc Mậu phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị đã chỉ thị cho báo Quân Đội Nhân Dân kiểm điểm tôi vì đã thương xót con cái phản động.

Rồi một buổi sáng, không báo trước, Tổng Cục Chính Trị cho xe đến bốc cả nhà Doãn, già trẻ lớn bé lít nhít, đưa thốc lên Vĩnh Yên, giao cho một đơn vị quân y quản lý.

Chừng vài năm sau, tôi nghe tin đồn Doãn đã chết ở Liên xô. Người ta bảo Doãn đã nhảy từ một tầng nhà cao xuống tự tử. Tôi không tin. Vì trong bao nhiêu năm tôi cứ đinh ninh là Doãn, Quốc và Cần ở lại Liên xô đã tìm thấy môi trường chính trị thích hợp và chắc là anh sẽ làm được nhiều việc, chí ít thì cũng học tập được thành tài. Thiếu những thông tin xác thực, tôi cứ nghĩ rằng sau khi thay Khơrutsốp (Krutchev), Brêgiơnép (Brezniev) vẫn tiếp tục thực hiện đường lối của Đại Hội 20, chỉ có khác là mềm mỏng và thận trọng hơn mà thôi. Đài phát thanh Bắc Kinh đã chẳng nói ra rả rằng Brêgiơnép là chủ nghĩa Khơrutsốp không có Khơrutsốp đó sao? Còn các nhà lãnh đạo của ta thì vẫn thi hành chính sách hai mặt, vừa tranh thủ sự giúp đỡ của Liên xô vừa chống chủ nghĩa xét lại Liên xô. Hàng chục năm về sau, dưới ánh sáng cải tổ của Liên xô tôi mới vỡ nhẽ chế độ Brêgiơnép là như thế nào. Và đến lúc ấy tôi mới hiểu cái bi kịch của Doãn, Quốc và Cần. Vậy hãy còn may mắn là các anh không bị trục xuất trả về nước. Nghe nói anh Minh Cần cũng bị ý nghĩ quyên sinh ám ảnh một thời gian dài.

Những nẻo đường nào đã đưa Văn Doãn, một thanh niên yêu nước và đảng viên cộng sản nhiệt thành; một con người hiền lành nhất mực không hề đấu đá ai bao giờ, đã được mệnh danh là Doãn bụt và được chị em phụ nữ, kể cả các cô văn công xinh đẹp quý mến và tin cậy gửi gắm tâm sự riêng (chắc vì tin rằng quan hệ với anh thì rất an toàn không sợ xảy ra sự cố); một con người khiêm tốn ưa sống nội tâm, không thích xuất đầu lộ diện, ít nói, ngồi trò chuyện đông thường chỉ nghe và mỉm cười một cán bộ đã chiếm được lòng tin vững chắc của nhiều nhà lãnh đạo đảng và quân đội, những nẻo đường nào đã đưa một con người như thế đến chỗ trở thành một tên phản quốc lưu vong? Đó cũng là những nẻo đường đã dẫn tôi và nhiều anh em khác vào nhà tù Hỏa Lò.

Vậy là bước đường đoạn trường của chúng tôi bắt đầu từ Nghị Quyết 9, năm 1963. Trong học tập nghị quyết, tuyệt đại đa số anh em chúng tôi ở báo Quân Đội Nhân Dân đã tỏ ra không thông. Phần lớn phát biểu vòng vo, có che chắn, dưới dạng thắc mắc, còn thẳng thắn cũng chỉ vài ba người. Và cũng chỉ tương đối thẳng thắn thôi, vì cũng sợ. Người phát biểu thẳng thắn hơn cả là anh Đào Phan, tức Đào Duy Dếnh. Ngồi họp, anh đặt trước mặt mình cả một chồng sách báo, các loại nghị quyết để trích dẫn làm bằng chứng, chứng minh rằng Nghị Quyết 9 là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin, trái với Nghị Quyết Đại Hội 3 và các nghị quyết trước đây của bản thân Trung ương. Anh em nhà họ Đào (Đào Duy Anh, Đào Duy Kỳ, Đào Duy Dếnh) quả thực là có gien bướng bỉnh. Chẳng thế mà ông Lê Quang Đạo, lúc ấy là phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị đã nói: Cứ mỗi lần Đảng gặp khó khăn là y như rằng thấy Đào Phan xuất hiện. Lần trước mà đảng gặp khó khăn và Đào Phan đã xuất hiện là lần sai lầm cải cách ruộng đất tiếp theo là vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

Về cuối đợt học tập, một số anh em chúng tôi tin vào lời đả thông là ai chưa thông thì có quyền bảo lưu ý kiến, đã xin bảo lưu. Sau chuyện tổng biên tập Văn Doãn ở lại Liên xô xin cư trú chính trị, việc làm trên của chúng tôi quả thật là một hành động khinh xuất.

Cho nên chỉ sau đó ít lâu, báo Quân Đội Nhân Dân bị tính sổ. Tổng Cục Chính Trị cho rà soát lại nội dung các báo Quân Đội Nhân Dân đã phát hành mấy năm qua để tìm những chỗ viết sai đường lối của Đảng. Và người được giao cái công việc bới lông tìm vết ấy không phải ai khác mà chính là ông Bùi Tín lúc ấy là một cán bộ Cục Tuyên Huấn, Tổng Cục Chính Trị. Tôi kể chuyện này không hề với ý định bới móc ông Bùi Tín. Trái lại, tôi cũng muốn tỏ lời hoan nghênh ông trong hai quyển sách của mình đã kéo cái vụ đàn áp được người ta bưng bít rất kỹ lưỡng này ra trước ánh sáng dư luận. Nhắc lại chuyện này tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta đều từ một lò mà ra cả, chẳng qua là kẻ ra trước người ra sau, mỗi người ra một kiểu mà thôi. Và trước sau rồi sẽ ra hết.

Đó là sự lột xác của cả một thế hệ đã có một thời ngộ nhận chân lý, một sự tự phủ định day dứt kéo dài. Đối với tôi quá trình ấy kéo dài hơn 30 năm từ năm 1960, khi những tư tưởng của Đại Hội 20, Đảng cộng sản Liên xô và Hội Nghị 81 Đảng bắt đầu thấm vào tôi.

Đối với các bạn trẻ bây giờ thì câu Đại Hội 20 không gây một ấn tượng nào cả, thậm chí các bạn cũng chẳng biết nó là cái gì. Nhưng đối với thế hệ chúng tôi hồi ấy thì nó là một cú sốc dữ dội. Nó là quả bom tấn nổ bất thần trên bầu trời tưởng như quang đãng của thế giới cộng sản.

Thế là sau mấy chục năm trời dối trá, một sự dối trá đã tung được hỏa mù vào cả những bộ óc vĩ đại nhất, những nhà bác học, nhà văn, nhà thơ tầm nhân loại, những Giải Thưởng Nôben (Nobel), từ Lăng-giơ-vanh (Langevin), Quy-ri (Curie) đến Xác-tơ-rơ (Sartre) và A-ra-gông, bức màn bí mật bao phủ chế độ Xô Viết đã bị xé toang, phơi bày ra ánh sáng những tội ác ghê tởm và chế độ độc tài của Stalin. Và xé toang bởi một người mà không ai có thể nghi ngờ được độ đáng tin cậy của lời nói:

Tổng Bí Thư Đảng cộng sản Liên xô, Nikita Khơrútsốp. Bản báo cáo của Khơrútsốp đã làm chấn động thế giới và nổi tiếng đến mức người ta không gọi bằng cái tên gọi nào khác là cái tên tắt Bản Báo Cáo K.

Lúc ấy Stalin đang là một huyền thoại. Ta nhớ rằng khi Stalin chết, hàng ngày có hàng ngàn người dân Matxcơva đến tụ tập ở Quảng Trường Đỏ khóc lóc:

- Stalin chết rồi, ta biết sống với ai?

Cứ như Stalin chết thì trời sập vậy.

ở Việt nam ông được coi là ông thánh không bao giờ phạm sai lầm. Năm 1949, ở Việt bắc, ông Nguyễn Sơn và ông Bùi Công Trừng đến giảng ở trường Nguyễn ái Quốc đã phê phán kịch liệt chính sách ruộng đất của Đảng và khẩu hiệu tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công. Hai ông được nhiều người đồng tình. Ông Trường Chinh giải đáp không xong. Cuối cùng ông Hồ đến chỉ cần nói một câu:

- Bác đã sang Liên xô báo cáo với đồng chí Stalin (Stalin). Đồng chí Stalin hoàn toàn tán thành đường lối của Đảng ta. Stalin đã nói đúng là đúng.

Thế là xong! Nhẹ nhàng.

Cho nên vạch trần tội ác của Stalin đòi hỏi phải có một tinh thần dũng cảm lớn lao. Lòng dũng cảm ấy đã phải trả giá đắt. Về sau này là cái giá của sự phân liệt phong trào cộng sản quốc tế. Phe xã hội chủ nghĩa tưởng vững như núi Thái Sơn đã tách làm đôi. Tất cả các đảng cộng sản trên thế giới đều tách làm đôi (ở những đảng cầm quyền thì tách thành hai khuynh hướng tồn tại trong cùng một tổ chức, ở nhiều đảng không cầm quyền thì đã tách ra cả về mặt tổ chức, mỗi đảng thành hai đảng đều tự coi mình là mácxít lêninnit).

Còn ngay lúc ấy trên thế giới diễn ra cả một trào lưu rời bỏ hàng ngũ đảng cộng sản (ở các nước đảng chưa nắm được chính quyền) của những người, chủ yếu là trong giới trí thức và đại trí thức, vốn vẫn hoài bão lý tưởng giải phóng con người của chủ nghĩa xã hội, lâu nay bán tín bán nghi trước những lời tố cáo chế độ Xô Viết nhưng vẫn cố giữ lòng tin, thì nay, trước sự thật phũ phàng, đã buộc phải đi đến kết luận: cái mà người ta gọi là chủ nghĩa xã hội chỉ là chế độ toàn trị (totalitarisme) của một đảng quyền lực độc tôn thống trị không có kiểm soát, chế độ ấy không giải phóng con người mà chỉ nhân danh sự giải phóng con người để thay sự áp bức này bằng sự áp bức khác mà thôi. Một niềm hy vọng bị lừa dối.

Cái cơn lốc ấy cũng dẫn đến những thảm kịch cá nhân: nhà văn lớn Phađêep (Fadeev), chủ tịch Hội Nhà Văn Liên xô, đã tự sát. Người ta bảo là ông hối hận, vì đã dính vào việc đàn áp các nhà văn xô viết. Tôi không rõ tội của ông là thế nào, nhưng trước hành động tự sát ấy, tôi kính trọng ông. Cũng như tôi đã kính trọng ông Pirốt, trung tá pháo binh Pháp, phó tư lệnh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đã rút lựu đạn tự tử vì pháo của ông ta đã không làm tròn nhiệm vụ. Tôi không hiểu tại sao báo chí của ta nhắc tới chuyện tự sát này của Pirốt bao giờ cũng bằng một giọng dè bỉu và đắc chí, trong khi chúng ta rất tự hào về hành động tuẫn tiết của Hoàng Diệu khi thành Hà Nội thất thủ. Còn tôi thì đôi lúc cứ nghĩ: sao ở ta không có một Phađêép hay Pirốt nào nhỉ? Mặc dù có khối vị có đủ lý do để hành động như hai ông.

Đối với tôi, và có lẽ cũng là đối với tuyệt đại đa số những người cộng sản Việt nam thì bản báo cáo của Khơrútsôp chỉ là nói lên những lỗi lầm của cá nhân Stalin mà thôi, và khắc phục được những sai lầm đó, chủ nghĩa xã hội sẽ trở lại trong sáng hơn xưa. Niềm tin của tôi vào chủ nghĩa xã hội không những không bị lung lay mà còn vững chắc hơn. Và quả thật Đại Hội 20 không chỉ phê phán tệ sùng bái cá nhân Stalin, mà còn đưa ra một loạt luận điểm nó đem lại một bộ mặt mới cho chủ nghĩa xã hội.

Hòn đá tảng của Đại Hội 20 là tinh thần hòa bình. Hòa hoãn, hòa dịu, chung sống hòa bình, thi đua hòa bình, hợp tác và học tập lẫn nhau giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, giải quyết các cuộc tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, chấm dứt chạy đua vũ trang, giải trừ quân bị... Rồi bản thân cách mạng vô sản cũng được dự kiến một con đường mới, con đường quá độ hòa bình. Về chính sách đối nội là tinh thần dân chủ hóa. Dân chủ hóa sinh hoạt xã hội, sinh hoạt Đảng, nhấn mạnh pháp chế xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa quản lý kinh tế...

Bây giờ đây ta thấy những điều đó là chuyện đương nhiên, được thực hiện khắp nơi, và còn làm quá thế nhiều. Nhưng chính những điều đó hồi ấy đã bị coi là chủ nghĩa xét lại hiện đại. Một thí dụ: bây giờ các vị lãnh tụ của ta đi thăm các nước tư bản tấp nập để tìm kiếm sự hợp tác giúp đỡ. Người đầu tiên thực hiện cái chính sách ngoại giao cởi mở ấy chính là Khơrútsốp (và đi đến đâu, kể cả đến Mỹ, tư thế còn hách hơn các vị lãnh tụ của ta nhiều) nhưng lại không được các nhà macxit lêninnit hồi ấy hoan nghênh. ở một buổi họp trong quân đội tôi được nghe ông Nguyễn Chí Thanh phê phán Khơrútsốp như sau: Việc gì phải cắp cặp chạy long tóc gáy như thế? Trông cụ đây này (cụ tức là Mao Trạch Đông), cụ không đi đâu cả, cứ ngồi nhà, anh nào muốn yết kiến thì đến mà gõ cửa xin gặp, cụ sẽ cho gặp. Nếu ông Thanh còn sống đến bây giờ thì chắc phải là tổng bí thư... Và nếu như vậy, không rõ ông sẽ chọn phương án nào: chạy long tóc gáy hay là cứ ngồi nhà?

Hồi ấy có một chuyện nhỏ nhưng đã làm tôi nhớ lâu: ngôi sao balê của Liên xô, Plisetxcaia, được mời đi Luân Đôn biểu diễn, nhưng không được các nhà lãnh đạo cho đi, vì sợ cô bùng. Plisetxcaia đã viết thư khiếu nại lên Khơrútsốp. Ông đã chấp nhận đề nghị của cô, và giải thích chủ trương ấy của mình như sau: Ta không thể xây dựng một thiên đường, lùa người ta vào đó như một đàn cừu, rồi khóa trái cửa nhốt tịt họ lại được. Plisetxcaia đã ra đi, và biểu diễn xong đã trở về.

Câu chuyện đó tôi nhớ lâu là vì, đối với tôi lúc bấy giờ, Đại Hội 20 trước nhất không phải những vấn đề chính trị toàn cầu, mà là niềm hy vọng vào một cuộc sống trong đó không còn lo tái diễn những cuộc bắt bớ oan uổng, những cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, một cuộc sống trong đó không còn đủ mọi sự cấm đoán mà trước kia tôi thấy là tự nhiên và bây giờ mới thấy là vô lý; một cuộc sống trong đó phẩm giá con người được tôn trọng, trong đó không còn những câu lẩy Kiều như:

Bắt phanh trần phải phanh trần

Cho may ô mới được phần may ô.

Bây giờ tư duy và thực tiễn đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa đã tiến những bước bỏ xa những phát kiến của Đại Hội 20. Nhưng cái gì cũng phải có bước mở đầu. Đại Hội 20 chính là cuộc thử nghiệm đổi mới đầu tiên của chủ nghĩa xã hội trên bình diện thế giới. Bước mở đầu ấy so với bây giờ là bảo thủ lắm, và không nhất quán. Nhưng thế mới gọi là bước mở đầu.

Nếu sau Đại Hội 20 tình hình thông đồng bén giọt, tư tưởng đổi mới không bị đánh bại, thì có thể tin chắc rằng bộ mặt thế giới ngày nay sẽ khác.

Chương 7

Vài câu chuyện về sự tồn tại trước Nghị Quyết 9 của hai khuynh hướng ở trong Đảng cộng sản Việt nam.

Năm 1963, Chủ Tịch Đảng cộng sản kiêm Chủ Tịch nước Tiệp Khắc sang thăm Việt nam, và đã ký với Chủ Tịch Hồ Chí Minh một bản tuyên bố chung. Bản tuyên bố chung Hồ Chí Minh Nôvôtny (Novotny) ấy hoàn toàn đứng trên lập trường của 81 đảng. Điều đó làm ông Lê Duẩn rất tức giận. Ông Ung Văn Khiêm bị cách chức bộ trưởng Bộ Ngoại Giao. Đó là trước mắt, còn sau này thì một số phận tồi tệ hơn sẽ được dành cho ông. Ông Lê Quang Đạo giải thích cho chúng tôi:

- Bác tin đồng chí Ung Văn Khiêm nên Bác cứ ký, không xem lại. Thật kỳ lạ Hồ Chí Minh mà lại nhắm mắt ký bừa vào một văn kiện quan trọng như vậy, nhất là trong tình thế rất phức tạp của phe xã hội chủ nghĩa nói chung và của Việt nam nói riêng. Đó không có tí gì là cái tác phong Hồ Chí Minh vẫn được nêu lên cho toàn Đảng học tập. Ai cũng biết câu châm ngôn phân cấp: chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh.

Vụ Caribê (Caribe) còn rắc rối hơn. Cả thế giới nín thở theo dõi sự diễn biến tình hình thay đổi từng giờ từng phút. Không khí một cuộc chiến tranh thế giới đã lơ lửng trên đầu nhân loại . ở Mỹ người ta đã đổ xô đi mua hầm tránh bom nguyên tử. Tình hình ở Mátxcơva cũng căng thẳng không kém. Chắc chắn là hàng nghìn đầu đạn hạt nhân của cả hai phía đã chĩa sang nhau, sẵn sàng chờ một hiệu lệnh. Trong khi đó thì những người đứng đầu hai nước Mỹ và Liên xô liên tục trao đổi với nhau trực tiếp qua điện thoại, tìm kiếm một cách khó khăn một phương án thỏa hiệp mà hai bên đều có thể chấp nhận.

Nhưng Trung quốc thì lại muốn đẩy Liên xô vào cuộc đối đầu quyết liệt với Mỹ. Có thể là họ nghĩ:

Mỹ là con hổ giấy, chỉ già dái non hột, ta cứ làm tới thì nó phải nhượng bộ? Hoặc họ muốn thế giới đại loạn, vì theo quan niệm của họ thì thế giới đại loạn là môi trường thuận lợi cho cách mạng thế giới nổ ra? Hoặc họ muốn tọa sơn quan hổ đấu, ngồi trên núi mà xem hai con hổ đánh nhau? Không rõ.

Đứng trước hai lập trường đối lập nhau như vậy, các nhà lãnh đạo Việt nam khá bối rối, mỗi người nói một phách, mỗi ngày nói một phách. Có một vị đã nói, tôi không nhớ là ai: Liên xô đưa tên lửa vào Cuba là phiêu lưu, rút tên lửa ra là đầu hàng. Tôi không hiểu nổi cái lôgích ấy. Vậy, nếu trót phiêu lưu rồi thì phải phiêu lưu đến cùng chăng? Còn chúng tôi thì muốn viết theo cách hiểu của mình. Nhưng phải có cái gì bảo đảm an toàn cho mình về sau, vì chúng tôi biết rằng cuối cùng lập trường chống Liên xô sẽ thắng. May mắn sao có hai bài báo nhận định hòa bình thế giới đang treo trên sợi tóc và tán thành chủ trương của Liên xô hòa giải với Mỹ.

Bài thứ nhất đăng trên báo Nhân Dân, ký tên T. L. Ai cũng biết T. L là chữ viết tắt của Trần Lực, và Trần Lực không phải ai khác mà chính là Hồ Chí Minh. Sau này tôi lại được nghe anh Lê Liêm lúc bấy giờ là ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, kể lại rằng cuộc tranh luận trong cơ quan lãnh đạo Đảng rất găng và ông Hồ có phát biểu: cần thì đưa tên lửa vào, cần thì lại rút ra, có gì là lạ?

Bài thứ hai là bài xã luận của báo Học Tập, tạp chí lý luận của Ban Chấp Hành Trung ương. Về sau này tôi mới biết bài ấy là do anh Kỳ Vân, phó tổng biên tập báo Học Tập viết. Anh Kỳ Vân về sau cũng bị bắt trong cùng vụ chúng tôi. Vào tù mấy năm thì anh bị ốm nặng, đến lúc nguy kịch thì được thả ra cho về chết ở gia đình, đỡ tai tiếng. Gọi là chết ở gia đình, nhưng gia đình anh đã tan đàn xẻ nghé. Vợ anh, một cô giáo đi sơ tán cùng học trò, đã chết đuối trong một lần đi tắm sông, ngay trước mắt anh, trông thấy mà chịu. Một đứa con gái của anh đã hy sinh trên Trường Sơn, trong đội ngũ những người thanh niên xung phong chống Mỹ đầu tiên. Nay anh chết nốt để lại thằng con nhỏ cho chị nó nuôi. Rồi ít lâu sau cô chị cũng lâm bệnh chết, và thằng bé được họ hàng cưu mang. Cháu bé ấy tên là Phạm Kỳ Tân. Năm 1981, tôi được đọc một lá thư của cháu Tân lúc này đã 19 tuổi, gửi lên các bác lãnh đạo Đảng và Nhà Nước, thống thiết xin các bác trả lời cho cháu biết bố cháu có tội tình gì? Các bác đã không trả lời.

Anh Kỳ Vân là một đảng viên kỳ cựu từ thời Mặt Trận Bình Dân năm 1936, xứ ủy viên xứ ủy Bắc Kỳ, và đã được thực dân Pháp tặng cho hai án tù, vào tù, vượt ngục, rồi lại vào tù.

Chương 8

Vấn đề mấu chốt chia rẽ Việt nam với Liên xô là vấn đề chiến tranh và hòa bình. Các nhà lãnh đạo Việt nam không quan tâm lắm đến lý luận, cái mà họ quan tâm là một vấn đề thực tiễn: Việt nam muốn đánh giải phóng miền Nam, còn Liên xô thì không muốn bị lôi kéo vào một cuộc đối đầu nguyên tử với Mỹ. Vụ Caribê đã để lại cho họ một bài học.

Thực ra khi đặt bút ký Hiệp Định Giơnevơ 1954 (Genève) lập lại hòa bình ở Việt nam, các nhà lãnh đạo Việt nam thực lòng mong muốn việc thống nhất đất nước sẽ được thực hiện một cách hòa bình thông qua tổng tuyển cử trên cả hai miền. Nhưng Pháp đã rút chân khỏi miền Nam, trốn tránh trách nhiệm thi hành hiệp nghị. Còn Diệm thì kiên quyết cự tuyệt hiệp thương, một mực hô vượt sông Bến Hải và kéo lê máy chém khắp miền Nam.

Mỹ nhảy vào đã tiếp quản luôn cái vai trò thực dân không lấy gì làm vẻ vang của Pháp, cho nên cuộc chiến tranh ở miền Nam được coi là tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc. Nhưng ngay từ hồi ấy, trong giới nghiên cứu đã có ý kiến cho rằng sự đối đầu giữa hai miền đã dần dần trở thành một thứ nội chiến Quốc-Cộng có sự can thiệp của bên ngoài, một cuộc chiến tranh ý thức hệ không khoan nhượng nằm trong sự đối đầu ý thức hệ đang phân chia thế giới. Diệm thì quyết chống cộng đến cùng, còn cộng thì quyết làm chủ cả nước để đưa cả nước đi lên chủ nghĩa cộng sản. Các nhà lãnh đạo miền Bắc có tán thành tổng tuyển cử hòa bình thì chẳng qua cũng chỉ là vì họ chắc chắn tổng tuyển cử thì họ sẽ thắng. Niềm tin ấy hoàn toàn có cơ sở. Thanh thế của lực lượng kháng chiến đang lừng lẫy năm châu. Diệm cũng biết thế và chính vì thế mà Diệm kiên quyết cự tuyệt tổng tuyển cử.

Xét theo mục tiêu và sự không khoan nhượng của cả hai bên thì cuộc chiến tranh giữa hai miền là không tránh khỏi.

Lúc ấy tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc. Tôi đã nghe ông Nguyễn Chí Thanh phát biểu trong một buổi nói chuyện:

Có đồng chí thắc mắc mới được hưởng hòa bình có mười năm. Đáng ra là phải nói: thế ra là ta đã được hưởng hòa bình những mười năm rồi cơ à! Vì đối với người cộng sản thì mười năm hòa bình là quá nhiều. Cho nên phải xốc balô lên vai, nắm chắc tay súng. Đánh đời ta không xong thì đánh đến đời con, đời con không xong thì đánh đến đời cháu.

Cũng vào hồi ấy, ở Việt nam có cuộc thi đấu hữu nghị giữa các đội bóng quân đội các nước xã hội chủ nghĩa. Trận chung kết là trận giữa hai đội Anbani và Liên xô. Khán giả sân Hàng Đẫy xưa nay vẫn được tiếng là vô tư và hiếu khách, hôm ấy đã hò reo ủng hộ đội Anbani và la ó đội Liên xô. Gần chỗ tôi ngồi, có một vị sĩ quan quân đội hăng máu nhảy chồm lên giơ nắm đấm:

- Oánh bỏ mẹ bọn xét lại đi!

Oánh bỏ mẹ bọn xét lại, vì bọn xét lại đầu hàng sợ Mỹ, còn ủng hộ Anbani vì Anbani kiên cường chống xét lại. Tất nhiên không phải ai cũng nghĩ thế. Nhiều người nghĩ khác, nhưng họ là cái thiểu số im lặng.

Trước cái tâm lý xã hội như thế, nếu có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói ra. Bây giờ nhìn ngược trở lại ta có thể nói nếu thi đua hòa bình thì cầm chắc miền Bắc sẽ thua. Hồi ấy bản tin tham khảo đặc biệt của Việt nam Thông Tấn Xã có trích đăng một lời phát biểu của ông Xihanuc (Shihanouk) mà đến bây giờ tôi mới thấy là có lý: Việt Cộng sống trong hòa bình như con voi sống trong một cửa hiệu bán đồ thủy tinh. Con voi là chúa tể rừng xanh, nhưng trong một cửa hàng thủy tinh thì nó không biết làm thế nào cho khỏi đổ vỡ. Suy rộng ra thì là: để làm chiến tranh cách mạng thì chủ nghĩa Mác Lênin là một vũ khí tuyệt diệu, nhưng để xây dựng trong hòa bình thì đó là một cái không dùng được.

Lúc ấy, trung thành với lý tưởng giải phóng dân tộc và xã hội chủ nghĩa, tôi cũng nghĩ là phải đánh, chẳng có con đường nào khác. Vấn đề còn lại là đánh như thế nào?

Trung quốc bảo ta là muốn chống chủ nghĩa đế quốc thì phải chống chủ nghĩa xét lại, tức là chống Liên xô và những người đồng tình với Liên xô. Anh em chúng tôi thì lại nghĩ rằng nếu trong xây dựng xã hội chủ nghĩa ta không thể thiếu được sự giúp đỡ của Liên xô thì trong cuộc chiến tranh chống Mỹ lại càng như thế. Muốn Liên xô giúp đỡ mà lại chống Liên xô là một điều vô nghĩa. Chính vì thế mà chúng tôi đã không thông với Nghị Quyết 9.

Mặt khác, khi còn là chiến tranh đặc biệt tức là giữa một bên là chính quyền miền Nam được sự hỗ trợ của Mỹ và một bên là nhân dân miền Nam được sự giúp đỡ của miền Bắc thì không có chuyện gì. Vấn đề nảy sinh khi trước những thất bại của chính quyền miền Nam, Mỹ đe dọa đổ quân vào miền Nam mở rộng cuộc chiến thành chiến tranh cục bộ. Vậy Việt nam lựa chọn như thế nào?

Trong khi làm việc với anh Đinh Chân, cán bộ báo Quân Đội Nhân Dân, được ban biên tập cử vào giúp ông biên tập một số văn kiện, ông Giáp có giải thích cho Đinh Chân:

- Nếu Mỹ đưa vào miền Nam năm vạn quân thì đã khó (cho ta), nếu họ đưa vào 10 vạn thì rất khó, và nếu họ đưa vào 15 vạn trở lên thì cực khó.

Tôi được đọc như thế trong cuốn sổ ghi chép của Đinh Chân. Như vậy rõ ràng là ông Giáp cân nhắc rất thận trọng. Và vấn đề quả là rất đáng phải thận trọng. Tiện đây tôi cũng xin kể là về sau Đinh Chân cũng bị bắt sau tôi ít tháng.

Trên đây là một nhận định của ông Giáp. Còn ông Duẩn thì phát biểu trong một buổi nói chuyện với cán bộ:

- Nếu Mỹ đánh ta bằng chiến tranh đặc biệt thì ta sẽ thắng nó trong chiến tranh đặc biệt, còn nếu nó đánh ta bằng chiến tranh cục bộ ta sẽ thắng nó trong chiến tranh cục bộ.

Đại để có thể hiểu là: Việt nam để cho Mỹ chọn, tùy, kiểu nào cũng ô-kê. Trong khi nghị quyết của Trung ương thì nói là phải kìm Mỹ trong chiến tranh đặc biệt mà đánh.

Còn ông Kôxưghin (Kossigyn), chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Liên xô sang thăm Việt nam đầu năm 1965 thì phát biểu: Nếu Việt nam chủ trương đánh thì Liên xô ủng hộ Việt nam đánh, nếu Việt nam chủ trương đàm thì Liên xô ủng hộ Việt nam đàm. Chuyện này do chính ông Duẩn kể lại trong một cuộc nói chuyện với cán bộ. Như vậy là ngay từ 1965, Liên xô đã trông thấy có hai khả năng giải quyết vấn đề, đàm và đánh, chọn cách nào là chủ quyền của Việt nam.

Hòa hay chiến? Đó là một câu hỏi mà tìm được lời giải không phải dễ. Tôi tự đánh giá mình hiểu biết còn quá ít cho nên không dám phê phán điều gì. Tôi chỉ căn cứ vào chút ít hiểu biết của mình để có một ý nghĩ cho riêng mình mà thôi.

Trong lịch sử chiến tranh của ta, đã có một lần Mỹ định nhảy vào Việt nam. Đó là sau khi ta thắng trận Điện Biên Phủ. Trước nguy cơ mở rộng chiến tranh, ta đã không thừa thắng xông lên, mà đã dừng lại, ký kết hiệp định Giơ ne vơ, chặn đứng Mỹ lại đã, rồi sẽ tính sau. Cho tới nay chưa ai bảo việc làm đó là sai lầm. Trong cuộc chiến tranh ở Miền Nam, rốt cuộc ta cũng phải ngồi vào đàm phán với Mỹ, ký hiệp định Pari (Paris), gạt Mỹ ra, để người Việt nam xử sự riêng với nhau. Tôi nghĩ rằng chặn Mỹ lại khi họ chưa nhảy vào có lẽ dễ hơn là để họ đưa mấy chục vạn quân vào rồi mới tìm cách đẩy họ ra. Để làm được việc đó, ta đã phải mất tám năm, với bao nhiêu triệu sinh mạng con người và bao nhiêu tổn thất khác đến tận bây giờ vẫn chưa khắc phục được.

Tôi nghe nói trong một lần tiếp một vị khách Thái Lan (thủ tướng hay bộ trưởng gì đó), ông Đỗ Mười đã nói: Nhân dân Việt nam chúng tôi đã phải trải qua ba cuộc chiến tranh... Để nói Việt nam là anh hùng? Hay là để nói Việt nam đang có nhiều khó khăn do ba cuộc chiến tranh để lại?

Không rõ. Và trong lời đáp từ, vị khách Thái Lan đã nói: Nhân dân Thái Lan chúng tôi đã may mắn tránh được ba cuộc chiến tranh...

Nếu chuyện đó là có thật thì vị khách Thái Lan quả là đã nói một câu thâm thúy.

Chương 9

Lần đầu tiên tôi được biết ông Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị, là năm 1953 khi tôi dự lớp chỉnh quân cải cách ruộng đất ở Việt Bắc. Trước khi chúng tôi bước vào kiểm thảo, ông Thanh đã đến động viên anh em chúng tôi. Là một người lính chiến đấu ở vùng sau lưng địch quen với những tình huống khẩn trương đòi hỏi những mệnh lệnh ngắn gọn và những lời động viên mộc mạc, lần đầu tiên nghe ông Thanh nói, tôi đã có một ấn tượng rất sâu sắc. Tôi nhớ đã đọc thấy ở đâu rằng để giành giật quần chúng với giai cấp thống trị, người cộng sản chỉ có hai vũ khí: nói và viết (cho nên người cộng sản phải là người diễn thuyết giỏi và viết báo giỏi). Ông Thanh có cái vũ khí thứ nhất.

Và có lẽ cũng chỉ cần thế thôi.

Trước khởi nghĩa ông làm công việc vận động nông dân, mà nông dân thì đa số mù chữ, không đọc được. Bây giờ nắm chính quyền rồi, nếu cần viết đã có người chấp bút, viết hộ.

Phải thừa nhận là ông có tài hùng biện. Khi cần chế riễu ông biết sâu cay, khi cần khuấy động tâm can người nghe thì biết tìm ra những lời thống thiết. Mà không cần lý luận dài dòng gì, chỉ bằng những câu nôm na bắn trúng điểm đen, với một cách nói sôi nổi, đầy nhiệt tình. Đúng là một agitateur thượng đẳng.

Động viên chúng tôi ông nói về trách nhiệm của người cộng sản đối với giai cấp nông dân về tình thương yêu của Đảng đối với chúng tôi, chỉ mong chúng tôi nhận ra khuyết điểm để làm tròn sứ mệnh cao cả của mình mà thôi.

Lời lẽ của ông cứ thấm vào ruột gan tôi. Không cần phải nói là trong lần kiểm thảo ấy tôi đã tự sỉ vả, bôi nhọ mình bằng thích.

Sang năm sau, trung đoàn tôi được lệnh làm thí điểm chỉnh quân cải cách ruộng đất. Trước đó, bộ đội địch hậu không làm chỉnh quân sợ xảy ra tình huống phức tạp: trước đấu tranh giai cấp quyết liệt, có thể có những người nhảy sang phía địch chỉ cách ta có gang tấc. Và lần này cũng chỉ làm thí điểm một tiểu đoàn, cộng thêm một bộ phận trung đoàn bộ và quân khu bộ. Và cũng không dám làm tại chỗ, phải dắt díu nhau ra tận vùng tự do Thanh Hóa, cách mấy trăm cây số để quần nhau.

Tôi lúc ấy là phó chính ủy trung đoàn được giao phụ trách lớp ấy dưới sự chỉ đạo trực tiếp của anh Lê Tự, phó chính ủy quân khu. Anh Tự đi Việt Bắc nhận chỉ thị chỉnh quân về phổ biến lại cho ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi:

- Yêu cầu chính của chỉnh quân là phải phát động quần chúng đấu tranh vạch mặt được những tên phản động, gián điệp chui vào hàng ngũ ta phá hoại, và phải làm kiên quyết, không được để lọt lưới.

Tôi thắc mắc lắm và phát biểu lại:

- Theo như tôi được nghe anh Thanh nói ở lớp học của chúng tôi thì chỉnh quân là để nâng cao giác ngộ cho quần chúng ngang tầm với nhiệm vụ mới của cách mạng, chứ đâu phải để đấu tố nội bộ?

Trung đoàn trưởng Nguyễn Tiệp cũng băn khoăn lắm, nghe tôi nói thì tán thành ngay:

- Anh Thư nói tôi nghe có lý hơn.

Anh Lê Tự hơi bị lúng túng, rồi giải thích:

- Đó là sau cuộc hội nghị phổ biến kế hoạch, anh Thanh có giữ mình lại dặn riêng như vậy.

Đây là lần đầu tiên tôi có cái cảm giác về sự không đi đôi giữa lời nói và việc làm của các nhà lãnh đạo, về sự khác biệt giữa cái chủ trương công khai và cái chỉ đạo ngầm. Nhưng cũng chỉ là thoáng qua. Tôi còn bao công việc phải lo.

Xin nói thêm là trong cuộc chỉnh quân thí điểm ấy, chúng tôi đã không đấu tố được tên phản động hay gián điệp nào. Đấu quá yếu chăng? Nhưng nếu phản động và gián điệp chui vào hàng ngũ ta nhiều như thế thì làm sao mà chúng tôi lại đánh thắng tới được như thế, làm sao chúng tôi không xơi no bom địch, làm sao chúng tôi tồn tại được giữa cái nơi nhìn xung quanh đâu cũng là đồn bót địch? May mắn là đang chỉnh quân dở dang thì diễn ra Điện Biên Phủ, cấp trên còn bận bao nhiêu việc khác, chẳng ai nghĩ đến chuyện tổng kết kinh nghiệm của đơn vị thí điểm, chứ nếu không thì cũng phiền cho anh Tự và tôi. Chỉ có tôi là bị kiểm điểm vì một sự cố xảy ra trong chỉnh quân: tối học phụ, xem phim Bạch Mao Nữ, một chiến sĩ, có lẽ vì quá căm thù giai cấp và sẵn súng trong tay, đã tương luôn một phát lên màn ảnh, tiêu diệt tên địa chủ Hoàng Thế Nhân, làm náo loạn cả lên, phải bỏ dở buổi chiếu bóng. Phúc tổ cho tôi hôm ấy là phim chứ không phải là diễn kịch.

Hòa bình lập lại, về báo Quân Đội Nhân Dân, tôi được nghe nhiều cuộc nói chuyện và lên lớp của ông Thanh vốn là chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cơ quan chủ quản của báo. Và cũng phải mất vài năm, nhờ Đại Hội 20 tôi mới dần dần thoát ra khỏi được cái ma lực của ông, nghe ông bằng cái tai tỉnh táo hơn.

Có một cuộc nói chuyện của ông tôi chắc rất nhiều anh em còn nhớ, cuộc nói chuyện trong đó ông kêu gọi khoác súng lên vai, chiến đấu nếu cần thì hết đời cha đến đời con. Nêu cao tinh thần chiến đấu thì tất nhiên phải chống tư tưởng hòa bình hưởng lạc. Ông diễu các bà vợ của một số ông cán bộ cao cấp ở nhà quê, đi kháng chiến vẫn nâu sồng, nay về thành phố lại đua đòi áo dài với tóc phi dê, nom như khỉ già. Ông cũng phê bình các cô văn công (thế hệ văn công hồi ấy là thế hệ các chị Thùy Chi, Kim Ngọc, Tường Vi v.v...) sao không cặp tóc như bình thường mà lại lấy mùi soa buộc vểnh ngược lên như cái đuôi ngựa. Ông gọi các bà lớn học làm sang là con gì thì tôi chẳng lấy thế làm động lòng, chỉ thương mấy cô văn công làm cái nghề đòi hỏi phải làm dáng mà lại nghèo, có cái khăn mùi soa buộc lên tóc mà cũng bị nhiếc như mẹ chồng nhiếc vậy.

Tòa soạn chúng tôi có anh Sanh Thí, thuộc loại người ăn nói không cần giữ mồm giữ miệng. Chẳng hiểu anh đã kêu ca với ai về đời sống khó khăn và gọi nó là une chienne de vie (sống khổ như chó) mà câu ấy đã đến tai ông Thanh. Ông đã kể lại câu chuyện và phê phán Sanh Thí là sống une vie de chien (sống kiểu chó má). Ông tỏ vẻ thích thú về cách chơi chữ này của mình.

Thoạt đầu tôi cũng chỉ nghĩ ông Thanh là người khắt khe, không thông cảm với những yêu cầu bình thường của quần chúng sau mười năm chiến tranh gian khổ. Cho đến khi tôi được nghe câu chuyện mừng hụt của ông Nguyễn Tuân. Ông Tuân kể rằng trong một lần dẫn nhà văn Pie Abraham vào thăm Vĩnh Linh, đến Đồng Hới ông đã đưa khách vào nghỉ ở nhà giao tế. Thấy trên tủ hàng có bày hai chai Môét Săngđông, ông Tuân vốn là người sành rượu, thích quá, nói với ông Yêm, phụ trách nhà giao tế:

- Thật là châu về Hợp Phố. Tiếp khách Pháp lại có rượu Pháp.

Bây giờ hai chai Môét Săngđông là chuyện vô nghĩa, nhưng ở cái thời xếp gạch ấy, nó quý như vàng. Nhưng ông Yêm tỏ ý tiếc. Nhà giao tế có mười chai, gia đình ông Thanh vào đây nghỉ đã dùng hết tám, còn lại hai chai này phải dành nốt cho ông. Ông Thanh qua đây bao giờ cũng chỉ uống rượu vang ấy. Sáng hôm sau, đến giờ ăn, ông Tuân dẫn khách xuống, thấy một bàn ăn bày rất thịnh soạn, nghĩ bụng:

- Cái nhà giao tế này nó cũng chu đáo đấy chứ nhỉ!

Nhưng một lần nữa ông lại mừng hụt. Người ta dẫn hai nhà văn đến một bàn gọn nhẹ hơn. Còn cái bàn thịnh soạn kia là bữa ăn trưa của gia đình ông Thanh lúc ấy vào rừng đi săn chưa về.

Hóa ra cái gọi là hưởng lạc chỉ là quả cấm đối với những ai đó thôi.

Và nhiều anh em chắc còn nhớ vụ án văn học Vào Đời, tiểu thuyết của Hà Minh Tuân. Vào Đời là câu chuyện một cô học sinh mà tuổi vào đời đã bị trắc trở do vào làm việc ở một nhà máy, gặp phải những người cán bộ đã lợi dụng sự dại dột và lòng khao khát sống của cô để làm điều nhảm nhí. Câu chuyện chỉ có thế, và viết không hay, nhiều chỗ sượng, giả sử để yên thì cuốn sách chắc cũng có ít độc giả. Nhưng báo Tiền Phong đã viết một bài phê bình. Cũng chẳng sao. Báo Tiền Phong có quyền phê bình, và ông Hà Minh Tuân, lúc ấy là giám đốc Nhà Xuất Bản Văn Học, chắc cũng chẳng kém cựa gì mà không dám trả lời.

Nhưng ông Thanh đã nhảy vào cuộc và chuyển câu chuyện văn học sang thành một vấn đề chính trị: thế là bôi nhọ chế độ, là mất lập trường giai cấp. Ông tổ chức một buổi nói chuyện. Một khi ông Thanh đã lên tiếng thì tất cả các báo phải lần lượt lên tiếng. Và khi các báo đều lên tiếng thì tự nhiên sẽ nổi lên một phong trào quần chúng khắp nơi lên tiếng, đả kích Hà Minh Tuân dữ dội. Trong những người lên tiếng ấy, tôi tin rằng không ít người chưa đọc cuốn sách ấy, vì có sách đâu mà đọc.

Tội nghiệp Hà Minh Tuân, thà rằng anh là Nhân Văn Giai Phẩm thì nó còn đi một nhẽ. Dẫu sao thì anh em Nhân Văn cũng đấu tranh trực diện, lớn tiếng nói lên những bất đồng với lãnh đạo, và đôi lúc khá chua cay. Nào là Tôi bước đi không thấy phố thấy nhà chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ (Trần Dần), nào là Đặt bục công an giữa trái tim người (Lê Đạt). Còn Hà Minh Tuân thì không có một tí gì như thế cả.

Anh là một học sinh Hà Nội tham gia tự vệ chiến đấu khá sớm hồi tiền khởi nghĩa, và trong kháng chiến đã làm phó chính ủy một trung đoàn. Hòa bình lập lại, là một cán bộ tin cậy và yêu viết văn, anh đã được điều ra ngoài quân đội, làm hạt nhân lãnh đạo văn nghệ, phụ trách giám đốc Nhà Xuất Bản Văn học. Vào hồi ấy, cái chức vụ ấy là thuộc loại to. Anh đã có vài cuốn tiểu thuyết nhưng bị coi là mờ nhạt. Cho nên lần này anh định viết một cuốn có chiều sâu một tí, không tô hồng một chiều. Thế thôi. Nào ngờ! Anh đã bị treo bút, cách chức giám đốc nhà xuất bản, đưa đi làm công tác thủy sản, đánh cá nước ngọt.

Theo Tuân nói với tôi thì Vào Đời là một câu chuyện có thật mà anh đã khai thác được trong một chuyến đi thâm nhập thực tế, chứ không phải anh bịa. Điều đó tôi không rõ, nhưng đã là tiểu thuyết thì cần gì phải là chuyện có thật? Và nếu vì quyển ấy mà Tuân bị như thế thì các nhà văn, nhà báo bây giờ viết về chống tiêu cực đáng bị như thế nào?

Sau này gặp Hà Minh Tuân, tôi gợi lại chuyện cũ, và anh kể:

- Hồi ấy, mỗi buổi sáng, ngồi một mình trong phòng làm việc, vì anh em cũng tránh gặp mình sợ bị vạ lây, mình giở các báo xuất bản trong ngày ra xem một lượt và có cảm tưởng mình như một đơn vị bị bao vây, ngồi cắn răng chịu đựng những đợt pháo từ tứ phía nã tới.

Và anh cười:

- Mình có để ý đến chữ đồng chí của các cậu.

Câu chuyện là như thế này:

Lúc ấy đã là những ngày cuối chiến dịch phê phán. Các báo đã lên tiếng cả, riêng báo Quân Đội Nhân Dân vẫn im hơi lặng tiếng. Như thế thật là nguy hiểm. Sau khi bàn bạc, thấy không thể trốn tránh được, chúng tôi phân công cho anh Mai Luân viết một bài. Dù muốn hay không, Luân cũng phải nhai lại vài điều các báo đã nói, và ở cuối bài, để tự xoa dịu lương tâm, thêm một câu đỡ đòn kín đáo cho Tuân và gọi anh là đồng chí Hà Minh Tuân. Chẳng là vì tất cả các bài phê phán Tuân đều dùng một giọng gay gắt, và cứ Hà Minh Tuân trống không mà réo, không một bài nào có đến một chữ anh, hoặc chữ đồng chí thường dùng. Bằng chữ đồng chí ở cuối bài, Mai Luân muốn ám chỉ rằng ta nên coi Hà Minh Tuân là đồng chí, và có thái độ đồng chí với anh. Chỉ có thế thôi mà phải đắn đo mãi. Và hai chữ đồng chí chìm khuất trong cuối bài ấy, Tuân cũng mò ra. Chứng tỏ anh đã dùng kính lúp để soi từng chữ các bài phê phán anh.

Đang chiến dịch Vào Đời thì cuốn Phá Vây của Phù Thăng bị ông Thanh rờ tới. Phá Vây là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh, nghiêm chỉnh từ đầu đến cuối. Nhưng để cho thêm sâu sắc (vẫn cái bệnh muốn cho sâu sắc), anh Phù Thăng đã đặt vào miệng chính ủy trung đoàn mấy câu triết lý về chiến tranh. Dài khoảng một trang in gì đó. Và thế là rắc rối. Lại chiến tranh chung chung, không phân biệt chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa! Trông gương Hà Minh Tuân, Phù Thăng hoảng quá, xin gặp ông Thanh để phân trần và nhận khuyết điểm. Và được ông ban cho một câu:

- Không có gì, cứ yên tâm, lần sau viết thì rút kinh nghiệm. Phù Thăng mừng như bắt được của, gặp tôi hoa chân múa tay:

- Không có gì! không có gì! Hú vía!

Năm 1962 tôi được cử đi học ở Trường Chính Trị trung cao cấp của quân đội. Chương trình gồm ba môn: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học của Mác, và lịch sử Đảng. Thời gian học: ba tháng. Với chương trình ấy và thời gian ấy, ai cũng có thể đánh giá được chúng tôi đã học một cách đại khái như thế nào. Nhưng hôm lớp học bế mạc, ông Thanh đến huấn thị, đã phát biểu:

- Các đồng chí học như thế là quá nhiều rồi, bây giờ về đốt sách đi, để đi vào thực tế.

Lại thêm một vị nữa chưa làm vua mà đã muốn đốt sách.

Về sau tôi có được nghe ông kể về chuyện đi vào thực tế của ông. Lúc ấy ông được phân công nắm thêm nông nghiệp. Ông có đặt cho một kỹ sư chăn nuôi một câu hỏi: làm thế nào để có được hai triệu con lợn? Anh kỹ sư đã trình ông cả một kế hoạch bao gồm: chuồng, trại, vốn, con giống, thức ăn, phòng chữa bệnh, chính sách giá cả v.v... Ông Thanh đã gạt đi, bảo là lý thuyết suông. Ông nói: chỉ cần phát huy tinh thần cách mạng của nông dân, mỗi nhà nuôi hai con lợn là trong vòng một năm ta sẽ có hai triệu con lợn. Đó là phương pháp cách mạng, là quan điểm quần chúng. Chỉ tiếc rằng về sau, thực tế đã chứng tỏ là phương pháp cách mạng ấy đã không đẻ ra được lợn.

Nghe nói rằng ông Mai Quang Ca, bí thư riêng của ông Thanh, đã ca ngợi ông Thanh không cần đọc nhiều, chỉ đọc một cuốn Nhà Nước Và Cách Mạng của Lênin là đủ để lãnh đạo cách mạng. Nếu chuyện đó có thật thì cũng chẳng lấy gì làm lạ: khối vị như thế. Chỉ có điều là có thực ông Thanh đã đọc hết cuốn Nhà Nước Và Cách Mạng hay không thì tôi cũng còn hồ nghi lắm.

Chương 10

Suy nghĩ thì như thế, và nói vụng ở đâu thì nói, nhưng không bao giờ tôi nghĩ đến việc tìm cách đưa những quan điểm riêng của mình công khai lên báo. Rất đơn giản: có hóa rồ thì mới làm như vậy. Ai đã làm báo dưới thời chuyên chính vô sản đang cực thịnh thì hiểu rõ điều đó. Bây giờ có anh em còn hỏi tôi: Thế hồi ấy cậu đã viết những gì? Làm như thể tôi bị bắt là vì đã viết gì vậy. Nào có viết gì đâu cho cam! Hỏi cung tôi, ông Nhuận cũng bắt tôi khai ra những bài nào tôi viết chống lại đường lối của Đảng. Tôi đã đáp:

- Báo chí, sách vở là chuyện giấy trắng mực đen, tôi giấu làm sao được, đề nghị các anh cứ đọc lại thì rõ.

Việc đó chắc là ông ta không đợi tôi nói, đã làm lâu rồi, cho nên ông ta không gặng thêm gì nữa, coi như chỉ hỏi chơi một câu để nắn gân thôi.

Quả thật tôi quá hiểu rằng muốn yên ổn thì không nên đùa với kỷ luật của Đảng. Nhưng đó mới là một mặt. Còn một mặt khác. Từ lâu tôi đã được học rằng đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác Lênin là một tổ chức chiến đấu chứ không phải một câu lạc bộ tranh luận. Do đó phải có kỷ luật sắt: cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số v.v... Muốn chiến đấu thì đúng là phải như thế thật. Tôi đã chấp nhận điều đó như một tất yếu. Và đã nhận thức là tất yếu thì tốt hơn hết là nên tự giác mà thực hiện, dù đôi lúc có khó chịu đến mấy. Và cũng có thể tự an ủi rằng dẫu sao mình cũng là người tự do, vì đứng về mặt triết học, thì tự do là tất yếu được nhận thức.

Cho nên chúng tôi luôn luôn tự kiểm duyệt mình, còn nghiêm khắc bằng mấy bất cứ cơ quan kiểm duyệt nào. Chỉ cần cấp trên bảo tuyên truyền ngang bằng giữa Liên xô và Trung quốc thì khi đăng một bài về Liên xô, tự chúng tôi phải lo ngay đến kèm theo một bài về Trung quốc. Bài này dài 2000 chữ thì bài kia cũng suýt soát, hơn kém không đáng kể. Bài này đăng trang một thì bài kia trang nhất. Cùng ở đầu trang hay cuối trang, tốt nhất là song song như hai câu đối. Và đầu đề của hai bài phải cùng một co chữ, tốt nhất là cùng một kiểu. Thực ra tất cả những cái đó đều dễ vì có thể đo đếm được. Cái khó là viết nhiệt tình như nhau. Vì nhiệt tình là cái không cân đong được. Vả lại viết về Lôi Phong mà cũng nhiệt tình như viết về Gagarin thì quả thật là khó.

Cho nên sau khi cho tổng kiểm tra báo Quân Đội Nhân Dân, Tổng Cục cũng chỉ đưa ra được vài kết luận đại khái: nặng về mặt nọ, nhẹ về mặt kia v.v... Thực ra thì ý định của cấp trên là thanh lọc tòa soạn. Lý do đã có: tổng biên tập ở lại Liên xô, nhiều cán bộ bảo lưu quan điểm riêng trong học tập Nghị Quyết 9. Nhưng chỉ dựa vào lý do đó để thanh lọc thì không hay lắm, cần có những sai lầm cụ thể.

Trong những năm chúng tôi sống hài hòa với Đảng, tòa soạn chúng tôi là một tập thể trẻ trung, tràn đầy nghị lực và vui nhộn. Dưới sự thúc đẩy của Văn Doãn, chúng tôi đua nhau học, đua nhau động não để làm cho tờ báo mỗi ngày một mới, một hay hơn. Hăng cải tiến như vậy nên không tránh khỏi sơ suất. Và chính vì một vài sơ suất nhỏ trong trích dịch những chuyện lạ thế giới đăng trên báo chí nước ngoài mà bị ông Thanh gọi là báo Sicagô (Chicago). Nó là như thế chứ không phải là báo Quân Đội Nhân Dân đã đăng ảnh đùi vế hoặc hoa hậu. Có ảnh phụ nữ, nhưng phải là nữ du kích, tay cầm súng hẳn hoi, còn có nhắm bắn hay không thì không nhất thiết.

Từ sau Nghị Quyết 9, cái tòa soạn ấy đã trở thành một nhà có đám. Ngơ ngác và âm thầm, giữ mồm giữ miệng. Tệ hơn thế, chúng tôi đã bắt đầu đề phòng nhau. Chẳng biết ai thế nào. Từ đâu mà cái việc con trai Văn Doãn đến nhà tôi học đã tới tai Tổng Cục?

Lúc ấy Hoàng Linh là quyền tổng biên tập, thay Văn Doãn. Anh gần như trở thành một cái bóng thầm lặng. Một lần, gặp Linh ở hành lang tòa soạn, tôi giữ anh lại và nói với anh một vài suy nghĩ về tình hình. Anh lẳng lặng nghe, mỉm cười buồn rầu, rồi lảng đi không đáp một câu. Lần khác, tôi lại nói, anh lại mỉm cười buồn rầu, nhưng lần này thì bảo tôi:

- Thôi, Thư ạ, có nghị quyết rồi, đừng nói gì nữa, chết đấy!

Ngay cả trong học tập Nghị Quyết 9. Linh cũng đã giữ mình, chỉ ngồi nghe, không phát biểu. Có anh em chê Linh nhát. Cuộc sống sau này đã chứng tỏ Hoàng Linh hiểu chuyên chính vô sản hơn chúng tôi. Mười mấy năm sau, ra tù đã khá lâu, tôi lại chơi thăm anh thì thấy anh vẫn thế: vẫn thân tình, vẫn mỉm cười buồn rầu, và vẫn lặng thinh. Tôi chịu Hoàng Linh về cái tài tự dồn nén.

Còn tôi thì phải dần dần mới hiểu được, hay nói cho đúng hơn là mới quen được với tình thế của kẻ thiểu số. Thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến, nghĩa là sống thì được để bụng, chết thì được mang theo xuống mồ. Không ai cấm, chỉ cấm không được nói ra thôi.

Rồi chúng tôi lần lượt ra đi, người về nhà trường, người đi làm tổng kết, người đi viết sử. Anh Đào Phan thì bị đưa về Bảo Tàng Quân Đội. Anh em nói đùa là Đào Phan bị bỏ vào bảo tàng. Nói theo nghĩa là cuộc đời của Đào Phan, với chiều dầy hoạt động cách mạng từ năm 1936, với những trách nhiệm quan trọng đảm đương từ hồi còn rất trẻ (bí thư ban cán sự Hà Nội, tương tự bí thư thành ủy bây giờ, khi anh mới ngoài 20 tuổi), với những năm nằm Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo, Việt Bắc, cả tù tây lẫn tù ta, tóm lại là cuộc đời lên voi xuống chó của anh cũng là một hiện vật đáng được đưa vào bảo tàng.

Rời bỏ cái nơi chúng tôi đã sống gần chục năm của cái tuổi bắt đầu chín, rời cái nơi đã đào tạo chúng tôi thành những người làm báo, rời cái tập thể đã biết sống với nhau tử tế, mỗi người một vẻ nhưng êm ru, tôi ra đi không chút luyến tiếc. Đối với tôi đó không còn là nơi đất lành chim đậu.

Nhưng đâu là nơi đất lành? Xung quanh tôi là một khoảng trống. Người thì nhìn tôi bằng con mắt ác cảm, người thì chẳng có ác cảm gì, hoặc có thiện cảm, nhưng không muốn dây với tôi, sợ bị vạ vịt, còn người thì khiêu khích, mở miệng ra là chửi Liên xô chan chát. Cơ quan mới của tôi có một ông cấp ủy, vốn xuất thân nông dân, có cái lối chửi chua ngoa của bà con nông dân: Khơrútsôp bán bí mật tên lửa cho Mỹ, Liên xô giúp ta ra-đa nhưng lại báo cho Mỹ biết tần số để nó tiêu diệt, dân Liên xô sống sướng thế thảo nào mà chẳng sợ chiến tranh v.v... Nghe mà buồn.

Trong khi đó ông Lê Duẩn sang Liên xô lại thống thiết tuyên bố: Đối với người cộng sản Việt nam thì Liên xô là tổ quốc thứ hai chẳng là vì hàng năm ông Lê Thanh Nghị lại đi một vòng các nước xã hội chủ nghĩa để xin viện trợ. Dân gian thì nói là ông Nghị vác rá đi ăn xin. Nhưng có vị lãnh đạo lại phổ biến rằng đồng chí Lê Thanh Nghị đi để bắt bọn xét lại phải trả nợ máu, làm như thể ta đánh thuê cho bọn xét lại vậy. Không phải chỉ xin những thứ thiết thực cần cho chiến đấu, mà xin cả thiết bị toàn bộ của hàng loạt nhà máy chưa biết đến bao giờ mới xây dựng. Tinh thần là lúc này ta đang đánh nhau, dễ xin thì cứ xin đại đi và cứ để đấy sau này hòa bình cần đến thì đã có sẵn, chứ chờ đến lúc ấy mới xin thì e rằng khó. Rốt cuộc là bao nhiêu thùng thiết bị quý giá, mang về không có chỗ chứa cứ vứt vạ vật dọc các đường giao thông, trên các bãi hoang, các góc rừng, dầm mưa dãi nắng, tang thương, vô chủ. Rồi người thì đến cạy để vặt linh kiện, kẻ thì chỉ để lấy các ốc vít ngoại lắp vào xe đạp, thậm chí chỉ để lấy mảnh gỗ thông về làm chuồng gà, còn lại ra sao thì mặc.

Bốn chữ CCCP được dân gian giải nghĩa là: Các chú cứ phá, Càng cho càng phá, Còn cho còn phá, rồi rốt cuộc biến thành Chẳng cho cũng phá. Và rủ nhau đi chè chén, người ta mời mọc nhau: Các bạn cứ ăn uống thoải mái, hết bao nhiêu tiền đã có Liên xô chịu. Vậy có gì là lạ nếu bây giờ tiền chùa, tức là tiền nhà nước, người ta cứ tiêu thoải mái, bỏ túi thoải mái, xe chùa đi thoải mái, của chùa chia chác nhau thoải mái, đất chùa lấn chiếm thoải mái. Trước kia có Liên xô, bây giờ thì có chùa gánh cho hết. Sướng thật!

Một anh trong bộ biên tập của chúng tôi phàn nàn là Văn Doãn đã phản thùng, đâm một nhát vào sau lưng chúng tôi. ý là: chúng tôi ở trong nước đang đấu tranh để bảo vệ chân lý, Doãn ở lại Liên xô là gây khó khăn cho chúng tôi trong cuộc đấu tranh ấy. Tôi thì lại nghĩ khác. Tôi không rõ vì sao Doãn ở lại Liên xô, ở lại để làm gì và có làm gì được không. Còn tôi thì không nghĩ mình có thể làm được cái gì. Một việc đơn giản nhất là treo ấn từ quan, về nhà dạy học, vui thú điền viên, mà các cụ ta ngày xưa vẫn làm thì bây giờ một người cộng sản là tôi cũng không thể làm được. Các cụ còn có điền viên để mà vui thú, còn có thể dạy học được. Còn tôi thì đã được vô sản hóa đến mức chỉ cần cắt cái cuống nhau tiền lương nhà nước một tháng là đói. Và có trời biết đã đói thì sẽ như thế nào.

Cho nên tôi không có ảo tưởng đấu tranh gì, tự biết mình không giơ tay chống trời được. Và nếu tôi có bảo lưu quan điểm của mình thì chẳng qua cũng chỉ là vì trời sinh ra tôi là anh cả Cò ngốc ngếch, to đầu rồi mà vẫn dại, không biết mau lẹ đổi tiền cho hợp với thời trang, đã thế lại còn không biết nghĩ một đằng, nói một nẻo, bản lĩnh loại C, không có tài che đậy ruột gan của mình.

Thực ra thì về sau tôi cũng cố che đậy, nhưng đậy mãi thì thỉnh thoảng nó vẫn lòi ra, như cái nồi súp de quá tải áp suất thì tự động xì ra vậy . ở trên, tôi có nhắc đến ông cấp ủy xuất thân nông dân đã chửi Liên xô một cách chua ngoa. Ông ta có một cách suy nghĩ khá kỳ cục. Một hôm ông ta ngồi kéo thuốc lào sòng sọc, rung đùi đắc chí:

- Việt nam nhất thế giới! Việt nam đánh thắng Mỹ xong thì không còn thằng nào để mà đánh nữa hì! Mỹ là thằng mạnh nhất rồi.

Tôi chúa ghét cái kiểu ăn nói ấy, đáp luôn:

- Khó quái gì, đánh Liên xô, hoặc chấp cả hai thằng.

Sau này khi Trung quốc đánh ta, tôi không được gặp lại ông nhưng nghĩ rằng chắc ông hài lòng, ông đã có kỳ phùng địch thủ để mà đánh. La Văn Cầu ác chiến Đổng Tồn Thụy, chắc chắn phải ngoạn mục, dí bộc phá vào tận rốn nhau mà giật. Chỉ có điều hơi cấn cái: kỳ phùng địch thủ ấy lại là... bố ông ta.

Chương 11

Rồi một bữa, vào khoảng nửa đầu năm 1966, trên đường đi làm, tình cờ quay lại tôi bỗng có linh tính rằng người đàn ông nom lù khù cũ kỹ đạp xe cách sau tôi một quãng là nhân viên trinh sát của Cục Bảo Vệ Quân đội đang bám sát tôi. Vốn có đôi chút kinh nghiệm về việc phát hiện đuôi và cắt đuôi mật thám Pháp trong thời kỳ hoạt động bí mật, tôi chỉ cần vài cái rẽ ngang rẽ ngửa vòng vèo trên đường phố là đã có thể chắc chắn linh tính không đánh lừa tôi.

Hôm sau tôi không đi xe đạp nữa mà cuốc bộ ra xe điện. Vẫn lại anh chàng ấy lên xe điện cùng với tôi, tôi lên đầu toa còn anh ta cuối toa. Sắp đến nơi, tầu còn đang chạy nhanh, tôi bất ngờ nhảy xuống, cuốc bộ về cơ quan. Và thấy anh ta cũng nhảy xuống theo. Thế là rõ. Suy ra thêm một điều nữa là anh ta ắt phải có một đài quan sát gì đó, chắc là trong khu chợ Đuổi trước cửa nhà tôi, là nơi anh ta đã gởi lại cái xe đạp. Tôi vào cơ quan, mượn luôn một cái xe đạp, phóng ra phố. Đi được dăm phố thì lại xác định có một người phóng xe đạp bám riết mình. Không phải người lúc nẫy mà là một người khác trẻ hơn, nom linh lợi hơn. Vậy không phải chỉ có một người, mà một tổ ít nhất là hai người, một người lên tầu cùng với tôi, một người đạp xe đi theo tầu. Suy đoán ra thêm thì chắc là tại nhà tôi ở, thế nào cũng phải có một anh hàng xóm đáng yêu nào đó ở buồng trong được cơ quan an ninh giao nhiệm vụ ghi số xe đạp của những ai ra vào nhà tôi (hồi ấy xe đạp cũng có biển đăng ký). Điều phán đoán của tôi sau này đã được chứng minh là đúng. Còn buồng tôi ở có bị gài máy ghi âm không thì tôi nghĩ rằng mình không thể biết được.

Tôi cảm thấy mình như một con ruồi bị sa vào lưới mạng nhện.

Nên làm thế nào bây giờ? Có nên vào gặp thẳng ông Song Hào, lúc ấy đã thay ông Thanh làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, kể với ông ta đầu đuôi và đề nghị: Tôi có điều gì không phải xin anh cứ bảo cho tôi biết, tôi sẽ sửa. Nghĩ đi nghĩ lại thì thấy thế là vô ích. Ông ta sẽ trả lời: làm gì có chuyện, anh thần hồn nhát thần tính đó thôi. Rồi ông sẽ chỉ thị cho Cục bảo vệ rút kinh nghiệm, theo dõi đối tượng phải kín đáo hơn, đừng để đối tượng phát hiện.

Đối tượng? Tôi là đối tượng, là kẻ thù của cách mạng ư? Có cái đạo lý nào lại như vậy? Càng nghĩ càng thấy vô lý, và cái sợ ban đầu tạm lắng đi, nhường chỗ cho sự bực dọc. Tôi kể chuyện cho anh Hoàng Thế Dũng, là phó tổng biên tập của chúng tôi khi còn ở báo. Anh trả lời là chính anh cũng có đuôi, có cả đuôi là đàn bà, và anh đã ghi được mấy chục cái số xe đạp của những kẻ theo dõi anh. Chẳng rõ trong bụng anh nghĩ như thế nào, nhưng ngoài miệng thì anh nói cứng:

- Thằng Kinh Chi đấy! Kệ nó, mình cây ngay không sợ chết đứng.

Cây ngay thì anh đúng là cây ngay rồi, nhưng có sợ chết đứng hay không thì còn phải xét. Anh là một trong ba người thanh niên gây cơ sở Việt Minh đầu tiên ở khu vực Bần Yên Nhân vào năm 1943. Ba anh em chọn ba bí danh: một người là Kỷ, một người là Luật, còn Dũng thì là Sắt, Kỷ- Luật - Sắt, nghe thật là son sắt. Tháng 3-1945, ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp, lợi dụng lúc hỗn quân hỗn quan, Việt Minh đã giả làm Nhật, kết hợp với nhân mối, đánh úp cướp đồn Bần Yên Nhân mà không phải nổ một phát súng. Nhân mối là do Dũng tổ chức, còn người đóng giả sĩ quan Nhật là ông Nguyễn Bình sau đó làm chỉ huy trưởng Chiến Khu Đệ Tứ (Đông Triều) rồi Nam tiến trở thành ông trung tướng Nguyễn Bình nổi tiếng một thời. Bần Yên Nhân là đồn binh đầu tiên mà cách mạng đã cướp được ở đồng bằng Bắc bộ, lại ngay sát nách Hà Nội. Rồi Dũng được cử lên Việt Bắc học lớp Quân Chính Kháng Nhật khóa đầu, học xong được cử làm đội trưởng đội tuyên truyền Nước Nam mới của Việt nam giải phóng quân. Ngay từ đầu kháng chiến anh đã là chính trị viên trung đoàn, người cán bộ trung đoàn trẻ nhất mà tôi được biết, và đã lăn lộn với Trung Đoàn 102, Đại Đoàn 308 suốt từ Phố Lu đến Pú Chạng.

Dũng là người năng nổ, tính cương trực, hồn nhiên và rất... đẹp trai. Người như anh thì tưởng cuộc đời phơi phới. Thế mà rồi cũng lắm nỗi gian truân. Gian truân bắt đầu với anh khi anh bênh vực gia đình một đồng chí bị quy sai là địa chủ. Người đồng chí này lúc ấy đang đi học ở Liên xô, ở nhà chỉ còn mấy người đàn bà con gái, đương đầu làm sao được với đội? Gia đình ấy trước khởi nghĩa là cơ sở trú ngụ của một số chiến sĩ cách mạng. Nay các vị ấy đã thành cán bộ cao cấp và ở quanh đó mà không một vị nào dám hé răng bênh vực họ. Chi bộ đã kiểm điểm Dũng suốt nửa tháng trời là chống phá cải cách ruộng đất, nhưng anh nhất định không chịu. Cuối cùng anh bị kỷ luật, hạ cấp. Khi sửa sai, xã đã xin lỗi gia đình ấy, nhưng kỷ luật của Dũng thì không được xét lại. Ai bảo mày bướng! Dũng rất cay cái tiếng bướng ấy, nói: đã là thằng đồng chí với nhau thì chỉ có đúng với sai, làm gì có bướng với không bướng.

Dẫu sao đó cũng mới chỉ là một cơn trúng gió cảm mạo loàng xoàng thôi, vất vả vài năm rồi cũng ngóc đầu lên được. Nhưng vừa ngóc được ít lâu thì lại dính vào vụ bất đồng quan điểm này, và cuộc đời sẽ dạy cho anh biết cái luận điểm cây ngay không sợ chết đứng của anh là hoàn toàn sai lầm. Cây ngay thì mới có thể bị sét đánh chết đứng, còn dây leo thì nó luồn lách, chui lủi, sợ gì sét đánh?

Nghe Dũng nói, tôi cũng trấn an mình:

- Mình chẳng làm gì nên tội mà sợ. Hoặc như thế lại càng hay, Đảng sẽ thấy rõ tôi chẳng làm gì bậy.

Hoặc:

- Đây không phải là chủ trương của Đảng, Đảng ta không làm như vậy, và chắc chỉ là một số phần tử Mao-ít cực đoan, bảo hoàng hơn vua, làm càn thôi.

Hoặc:

- Họ theo dõi mình lộ liễu thế này không phải vì họ kém, mà là cố tình cho mình biết để răn đe thôi v.v... và v.v...

Cho tới ngày ấy, đời tôi đã trải qua hơn hai chục năm hoạt động chính trị. Con số không phải nhỏ, và cũng có thể coi tôi là một người già dặn về chính trị. Nhưng cái chính trị mà tôi đã làm cho tới đây là cái chính trị giản dị - đuổi Nhật đánh Tây, giành độc lập, xây dựng tổ quốc - trong đó mọi sự đều rõ ràng, minh bạch. Còn với cái chính trị tù mù này trong đó mọi sự đều lộn tùng phèo cả và diễn ra lắt léo trong bóng tối, tôi chỉ là một thằng nhãi ranh chưa ráo máu đầu mà thôi.

Nhiều lúc tôi nuối tiếc cái thời mà, sau một tháng chống càn ròng rã, vài đứa cán bộ chúng tôi, mặt mũi vêu vao và cổ gầy ngẳng, rủ nhau cải trang đi ra chợ tề làm một bát phở lợn, một cốc Nestcafé, hút một điếu Cotab, rít được vài hơi thì anh nào anh nấy say lừ đừ. Tiền ăn uống lấy ở tiền bán chiếc nhẫn của một trong mấy đứa chúng tôi vừa nhận được của gia đình ở trong tề gửi ra cho làm lương khô.

Có lần tôi lại nhớ đến cuộc họp thảo luận một văn kiện gì đó chỉ có dăm anh cán bộ chúng tôi với ông Đỗ Mười, lúc ấy là bí thư khu ủy kiêm chính ủy Bộ Tư Lệnh Quân Khu Tả Ngạn. Cuộc tranh luận hôm ấy rất hăng. Ông Mười cũng phát biểu sôi nổi, nhiều lần cướp lời anh em. Và bị một anh em phê bình:

- Đề nghị anh Mười không nên át giọng anh em. Phải để anh em phát biểu với chứ.

Ông Mười biết mình sai, cười, không hề tỏ vẻ khó chịu, và từ đó phát biểu rất trật tự, giơ tay xin phép hẳn hoi.

Tôi cũng nhớ năm 1949, tôi đi học trường Nguyễn ái Quốc ở rừng Việt Bắc. Lớp học rất đông, có cả những anh em từ Bình Trị Thiên, từ Nam bộ lặn lội vượt đèo vượt suối nửa năm trời ra học. Nhiều anh em chưa biết mặt các lãnh tụ. Hôm ấy ông Võ Nguyên Giáp đến giảng về đường lối quân sự của Đảng. Trong tiếng vỗ tay chào ông bước vào, có tiếng ai nói to:

- Đại tướng đẹp giai quá!

Ông Giáp dừng lại cười:

- Đẹp giai nhưng có vợ rồi!

Cả lớp lại cười ồ. Lại có anh nào ngồi cuối lớp, nói vọng lên:

- Đề nghị đi một vòng quanh lớp cho anh em xem rõ mặt.

Ông Giáp đã tươi cười đi một vòng trong tiếng vỗ tay vui vẻ.

Đến cuối khóa, lớp chúng tôi tổ chức một buổi kịch cương. Một anh bạn đóng vai ông Trịnh Đình Cửu, một sáng lập viên của Đảng và là phó hiệu trưởng. Tôi đóng vai chị Phương Mai, một nữ học viên nguyên tỉnh ủy viên Thừa Thiên. Trên sân khấu chúng tôi thả phanh nhại và trêu chọc vui những nhân vật mà chúng tôi thủ vai. Ông Cửu bị trêu về cái tính hay quan trọng hóa và hứa suông, còn chị Phương Mai thì vì cái tính... nhõng nhẽo. Và ở hàng ghế khán giả, ông Trường Chinh, lúc ấy là tổng bí thư kiêm hiệu trưởng nhà trường, ngồi cười rung bụng suốt cả buổi.

Cái thời mà người ta chưa bị quyền lực làm cho tha hóa, tình đồng chí nó giản dị, hồn nhiên là như vậy.

Đầu năm 1967, tôi được cử đi vào Tĩnh Gia sưu tầm tài liệu về viết sách. Đó là lần đi công tác cuối cùng của tôi. Chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc đang ngày càng khốc liệt. Ngồi trên những kiện hàng chất đầy thùng chiếc xe vận tải quân sự Môlôtôva chạy đèn gầm và nhảy chồm chồm trên các ổ gà, ổ trâu đường số 1, cổ áo kéo cao để ngăn bớt ngọn gió rét lùa ù ù vào hai tai, đứng co ro đợi hàng tiếng đồng hồ bên các bến phà mà cầu sang ngang đã bị bom Mỹ phá gục, tôi cảm thấy trong lòng vô cùng thanh thản. Nhớ lại những đêm làm xiếc cùng trên chiếc xe Môlôtôva như thế này vòng vèo đường đèo Tạ Khoa đi Cò Nòi trong chiến dịch Tây Bắc. Quên hết những buổi đi đường ở Hà Nội lúc nào cũng mắt trước mắt sau. Quên những buổi tối ở nhà Kiến Giang, hai anh em ngồi âm thầm trong ánh đèn dầu hỏa, lo âu chẳng biết nói năng gì. Và cũng quên cả không tự hỏi trong số những người cùng đi công tác với mình có ông đồng chí cớm nào không.

Chúng tôi đến một xã ven biển ở cuối huyện Tĩnh Gia, những hầm chữ A, những em bé đội mũ rơm che mảnh bom đi học, những hố bom, cả xã hầu như chỉ còn ông bà già, phụ nữ và trẻ em. Cô xã đội trưởng người gầy xương xương, tuổi đã cứng và chưa kiếm đâu ra tấm chồng, đưa tôi đi giới thiệu với các cơ sở để lấy tài liệu. Đi sát bên tôi dọc bờ biển dài chỉ toàn cát trắng, không một bóng cây, một bóng người, bóng thuyền, cô ta cứ hỏi chuyện tôi bằng một giọng nói ấm áp: Anh Thư bao nhiêu tuổi rồi, quê ở đâu, có chị ấy chưa? Có cháu nào chưa?... Và đến chiều khi chúng tôi trở về, ông bí thư già của Đảng ủy xã lại nhìn chúng tôi bằng con mắt nghi ngờ. Mấy ngày ở Tĩnh Gia ấy, máu lính chiến bỗng lại nổi dậy trong tôi, tôi da diết mong muốn được ra mặt trận. Nhưng bây giờ thì ai giao súng, giao quân cho tôi nữa! Người ta sợ tôi sẽ quay súng bắn lại nhân dân. Bắn vào các em bé đội mũ rơm đi học kia. Bắn vào cái cô xã đội trưởng thèm một tấm chồng và có giọng nói ấm áp kia.

ít lâu sau, tôi đang ở nơi sơ tán bỗng được một tin sét đánh ngang tai: Anh Hoàng Thế Dũng, phó tổng biên tập cũ của báo Quân Đội Nhân Dân, anh Phạm Viết, phó tổng biên tập báo Thời Mới, anh Trần Châu, biên tập viên báo Nhân Dân và anh Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện triết học, đã bị bắt. Ngay hôm sau, tôi kiếm cớ về Hà Nội, tìm hiểu thực hư.

Tôi xin nói thêm là mấy năm trước tôi có được cử đặc phái sang làm việc ở báo Nhân Dân, phụ trách mục quân sự trên báo này. Trong thời gian ở đó tôi đã được anh chị em báo Nhân Dân quý mến, nhất là các bạn trẻ cùng lứa tuổi. Hôm ấy ở nơi sơ tán về, xuống xe, tôi đến thẳng tòa soạn Nhân Dân, ở đó vợ tôi làm công tác y tế. Tôi vừa bước vào phòng y tế của vợ tôi thì cô Đức Hạnh, một nữ đồng nghiệp đang có mặt ở đấy, chạy ra ôm chầm lấy tôi, đấm vào ngực tôi thùm thụp, miệng thì cười nhưng mắt lại rơm rớm:

- Thế mà làm em tưởng bị bắt rồi!

Tôi đứng ngay tán tàn, hai tay như thừa, không biết nói sao, chỉ cười ngượng, nhưng trong lòng thì vô cùng cảm động.

Chương 12

Ngay tối hôm ấy, tôi đến nhà anh Kiến Giang, Hà Nội phòng thủ không thắp đèn đường. Phố xá tối đen như mực. Rất dễ đánh lạc người theo dõi mình. Nhưng nhà Kiến Giang thì chắc chắn bị giám sát nghiêm ngặt. Vẫn phải đến thôi. Kiến Giang trả lời:

- Cũng chỉ nghe nói có bốn anh em bị bắt như thế, không biết gì hơn.

Tất nhiên là anh tỏ ra lo lắng. Tôi không dám ngồi lâu, chỉ vài phút sau đã ra về. Bước xuống cầu thang tối om nhà Kiến Giang tôi cảm thấy tương lai mình cũng đen ngòm như vậy.

Vậy là chính các ông ấy chủ trương khủng bố nội bộ chứ không phải đám mao-ít cấp dưới làm bậy. Nhưng trong thâm tâm tôi vẫn hy vọng chỉ bắt bớ thế thôi không bắt tràn lan, bài học Hát xăng vanh đơ còn đó. Vậy là cho đến lúc này tôi vẫn chưa mở mắt. Tôi sẽ còn ngu lâu, và sẽ còn nhiều lần nữa tôi phải buồn rầu thừa nhận mình đúng là anh cả Cò.

Không cần phải nói rằng từ hôm ấy tôi không dám bén mảng đến nhà ai nữa. Tôi mong anh em đến cho tôi biết tin tức nhưng thản hoặc có anh nào xé rào đến nhà tôi, như tôi đã xé rào đến nhà Kiến Giang hôm ấy, thì thấy anh bạn đến tôi cũng nửa mừng nửa e ngại. Và cũng không cần phải nói rằng từ hôm ấy tôi bị giám sát rất chặt chẽ. Về quê thăm mộ ông bà, tôi đứng giữa cánh đồng nhìn lên đường số 5 thì thấy một anh chàng ngả xe ngồi bên vệ đường xe lửa cách một quãng xa. Hoặc tôi và chú em đạp xe đi thăm mẹ ở nơi sơ tán, cũng được một anh bạn hộ tống đến tận nơi. Suốt ngày hôm đó, anh ta ở đâu tôi cũng không rõ, nhưng đến chiều chúng tôi ra về thì đã thấy anh ta lẽo đẽo theo sau. Ngày giỗ ông nội tôi, tôi lên nhà thờ tổ thắp hương, ngồi chưa ấm chỗ đã thấy hai người lực lưỡng bước vào, đề nghị chủ nhà cho kiểm tra loa phát thanh. Mặc dù nhà không mắc loa. Và có việc phải đi qua đường Trần Phú tôi cũng tránh, đi vòng đường khác, sợ bị nghi là thăm dò tìm cách nhảy vào đại sứ quán Liên xô.

Đến lúc này tôi mới thấy một hành động của tôi trước đây là lố bịch. Tức là một buổi tối, hai vợ chồng chúng tôi đi xem kịch ở Nhà Hát Lớn và như thường lệ bị theo dõi lẵng nhẵng. Đến cửa Nhà Hát Lớn, tôi quay lại, đi thẳng tới chỗ anh chàng kia và nói:

- Anh cứ đi theo tôi làm gì cho mất công. Tôi đi xem kịch thôi mà.

Anh ta bị bất ngờ, lúng búng câu gì rồi lủi mất. Nhưng vào trong nhà hát tôi liếc mắt và đã thấy anh ta đứng tựa cột ở cuối nhà hát. Cái trò ấy tôi đã làm vài ba lần. Tôi muốn làm cho người ta hiểu rằng tôi không có tật nên không giật mình. Đại loại cũng như cây ngay không sợ chết đứng vậy. Lạ một điều là cái trò ấy không phải chỉ có riêng mình tôi làm. Không ai bảo ai mà tự nhiên cũng có vài ba anh em khác hành động như thế. Toàn những nhà chính trị cứ đinh ninh rằng có Đảng lãnh đạo thì người ngay thẳng không phải sợ cái gì cả.

Sau này ra tù, thỉnh thoảng ngồi gẫu ôn lại chuyện cũ, chúng tôi cứ thấy nực cười cho sự ngây thơ của chúng tôi. Vì hồi ấy chính là lúc chúng tôi đang vui mừng thấy Đảng điều chỉnh thái độ của mình với Liên xô, nói đúng cái câu chúng tôi vẫn dùng hồi ấy là ông Duẩn đang chuyển. Nghĩa là từ sau khi ông Kôxưghin sang thăm và tuyên bố ủng hộ Việt nam thì hầu như không thấy ông Duẩn nhắc đến chủ nghĩa xét lại nữa. Trên báo chí cũng vậy. Những luận điểm có gì đánh nấy, súng trường bắn máy bay v.v... tức là tự lực tự cường, không cần viện trợ kỹ thuật của Liên xô, cũng biến mất trên báo chí. Rồi ông Lê Duẩn đi Liên xô thề thốt tổ quốc thứ nhất, tổ quốc thứ hai. Trong khi đó, ông Tố Hữu, ông Trần Quỳnh, cái loa của ông Duẩn, lại có những bài nói chuyện phê phán đường lối của Trung quốc khá chua cay. Ngược lại, phía Liên xô cũng ngày càng giúp đỡ Việt nam tích cực hơn, và tặng huân chương cho Lê Duẩn. Vậy là tốt quá. Chúng tôi đang mừng, và có anh em đã đặt câu hỏi: ông Duẩn chuyển như thế là về chiến lược hay sách lược? Thậm chí còn cho là xong rồi. Thì đùng một cái, ông Duẩn chuyển luôn bốn vị vào tù. Còn các vị khác thì nơm nớp như cá nằm chốc thớt. Thật là khôi hài!

Cũng có thể nói thêm rằng chính cái vị nhận định là chuyển biến chiến lược và xong rồi ấy lại là một trong bốn vị đã bị bắt đầu tiên.

Chương 13

Và thời điểm ấy đứa con gái nhỏ của tôi mới qua tuổi lên mười. Khi còn học mẫu giáo nó thích múa hát như mọi đứa trẻ khác. Nhà tôi có một máy quay đĩa Liên xô và một ít đĩa nhạc cổ điển. Những lần tôi quay đĩa nó cũng thích ngồi nghe. Rồi một hôm, nghe xong bài Danuýp xanh, nó nói một câu làm tôi chú ý.

- Bố ơi, cái bài hát này nó cứ làm sao ấy. Nghe tức cả ngực!

Lúc ấy nó lên sáu, còn chưa biết phân biệt bản nhạc với bài hát.

Xin kể thêm là các cụ nhà tôi cũng thích nhạc. Tôi từng thấy cụ ông ngồi đàn nguyệt cho cụ bà gảy đàn thập lục. Thằng em ruột tôi tốt nghiệp phổ thông đã thi đỗ vào đại học âm nhạc, khoa sáng tác. Chỉ tiếc rằng vừa ra trường, bắt đầu có tác phẩm thì bị bom B52 chết. Còn tôi thì hồi mới lớn đam mê đủ mọi thứ nghệ thuật. Một kỳ nghỉ hè tôi ngốn phải ngót nghét trăm cuốn tiểu thuyết, đa số là tiếng Pháp, vì tiểu thuyết tiếng Việt không đủ cho tôi đọc. Và mỗi lần Nhà Hát Lớn có ban kịch Thế Lữ trình diễn thì trên chuồng gà không bao giờ vắng đôi dép cao su con hổ và chiếc áo dài thâm của tôi. Từng ôm đàn theo học ông Dương Thiệu Tước, từng vác giấy bút ra ga Hàng Cỏ ngồi hàng buổi làm ký họa và đang học dở dang năm dự bị của trường Mỹ Thuật Hà Nội. Rốt cục đi theo cách mạng lại hóa ra là anh lính chiến. Và suốt cuộc đời lính chiến thỉnh thoảng vẫn cứ ngẩn ngơ. Đến mãi tận bây giờ, tròn bảy mươi tuổi đời, trong bụng ôm một khối ung thư có thể vỡ ra lúc nào không biết, mới hối hả ngồi tỉa tót câu văn giối già, trả cái nợ thời trẻ, kể chuyện về những sự đời vô lý. Cứ viết, chẳng biết có kịp không, và có nên cơm cháo gì không.

Thế cho nên khi cảm thấy con bé nhà tôi có máu âm nhạc, tôi nộp đơn luôn cho nó thi năng khiếu vào trường Âm Nhạc Việt nam khi nó vừa hết mẫu giáo. Thi không có chuẩn bị, một nốt nhạc bẻ đôi không biết. Cứ thi đại.

ở trường thi ra, tôi hỏi thi như thế nào thì nó kể.

- Có nhiều cô chú lắm, một chú bấm bấm vào cái đàn gì to bằng cái tủ và bảo con la la.

-Có phải la la nhiều không?

- Nhiều. Lúc đầu chú ấy bấm một tiếng thôi, xong rồi thì là hai ba tiếng, xong rồi thì là bấm dài ơi là dài.

- Thế con làm như thế nào?

- Con cứ nghe, xong rồi con la la.

- Rồi sao nữa?

- Chú ấy bảo xong rồi, đi ra.

Tôi cười, nghĩ bụng: Khó nhằn lắm. Trẻ thì rất đông mà lấy thì rất ít. Trong số trẻ có mặt, tôi thấy một thằng bé đi thi mang theo một cây sáo trúc. Bố nó là một nghệ nhân thổi sáo, đã dầy công tu luyện cho nó từ lúc nó còn bé tí. Khi từ trong phòng thi bỗng bay ra tiếng sáo của nó, mọi người đang đứng chờ ở sân, đều chạy xô đến bên cửa sổ ngó vào. Các thầy đang chấm thi ở các phòng bên cũng chạy bổ sang, sửng sốt. Con cái nhà người ta đi thi như thế chứ! Con nhà mình thì la la như đứa dở hơi!

Hôm trường công bố kết quả, tôi đi xem cho phải phép, không hy vọng. Không ngờ nó trúng.

Nó được phân học ác-coóc. Con gái học ác-coóc thì hơi mệt nhưng mình không phải là con nhà nòi, cũng không phải con ông cháu cha, len chân được vào cái trường quý tộc ấy đã là khá lắm rồi. Tôi sẽ cho nó theo học đến cùng, đến đại học sẽ thi vào khoa sáng tác như chú nó.

Rồi từ đó, tuần hai buổi bố con đèo nhau đi học, bố đạp xe, tự hào vì sau lưng mình có đứa con gái bé tí tẹo đeo chiếc ác-coóc nặng trĩu vai. Hết buổi học lại đón con về thả ở sân tòa soạn cho chơi. Về nhà, tôi huy động tất cả vốn hiểu biết của tôi về nhạc kèm cho nó tập, và tự tôi cũng tập. ít lâu sau nó đã có vài bài tủ.

Năm ấy, nhân dịp ngày kỷ niệm thành lập quân đội, trường Trưng Vương mời tôi đến kể chuyện chiến đấu cho các em. Tôi đã lôi cả con bé đi theo để bố kể chuyện xong thì con đàn một bài cho vui. Khoe mà! Nó kéo bài Làng Tôi của Văn Cao và một bài dân ca Ba Lan, hai bài của chương trình lớp 1. Hoan hô nhiệt liệt. Cô hiệu trưởng chạy lên ôm hôn nó và tặng nó bó hoa tướng. May mắn sao không ai yêu cầu biểu diễn thêm: hết tủ rồi! Người ta hoan hô không phải vì nó đàn hay mà vì hồi ấy trẻ con chơi nhạc là của lạ, cũng như người đi xe máy ở Hà Nội lúc bấy giờ có thể đếm trên đầu ngón tay.

Bố con đèo nhau ra về hỉ hả lắm. Lần lên sân khấu đầu tiên trong đời nó thế là đã thành công mĩ mãn.

Rồi trường đi sơ tán tránh máy bay. Bắc Giang, Vân Đình... Đi thăm, tiếp tế. Rồi lần thì nó bị chó cắn phải tiêm mười một mũi vào bụng. Lần thì nó bị cảm cúm, chú y tá nhà trường cho uống aspirin vào lúc đói, bị chảy máu ruột phải đưa xe về Hà Nội cấp cứu. Bệnh viện ở Hà Nội lúc ấy chưa có chế độ cho người nhà vào chăm sóc bệnh nhân, kể cả bệnh viện nhi. Đến giờ nó cứ tự động vác bát đi ăn và tự đến phòng thuốc đưa tay cho cô y tá tiêm. Một lần tôi đến Bắc Giang thăm nó, được nghe nó kể bị ghẻ lở đầy người, mấy đứa rủ nhau đi tìm lá về đun nước tắm rồi lấy kim chọc mụn ghẻ cho nhau. Như bộ đội chúng tôi ngày xưa vậy. Mình nghe nó kể thì xót, còn nó thì kể như chuyện vui. Tôi chỉ còn biết bảo nó:

- Chịu khó một tí con ạ, cố mà học.

Rồi một hôm, vào lúc nó đang học năm thứ năm, tôi nhận được giấy báo đến gặp bà hiệu phó nhà trường tại nhà riêng của bà tại Hà Nội. Tôi đến và được bà báo cho biết trường cho con bé nhà tôi thôi học. Lý do: nó hay đọc chuyện, và đọc xong lại kể cho các bạn nghe, và nó kể rất hay nên các bạn nó sao nhãng cả học tập. Rồi dường như thấy lý do đó không vững, bà ta nói thêm: vả lại cháu nó cũng yếu, sợ không học được. Không nó khỏe, và tôi đã gặp thầy dạy nó, ông ta bảo nó học được. Khiếu nại với bà không xong, tôi nhờ một anh bạn giới thiệu đến gặp ông vụ phó Vụ Đào tạo của Bộ Văn Hóa. Nghe tôi trình bày, ông lấy làm ngạc nhiên:

- Sao đã mất công đào tạo cháu bốn năm rồi lại cho về như thế?

Ông sốt sắng hứa sẽ can thiệp và hẹn ngày tôi đến lại. Tới hẹn tôi đến thì bao nhiêu nhiệt tình của ông đã biến đâu mất sạch. Ông bảo: nhà trường đã quyết định như vậy rồi thì chẳng còn làm thế nào được.

Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không hiểu tại sao nó lại bị đuổi học. Nếu nó có lỗi gì nặng đáng bị đuổi thì bà hiệu phó kia sợ gì mà không nói độp vào mặt tôi để chứng minh chủ trương đuổi nó là đúng. Vậy là có lý do gì khác. Đuổi nó để lấy chỗ cho một người được gửi gắm hay một con ông cháu cha nào chăng? Không rõ. Hay vì bố nó là phần tử nghi vấn? Chẳng có lẽ. Chỉ biết rằng như vậy là một giấc mộng đẹp như bong bóng xà phòng đã tan vỡ như một bong bóng xà phòng.

Nó bị đuổi học ở trường nhạc ít lâu thì tôi bị bắt. Vợ tôi vào thăm kể truyện nó đi học văn hóa bị bạn nào chơi ác dán trộm vào lưng nó tờ giấy có mấy chữ con việt gian đeo một lúc lâu thấy ai nhìn mình cũng cười mới biết. Về nhà nó kể, khóc sưng cả mắt. Suốt mấy năm phổ thông còn lại, biết thân biết phận, nó phấn đấu để được vào đoàn, ra sức học và lăn lộn mọi công tác xã hội của trường. Bạn bè thông cảm muốn kết nạp nó lắm, nhưng ai cho kết nạp. Tốt nghiệp phổ thông xong, nó nộp đơn thi vào đại học tổng hợp văn, không được học nhạc thì học văn vậy. Vì nó cũng rất thích văn, đã thử viết truyện ngắn, làm thơ, và mỗi lần trường diễn kịch đều nhảy lên sân khấu thủ một vai. Và như bạn đọc đã thấy, từ bé nó đã tài kể chuyện đến nỗi bị đuổi học.

Khổ thân nó, ai để cho vào học mà thi! Nếu tôi ở nhà thì tôi sẽ thuyết phục được nó, còn mẹ nó thì không can nổi: nó cứ nhất định tin rằng một khi nó mong muốn mãnh liệt như thế thì không có chú nào nỡ gạn bỏ nó, nhất là nếu nó đỗ điểm cao. Nó đã đỗ điểm cao thật, được ban tuyển sinh xếp vào danh sách cho đi học Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Danh sách đưa lên trên thì nó bị gạt: lý lịch xấu. Không những không được đi Cộng Hòa Dân Chủ Đức, mà còn không được nhận vào học ở Đại học tổng hợp. Nó đã lộn cổ rơi từ trên trời rơi xuống. Rơi tự do.

Hồi ấy trong giới học sinh có câu vè:

Nhất Y. Nhì Dược. Tạm được Bách khoa. Sư phạm bỏ xó.

Đối với con cái bọn xét lại thì cả cái thứ nhất, thứ nhì, đến cái tạm được lẫn cái vứt đi đều là những chỗ chúng bị cấm cửa. Chúng bị cấm cửa toàn bộ những trường dạy khoa học xã hội và các trường trọng điểm của khoa học tự nhiên.

Học văn chúng có thể làm văn thơ phản động. Học sư phạm chúng có thể lợi dụng bục giảng nhà trường làm hư hỏng học sinh. Học ngoại ngữ chúng có thể làm gián điệp. Học dược chúng có thể bổ thuốc độc vào thuốc men. Học địa chất chúng có thể nắm được tiềm lực quốc gia, và đi lang thang khắp đất nước, chúng có thể gây cơ sở lập chiến khu. Học kiến trúc chúng có thể phá hoại các công trình xây dựng Học lý hóa chúng có thể sản xuất bom. v.v... và v.v...

Dành cho chúng còn mấy trường: nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thể dục thể thao, học thì học chẳng học thì đừng.

Thế là đỗ hẳn hoi mà nó phải ở nhà đan len. Năm sau người ta cứu vớt nó, xếp cho nó vào trường Đại Học Xây Dựng vừa học vừa làm, mới mở thí điểm khóa đầu. Một năm học lý thuyết vài tháng, còn lại là ra công trường gánh gạch, đẩy xe bò, đánh vôi, đánh vữa. Nhà trường tuyên bố thẳng thừng: học trường này chỉ có hai loại người, một loại là lý lịch tốt mà học dốt loại thứ hai học giỏi mà lý lịch xấu, các anh các chị biết thân thì liệu mà phấn đấu.

Công trường làm thông tầm, đến trưa mấy đứa con gái lại rủ nhau vác cà mèn cơm nguội rúc vào giữa mấy đống gạch ngồi ăn và nghỉ trưa một tí: mùa hè là để tránh nắng, mùa đông để tránh gió, mùa nào thì cũng để tránh sự trêu chọc cợt nhả của đám thanh niên công trường. Nó kể: mùa hè nắng chang chang, đứng trên cầu vôi, hoa mắt chóng mặt tưởng như muốn nhào xuống hố. Người ta đã coi nó là không đủ sức để học nhạc nhưng đủ sức để làm công việc phu hồ.

Học đến năm thứ ba thì bị khái huyết, nó đành phải bỏ. Thế là mất toi ba năm nữa, thành bốn. Bốn năm của cái tuổi ước mơ và hy vọng. Nhưng nó còn đủ nhiệt tình, nói cho đúng hơn là đủ sự bướng bỉnh để thua keo này bày keo khác, cho tròn quá tam ba bận. Năm sau nó lại thi vào một lớp đào tạo nữ hộ sinh. Lại đỗ. Đời học trò của nó thi đâu đỗ đấy, và đỗ điểm cao.

Nhưng người ta cũng lại không nhận nó vào học. Người ta nói con cái phản động đỡ đẻ cho nhân dân thì sẽ bóp chết con cái của nhân dân. May mắn là lúc ấy tôi đã ra tù. Chạy chọt, khiếu nại, kiện cáo lung tung, lên bộ Công An, lên Ban Tổ Chức Trung ương. Rốt cuộc người ta cũng thương tình để cho nó vào học. Cuộc đời nó quãy mai cuối cùng cũng thành được một cô y tá đỡ đẻ.

Nhưng đến đây thì nó không còn hoài bão gì nữa, chỉ cốt sao ngày hai buổi đến làm việc không để ai chê trách là được. Và đến đây hậu quả của mấy năm công trường càng rõ. Mấy đợt nằm bệnh viện lao. Vài ngày lại một lần nó ngồi gục đầu xuống cống hộc ra hàng bát máu. Đó cũng còn là hậu quả của một thời kỳ, khi tôi còn ở trong tù, mấy mẹ con phải lần lượt thay phiên đi bán máu nuôi nhau. Bán máu đến nỗi con gái đang thi mà người xanh rớt. Người ta xì xào: chắc là nó phá thai! Nhưng dẫu sao như thế vẫn còn là mừng lắm: bao nhiêu khát vọng tan tành, vậy mà nó không phát rồ phát dại, không buông thả, phá phách. Nếu nó rồ dại hoặc phá phách thì còn khổ chưa biết đến chừng nào.

Bây giờ nó đã có đứa con gái lên tám, học lớp ba, giống mẹ hồi bé như đúc. Trong một buổi sinh hoạt lớp, cô giáo bảo bạn nào có tiết mục thì lên bục trình bày cho cả lớp nghe. Con bé giơ tay xin lên... đọc Kiều. Đọc khoảng trăm câu, ý chừng mỏi mồm, vì phải đọc có diễn cảm, nó báo cáo cô:

- Thưa cô, con còn thuộc nữa, nhưng sợ dài quá, con xin phép cô đến đây con thôi.

Cô sợ quá, vội đồng ý ngay:

- Chị tra tấn cả lớp thế là quá đủ rồi!

- Học Kiều là nó thích chứ không ai bảo.

Tôi xem tờ lý lịch nó khai, thấy ở mục năng khiếu nó ghi: năng khiếu văn. Và, ở mục nguyện vọng: trở thành nhà văn.

Khiêm tốn thế thôi, trở thành nhà văn. Một lần tan giờ học, tôi đến đón nó muộn thì thấy nó ngồi một mình dưới đất, lưng tựa vào tường rào nhà trường, cuốn vở nháp kê lên đầu gối, đang mải mê viết truyện ngắn mini. Tôi kể chuyện lại cho mẹ nó nghe thì mẹ nó chỉ mỉm cười buồn rầu.

Chương 14

Tên con gái tôi là Nguyễn Thị Giáng Hương. Cái tên đó không nói gì với bạn đọc cả. Nhưng tôi nêu ra là vì nếu may mắn cuốn sách này có được bạn đọc chú ý đến, và đọc đến đoạn này bạn có chút thương cảm với một cuộc đời con trẻ sớm bị bứt ngọn một cách tàn nhẫn, thì âu đó cũng là một cách tôi được chuộc lỗi với nó vậy. Còn con nó, con bé đọc Kiều, tôi đã đặt tên là Cẩm Linh. Ông ngoại mang cái tiếng gián điệp Liên xô đã đặt tên cháu như thế để kỷ niệm một quãng đời khốn khổ. Cẩm Linh, âm Hán Việt của Kremlanh.

Ước gì hai ba chục năm nữa có một cuốn tiểu thuyết hay mang tên tác giả: Nguyễn Thị Cẩm Linh.

Được như thế thì cả hai bố con tôi, một người đã sang thế giới bên kia, một người nếu còn sống thì cũng đã già, sẽ mát lòng mát dạ.

Được như thế là nó đã cưỡng lại được số phận hộ cho mẹ và ông nó. Mẹ và ông nó đã chịu thua từ lâu rồi...

Hôm ấy là ngày 24-12 hôm trước của Nô-en 1967.

Từ sớm đã có báo động máy bay. Trẻ con nhà tôi đã đi sơ tán cả, ở nhà chỉ còn có hai vợ chồng. Hai chúng tôi nhảy xuống cái hố cá nhân ở mảnh sân con trước cửa nhà. Đứng nép hai người dưới cái hố cá nhân chật chội, nghe tiếng bom nổ, tôi nói:

- Ước gì một quả bom rơi xuống trúng hố cho chúng mình chết luôn. Có đôi.

Nghe tôi nói, vợ tôi mỉm cười buồn rầu. Vợ tôi hiểu tâm trạng của tôi là tâm trạng của một con thú bị săn đuổi không có đường chạy tháo thân.

Thế là sau đợt bắt bớ thứ nhất hồi tháng 7, đến tháng 10 đã diễn ra đợt bắt bớ thứ hai. Số người bị bắt bao nhiêu tôi không rõ, chỉ biết là nhiều hơn lần trước và trong đó có Kiến Giang. Bây giờ nhắc lại chuyện những ngày ấy, chị Lan, vợ anh Kiến Giang, đôi lúc vừa cười vừa nói:

- Hồi ấy anh Kiến Giang bị bắt rồi, tôi đi đường gặp anh Thư, anh ngoảnh đi tránh mặt tôi.

- Chẳng rõ chị nói vui hay trách móc? Tôi không nhớ chuyện ấy có hay không, nhưng tôi tin là có. Lúc ấy còn ai dám nhìn mặt ai! Lúc ấy tôi đã được tin Đảng coi đây là một chuyên án, và thành lập hẳn một ban chuyên án do ông Lê Đức Thọ làm trưởng ban, và gồm toàn những ủy viên Bộ Chính Trị, ủy viên Ban Bí thư, ủy viên Ban Chấp Hành Trung ương, bộ trưởng, thứ trưởng, đủ các ngành công an, quân đội, thanh tra, phụ nữ (vì có bắt phụ nữ), chỉ không có ngành luật pháp thôi. Đại để là một chiến dịch khủng bố đặt dưới sự chỉ huy của một Bộ Tư Lệnh chống xét lại quyền uy còn lớn hơn cả cái Bộ Tư Lệnh chống phong kiến của ông Hồ Viết Thắng hồi cải cách ruộng đất. Và sau mỗi đợt bắt bớ, ông Lê Đức Thọ lại đăng đàn ra một bản thông báo nội bộ để động viên dư luận trong Đảng. Những bản thông báo đánh số thứ tự như những thông báo chiến sự:

Thông báo số 1, Thông báo số 2... Nghe ghê cả người!

Những chuyện trên tôi biết được chỉ là do nghe ngóng chứ không được phổ biến cho điều gì hết. Cho đến đầu tháng 12, tôi bỗng được triệu tập đi nghe băng ghi âm các bản thông báo số 1 và số 2 nổi tiếng ấy.

Đến lúc ấy tôi mới biết số anh em bị bắt đã lên tới mười lăm người, trong đó có hai chị phụ nữ: chị Lan, vợ anh Phạm Viết, bị bắt sau chồng một tuần lễ, và một cô giáo trường phổ thông tôi không biết mặt. Và đến lúc ấy tôi mới được biết chúng tôi là một tổ chức chống Đảng, lật đổ, một tổ chức tụ tập lại theo lối ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, một tổ chức có tổ chức mà là không có tổ chức, không có tổ chức mà lại hóa ra là có tổ chức. Đó là phép biện chứng: nó mà lại không phải là nó, không phải là nó mà lại chính là nó.

Đại để có thể hiểu là một tổ chức không có hình thức tổ chức nào, không có tôn chỉ, mục đích, không có cương lĩnh, điều lệ, không có trên có dưới, không có chi bộ hoặc tổ, nhóm gì cả và cũng chẳng cần ai kết nạp ai, chỉ cần ai thấy mình là ngưu thì cứ việc tự động tìm đến với ngưu, ai thấy mình là mã thì đi tìm mã, rồi ngồi với nhau lúc nào tùy ý, bao nhiêu lâu tùy ý, và muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm. Anh em nào trong chúng tôi đã nghĩ ra cái kiểu tổ chức ấy quả thực là người có đầu óc sáng tạo.

Hình như sợ rằng cái gì cũng không có cả mà bảo là có tổ chức thì khó thuyết phục nên ông Thọ nói rằng tổ chức này cũng có một cái có thể coi như cương lĩnh. Đó là một tài liệu do anh Minh Việt, phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Hà Nội, viết với đầu đề: Chủ nghĩa giáo điều ở Việt nam.

Thú thực tôi chưa hề biết trên đời này có một ông tên là Minh Việt làm cái chức vụ ấy, và cũng chưa được nghe ai nói về bản tài liệu của ông ta viết. Nhưng cương lĩnh là cương lĩnh, chứ tại sao lại có thể coi như cương lĩnh?

Sau này, mãn hạn tù, về Hà Nội tôi có nhờ anh em giới thiệu đến gặp anh Minh Việt để hỏi về bản cương lĩnh của anh. Anh nói:

- Cương lĩnh gì đâu, mình nghiên cứu tình hình thế giới và trong nước viết thành một bản đóng góp vào việc phê phán lý luận.

Về sau tôi mới biết ông anh là phó tiến sĩ triết học, có cái ham thích nghiên cứu lý luận. Một ham thích nguy hiểm.

Tôi ngỏ ý muốn mượn đọc, xem nó thế nào thì anh đáp:

- Làm gì còn! Có mỗi một bản viết tay, khi mình bị bắt họ tịch thu mất rồi còn gì.

Không có tổ chức mà là có tổ chức, không phải là cương lĩnh mà lại là cương lĩnh, cái phép biện chứng ấy nghe cũng hay hay, nhưng áp dụng vào pháp lý để buộc tội người thì mệt quá! Không giết người mà là giết người: tử hình.

Hai bản thông báo số 1 và số 2 đã gây cho tôi một ấn tượng rất nặng nề. Vì giọng nói đắc thắng và đầy đe dọa của ông Thọ. Tôi cũng không hiểu vì sao ông Thọ lại tỏ ra đắc thắng đến thế. Ông trung đoàn trưởng của tôi sau khi đưa được trung đoàn vượt qua sông Luộc đã giơ tay vẫy tôi với vẻ đắc thắng thì tôi hiểu được. Ông ta vừa làm được một việc tưởng không thể làm nổi. Còn việc bắt bớ chúng tôi thì dễ quá, muốn trừ khử cũng chẳng khó gì.

ở cuộc họp ra về, tôi đón đợi những điều xấu nhất. Tôi cảm thấy cái thòng lọng đang thít dần vào cổ tôi.

Tôi đã không phải đợi lâu. Chỉ mấy hôm sau, ông Mạc Ninh, thủ trưởng mới của tôi, gọi tôi đến, bảo:

- Anh Song Hào chỉ thị cho anh nghỉ làm việc một tuần để viết kiểm thảo. Nhận tội đi thì được khoan hồng, không nhận thì sẽ bị bắt. Trong thời gian viết kiểm thảo, anh không được trao đổi gì với ai. Tôi sẽ bố trí một buồng riêng cho anh ngồi viết.

Ông Mạc Ninh chỉ nói vắn tắt thế thôi. Chắc ông đã nhận được chỉ thị cụ thể hướng dẫn từng câu một cần nói gì với tôi. Không một lời giải thích, không một lời động viên, không một câu khuyên nhủ. Đối với kẻ thù người ta không khuyên nhủ. Người ta bức hàng hoặc tiêu diệt. Tôi đã nhận được của ông Song Hào một tối hậu thư bức hàng.

Tôi ngồi một tuần lễ, một mình một căn buồng rộng, suy nghĩ rất căng thẳng. Thế là cuộc đời tôi, cuộc đời vợ và ba đứa con nhỏ của tôi, tất cả sẽ phụ thuộc vào cái tuần lễ này đây, vào mấy tờ giấy đặt trước mặt tôi đây. Có lúc tôi nhìn anh em trong cơ quan mà thấy thèm: trong khi họ sống nhởn nhơ thì tôi ngồi lo bạc mặt. Tôi tự trách mình sao không thể sống đơn giản như người ta, ngày hai buổi đến cơ quan, việc tới tay thì làm, bảo viết gì thì viết nấy, bảo khen ai thì khen, bảo chửi ai thì chửi, tội vạ gì đến mình mà bận tâm đi rồi hứng lấy tai họa đổ lên đầu cả nhà mình. Chiều chiều về nhà trông thấy vợ lo lắng, tôi rất ân hận. Từ nửa năm nay, tức là khi bắt đầu bắt bớ, tôi không còn bụng dạ nào đi thăm con cái, phó mặc chúng cho vợ tôi . ở nơi sơ tán chắc chúng đang chạy nhảy, không thể ngờ cái gì đang treo lơ lửng trên đầu chúng.

Thiếu sót, khuyết điểm, sai lầm, dại dột, ngu ngốc, cái gì tôi cũng có cả và xin nhận. Nhưng tôi có tội gì với tổ quốc?

Có tổ chức mà là không có tổ chức, không có tổ chức mà là có tổ chức, chuyện đó là ông Thọ suy diễn ra hay là có anh em nào bị bắt đã nhận như vậy? Và tự mình nhận hay là bị ép cung? Nhưng dù anh em đó nhận kiểu như thế nào thì đó là việc của anh em ấy, không phải việc của tôi. Về điều này thì tôi không lo ngại gì. Nhưng có một chuyện làm tôi phải cắn bút khá lâu. Tôi có một anh bạn mà tôi xin phép không nêu tên ra ở đây vì chuyện của anh để anh nói thì tốt hơn. Anh bạn thường cho tôi mượn báo chí nước ngoài đọc, gồm báo Sự Thật của Đảng cộng sản Liên xô, báo Nhân Đạo của Đảng cộng sản Pháp, tập san Thông Tin của Cục Thông Tin Quốc Tế, một tổ chức chung của các đảng cộng sản thành lập sau Hội Nghị 81 Đảng. Thoạt đầu tôi tưởng là anh mượn ở thư viện cơ quan anh. Rồi tôi ngờ ngợ và một hôm hỏi thẳng báo lấy ở đâu. Anh trả lời lấy ở APN (thông tấn xã Liên xô, có chi nhánh ở Hà Nội). Té ra là thế! Anh còn cho biết thỉnh thoảng vẫn gặp các anh em Liên xô tại APN trao đổi với nhau về tình hình.

Trong sự việc này tôi có một thái độ nước đôi. Tôi nghĩ rằng trong lúc đảng ta đang trượt vào quỹ đạo nguy hiểm của Đảng cộng sản Trung quốc thì giúp cho Liên xô hiểu được tình hình để có chính sách thích hợp tranh thủ Đảng ta là một việc nên làm. Đảng đã từng dạy chúng tôi Liên xô là trung tâm, là người đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là tổ quốc thứ hai của mỗi người cộng sản Việt nam. Và trong thời điểm nghiêm trọng này ta đang rất cần Liên xô giúp đỡ.

Nhưng trong tình hình lúc ấy, quan hệ với Liên xô là một việc nguy hiểm, tôi không có gan làm. Và thấy anh bạn tôi làm, tôi cũng rất ngại và khuyên anh nên rất thận trọng. Tôi không can. Can thì sợ mang tiếng là nhát, vả lại tôi biết can cũng chả được.

Rồi một lần đến chơi, anh bạn tôi bảo:

- Các đồng chí Liên xô yêu cầu ta góp ý kiến trong tình hình hiện nay Liên xô nên có chính sách gì đối với Việt nam.

Tôi trả lời:

- Liên xô nên tích cực giúp Việt nam chống Mỹ. Việc vận chuyển qua đường mòn Hồ Chí Minh rất khó khăn. Liên xô nên dùng uy tín của mình đặt vấn đề với chính phủ Xihanúc để họ cho phép đưa viện trợ vào miền Nam qua cảng Xihanúcvin.

ít lâu sau, anh bạn tôi đến, cho biết các đồng chí Liên xô trả lời: vấn đề tôi đề xuất Liên xô đã làm rồi.

Đầu đuôi câu chuyện làm gián điệp cho Liên xô mà sau này người ta buộc cho tôi là như vậy.

Nếu bắt quan hệ với Liên xô là điều tốt thì tôi chẳng có gì đáng vỗ ngực tự hào. Tôi chỉ là một anh nhát gan. Nếu đó là việc xấu thì tôi cũng chẳng phải là kẻ phản bội tổ quốc, tôi chỉ là một thằng ngu. Là ngu thì cùng lắm tôi cũng chỉ đáng bị khai trừ ra khỏi Đảng.

Việc này có nên khai ra không? Nghĩ đến giọng nói đầy hăm dọa của ông Thọ tôi rất ngại ngùng. Mình khai ra, dù là sự thật, nhưng ông ấy có tin không? Hơn nữa anh bạn tôi ở trong tù chối hay nhận như thế nào tôi không rõ, nhưng nếu anh ta không nhận, tôi ở ngoài, còn tự do, lại tố giác anh thì có coi được không? Tính đi tính lại, cuối cùng tôi không khai.

Nộp bản kiểm thảo rồi, tôi như ngồi trên lửa đốt.

Tôi đợi phản ứng của cấp trên. Cái lo âu còn ghê gớm hơn cái lo âu của đêm trên đê Sa Lung tôi đứng đợi tiểu đoàn trưởng Mạnh đi trinh sát mở đường: chúng tôi sẽ ra thoát khỏi vòng vây hay là bị tiêu diệt, xóa sổ? Một ngày, hai ngày, ba ngày, ngày nọ nối tiếp ngày kia, đầy một vẻ chết chóc. Tôi nghĩ rằng hôm trước của ngày tận thế chắc cũng như thế này mà thôi.

Rồi một buổi tan tầm, ông Mạc Ninh gọi tôi lại, bảo:

- Anh về chuẩn bị balô quần áo, chăn màn, sáng mai đến cơ quan đi lên chỗ sơ tán với tôi, mai có ô tô.

Tôi hồi hộp quá, cố phán đoán xem đó là tín hiệu gì. May ra tôi thoát chăng?

Tối hôm đó vợ tôi chuẩn bị cho tôi một ba lô đầy chăn màn, quần áo ấm. Sáng sớm lại chạy đi mua một đôi bánh mì cặp nhân đầy lên, đút cả vào ba lô. Vừa xong thì báo động máy bay. Đạn cao xạ ầm ầm.

Còi báo tan. Chúng tôi nhảy ở dưới hố lên, khóa cửa, lấy xe đạp đèo nhau lên cơ quan. Chia tay nhau trước cửa cơ quan, vợ tôi nói nhỏ:

- Anh đi, mau về.

Tôi cười gượng. Chúng tôi nhìn nhau nửa lo lắng, nửa hy vọng.

Sân cơ quan vắng tanh, chỉ có một mình ông Mạc Ninh chắp tay sau đít đi đi lại lại trên hành lang. Tôi thấy chợn chợn. Ông Mạc Ninh nói như có ý giải thích.

- Anh em đã đi trước cả rồi. Cậu hành chính chạy ra phố hộ tôi chút việc. Ta vào đây uống nước chờ xe.

Rồi ông kéo tôi vào buồng ông. Tôi ngồi tiếp chuyện ông, cố làm ra vẻ tự nhiên. Một lát lâu sau có tiếng commăngca đỗ xịch ngoài sân. Tôi chưa kịp định thần đã thấy xuất hiện hai viên thiếu úy trẻ tuổi nai nịt chỉnh tề, một người dừng lại trấn giữ cửa, người kia bước xộc vào. Tôi giật thót mình.

Viên thiếu úy thứ hai nói như ra lệnh:

- Anh đứng nghiêm nghe lệnh!

Anh ta rút trong sắc cốt ra một tờ giấy nhỏ bằng trang vở học trò, tuyên đọc:

Lệnh bắt giam.

Ra lệnh bắt: Tên phản cách mạng

Trần Thư.

Vì tội: có hành động nguy hại đến nền an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nơi giam: Hỏa Lò.

Ký tên

Đại Tá Kinh Chi. Cục Trưởng Cục Bảo Vệ

Lệnh vắn tắt một cách đanh thép, không có những câu thừa như căn cứ điều khoản bao nhiêu của bộ luật nào đó v.v... Bắt, thế thôi, không oong đơ (un deux) gì cả.

Tôi toát mồ hôi. Và không hiểu sao cuống lên lại thọc tay vào túi áo quân phục. Viên thiếu úy nhảy lùi phắt lại, đưa tay vào bao súng ngắn đeo bên sườn. Chắc anh ta tưởng tôi thò tay vào túi để lấy vũ khí chống lại? Thấy thế, tôi từ từ rút tay ra, buông xuôi. Và tự nhiên thấy trong lòng thanh thản lạ lùng.

Âu thế cũng là xong. Chứ sống như những ngày tháng vừa qua thì tôi không chịu nổi nữa rồi.

Tôi có cảm giác được giải thoát.

Cái cảm giác được giải thoát ấy nó mạnh đến nỗi khi hai cánh cổng nặng chịch của nhà tù Hỏa Lò mở ra cho chiếc xe chở tôi từ từ bò vào trong sân, tôi không có gì xao xuyến, lo âu. Chỉ một chút tò mò: cái nhà xăng tan nổi tiếng, cái nhà bốn phố, mà từ thủa nhỏ tôi đã bao lần đi dọc không phía này thì phía kia của bốn mặt tường sù sì lì lợm của nó và nhìn nó bằng con mắt rất nể, nó là thế này đây. Bao lần đi qua nhưng đây là lần đầu tiên bước chân vào.

Chương 15

Dẫu sao đây cũng mới chỉ là khu hỏi cung, nơi sinh hoạt và làm việc của cán bộ nhà tù, được ngăn cách khỏi khu giam người bằng một cái cổng không kém bề thế cái cổng ngoài đường. Tầng ngoài địa ngục. Cho nên nó chưa có vẻ gì ghê gớm. Có hai dãy nhà hai bên, có bồn cỏ, có hoa.

Người ta dẫn tôi vào một buồng rộng, trống trơn, chỉ kê độc một cái bàn gỗ. Một viên thượng úy trỏ cho tôi đứng vào một bên tường, và nói bằng giọng khu bốn pha bắc:

- Để balô xuống, cởi quần áo ra.

Tôi đặt balô xuống đất, rồi cởi quần áo ra: áo bông quân phục, áo len dài tay, áo len ngắn tay, sơ mi, quần. Đến đây tôi dừng lại và không thấy viên thượng úy bảo gì. Vậy là không phải cởi truồng. Một người mặc thường phục tiến đến bảo tôi há mồm, lật lưỡi, vãnh má hai bên. Khám mồm. Khám tai. Rồi sờ nắn tất cả những nơi trên thân thể tôi mà cái quần đùi bộ đội và cái áo may ô cộc tay của tôi còn che khuất. Không thấy bảo tôi chổng mông vành đít khám hậu môn.

Tôi chẳng sợ. Chưa bị bắt nghĩ đến bị bắt thì sợ lắm, bây giờ bị bắt rồi, và chấp nhận (vì cũng chẳng có cách nào khác) thì hết cái để sợ. (Rút kinh nghiệm, muốn duy trì ai trong sự sợ hãi thì không nên bắt, chỉ nên dọa bắt thôi). Tôi chỉ buồn. Buồn ngao ngán. Cái tình đồng chí người ta vẫn bảo là thiêng liêng cao cả mà lại đi đến nông nỗi này thì làm sao mà không ngao ngán?

Xong việc khám xét thân thể là việc khám xét đồ lề. Cái balô của tôi mà vợ tôi đã xếp cẩn thận, thứ nào ra thứ ấy cho dễ tìm, bị rũ tung ra đất cùng với đống quần áo tôi vừa cởi ra. Lần sờ từng túi, từng gấu quần gấu áo, từng đường chỉ may. Kiểm kê. Nhét đại tất cả trở lại vào balô. Và giải thích:

- Đồ lề của anh khi nào anh được về chúng tôi sẽ trả lại. Cả hai cái ổ bánh mì chúng tôi cũng sẽ tính tiền trả cho anh. Chúng tôi giữ bánh lại là để bảo vệ anh.

Bảo vệ tôi? Bảo vệ tôi khỏi bị vợ đầu độc thủ tiêu để đi lấy chồng khác, hoặc là đồng bọn của tôi hay tình báo Liên xô đầu độc để bịt đầu mối, hoặc là tôi tự đầu độc để trốn tránh đấu tranh. Không còn cách giải thích nào khác. Chẳng hiểu cái anh chàng thượng úy kia nói thật hay nói đùa?

Và nửa giờ sau, cánh cửa xà lim Hỏa Lò đã đóng sập vào sau lưng tôi, khép lại một quãng đời... Một quãng đời làm sao? Tôi nghĩ mãi một cụm từ để đánh giá quãng đời ấy: lương thiện, lãng mạn, ngây thơ, nhố nhăng, đáng tự hào, không có gì phải xấu hổ v.v...

Cuối cùng tôi chịu và đành đánh dấu ba cái chấm. Vì tất cả đều có, mỗi thứ một tí.

Tôi ở cái xà lim Hỏa Lò này sáu tháng, qua một mùa đông, một mùa xuân và nửa mùa hè, được hưởng mọi sắc thái thời tiết của nó. Mùa đông năm ấy đặc biệt giá rét và mùa hè đặc biệt nóng nực. Có lẽ không phải thời tiết năm ấy đặc biệt, mà là cái xà lim này nó đặc biệt. Không biết cơ chế của nó thế nào mà mùa hè thì nó hầm hập, mùa đông lạnh buốt, còn mùa xuân thì nó ướt dầm dề. Mọi diễn biến thời tiết bên ngoài thấm qua được bức tường dày và kín của nó đã được nhân lên.

Tôi không biết cái nhà tù Hỏa Lò này được xây dựng năm nào. Tôi nghĩ là vào quãng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 gì đó. Và từ khi ta tiếp quản, nó có lẽ được coi là di tích cần được bảo tồn cho nên vẫn nguyên vẹn đó, man rợ, già nua, mốc meo mùi văn minh thực dân cuối thế kỷ 19. Và nếu nó không nằm lù lù giữa thủ đô, nơi bây giờ giá mỗi mét đất lên tới hàng cây vàng, đem bán cho công ty nước ngoài ra khối của, thì có lẽ nó còn cứ nằm lì đó, trơ gan cùng tuế nguyệt, làm người lính lê dương già của nền chuyên chính vô sản. Cơ chế thị trường lợi hại thật! Bày được cả cái nhà xăng tan sừng sững này ra ngoại ô cứ nhẹ như không, chẳng khác gì Ngu Công dời núi. Nhất lại là một cái nhà xăng tan gắn liền với những tên tuổi như Hoàng Văn Thụ.

Nghe nói ngày xưa Tây dùng những xà lim này để giam tù án chém, tù trọng tội. Nó cũng được dùng làm xà lim kỷ luật. Người tù nào phạm kỷ luật của trại cần phải trừng trị thì bị tống vào ca sô. Ca sô chính là những xà lim này.

Bây giờ hình như cũng như vậy: tôi là phản cách mạng, còn anh bạn cùng xà lim là một anh thượng úy can tội bắn chết thủ trưởng.

Tôi không rõ Hỏa Lò có bao nhiêu xà lim, riêng ở khu tôi bị giam thì có tám cái, xếp hàng ngang như tám cái cũi kín mít, mỗi cũi giam hai người. Xà lim ngang dọc mỗi chiều khoảng hai mét, trần bê tông, cao khoảng năm mét để người tù không thể trèo lên được. Giường nằm là hai tấm bê tông xây gắn vào tường chạy hết chiều dọc của xà lim và giữa hai tấm để chừa ra một lối đi rộng khoảng sáu mươi phân. Chiều dài của mỗi tấm như vậy là dài hơn cái giường cá nhân một chút, vì ở cuối mỗi tấm còn có một cái cùm bằng gỗ lim nẹp sắt ăn hết chiều ngang của phản. Cùm có hai thớt khoét hai lỗ để đút hai chân vào. Thớt dưới gắn chặt vào phản, thớt trên có bản lề để đóng mở. Chốt là một thanh sắt tròn, to, xuyên qua tường để khóa từ bên ngoài.

Cửa ra vào rộng bằng đúng cái lối đi còn để lại giữa hai tấm phản bê tông, có cánh gỗ dày, và ở chỗ ngang tầm mắt có khoét một lỗ cửa con vuông mỗi chiều khoảng 15 phân. Cửa đóng ban ngày để người bị giam không nhìn được ra ngoài và ban đêm mở để quản giáo đi tuần tra bên ngoài có thể nhòm vào kiểm soát động tĩnh. Lỗ thông hơi duy nhất là một cửa sổ có chấn song sắt và lưới mắt cáo, kích thước khoảng 40 x 60 phân ở bức tường cuối xà lim, nằm ngang sát trần. Đứng ở dưới đất ngửa cổ nhìn lên thì thấy cái mái ngói chìa ra. Thêm cảnh trời mây thì trèo lên giường sẽ nhìn thấy được một cành bàng, và qua kẽ lá bàng, lốm đốm một màu trời. Cửa sổ ấy hướng bắc cho nên mùa hè thì không có gió, còn mùa đông thì nó như cái phễu hứng gió bấc. Kiến trúc của xà lim thì như vậy, còn trang bị nội thất của nó thì ngoài hai cái cùm tôi nói ở trên, chỉ còn hai cái bô vệ sinh đặt ở dưới gầm phản xi măng để ỉa đái ngay trong phòng giam.

Đã bước chân qua cái cửa xà lim này thì chỉ bước ra mỗi sáng một lần để đổ bô và rửa mặt trong vòng vài ba phút, mỗi tuần một lần để tắm rửa trong mươi lăm phút và những lần gọi đi hỏi cung. Còn lại thì cứ loanh quanh hai người trong bốn cái mét vuông ấy. Trong cuốn Viết Dưới Giá Treo Cổ Juliut Phuxic tả cuộc sống của mình trong xà lim nhà tù phát xít bằng câu chuyện đi bách bộ của ông: bước đi mười hai bước, bước về cũng mười hai bước. Tôi không nhớ con số của Phuxic là mười mấy, chỉ nhớ là trên mười, tôi tạm lấy con số mười hai cho nhỏ. Tôi cũng vậy, bước đi năm bước, bước về cũng năm bước. Cứ thế loay hoay như con chó trong cũi. Chó trong cũi còn nghênh ngáo nhìn được cảnh vật bên ngoài, còn tôi thì có bốn bức tường bưng lấy mắt.

Người bị giam trong các xà lim không được phép tiếp xúc trò chuyện với nhau, thậm chí không được trông thấy nhau, cho nên ra tắm rửa, đổ bô đều ra sân lần lượt từng xà lim một. Mảnh sân nhỏ vài mét vuông cũng có tường và hàng rào sắt vây kín, có cửa sắt để người đứng tắm rửa ngoài sân cũng bị khóa trái. Kiểu tù này hình như xưa kia Pháp gọi là tù cấm cố, bây giờ ta dùng chữ lịch sự hơn: giam biệt lập.

Sở dĩ tôi phải kể lể dài dòng như vậy là vì có ông bạn đại tá đến bây giờ, tức là sau một phần tư thế kỷ, còn hỏi tôi:

- Ông cứ nói là ông bị tù cho nó nặng nề ra, chứ chắc là người ta đưa ông đến một nơi nào đó ngồi đọc sách thoải mái chứ gì.

Phải, tôi được đưa đến một chỗ thoải mái như vậy đấy.

Cai quản dãy xà lim chúng tôi là một ông quản giáo già tên là gì tôi không biết chỉ biết anh em tù báo vụng cho nhau gọi ông ta là lão Giave. Thực ra cũng không thể nói được là lão ác. Trong sáu tháng nằm Hỏa Lò tôi chưa nghe thấy - nghe thôi chứ không thể nhìn thấy cái gì - chưa nghe thấy lão đánh ai bao giờ. Lão chỉ thi hành công vụ của lão một cách thẳng băng, không khoan nhượng mà thôi. Tính cách Giave (Javert) của lão chính là ở chỗ ấy. Lại thêm cái bộ mặt khó đăm đăm và giọng nói không bao giờ ôn tồn làm cho lão thành một con người rất mất cảm tình. Anh em tù khác có sợ lão không tôi không biết, còn tôi thì tôi sợ lão. Bởi mỗi lần cắt tóc cho tôi, đến tiết mục cạo râu, lão không bao giờ dùng dao kéo mà cứ cái tông đơ cùn lão rúc vào mũi tôi. Và vì lão vội, lúc nào cũng thấy lão vội, cho nên lão làm cứ phăng phăng. Tôi giật mình thon thót mỗi lần bị cái tông đơ đứt phựt một sợi ria cứa không đứt.

Lão lại càu nhàu:

- Làm cái gì thế, có muốn đứt mũi không?

Làm cái mả mẹ lão, thế thì bố ai giữ được không giật mình!

Chỉ đến khi lão ưỡn lưng đứng thẳng dậy tôi mới hoàn hồn, yên chí ít ra là đến lúc này cái mũi mình vẫn còn nguyên vẹn.

Nếu còn sống đến bây giờ thì lão phải ngót nghét chín chục. Chắc lão đã về chầu tổ rồi. Cầu trời cho lão an giấc ngàn thu.

Phụ trách hỏi cung tôi là ông Nhuận, họ và cấp bậc là gì tôi không rõ. Ông ta sẽ là người bừa đi bừa lại cho nhão nhuyễn, còn cày vỡ ban đầu chính là cái ông thượng úy xứ Nghệ đã có lòng tốt muốn bảo vệ tôi khi tịch thu bánh mì của tôi. Bây giờ ông ta lại tuyên bố một câu xanh rờn:

- Chúng tôi bắt anh vào đây là để bảo vệ anh.

Tôi xin cám ơn. Nhưng giá ông đừng bảo vệ tôi thì có lẽ tôi thích hơn.

Ông ta tên là Nhiên, nom dáng nông dân hơi đậm đậm, nhưng mặt mũi trắng trẻo, cái trắng trẻo của một người ngồi nhiều ở bàn giấy, và có lẽ kém tôi vài ba tuổi. Một hôm đang hỏi cung tôi, bỗng có tiếng tên lửa rơi nổ gần đâu đó, ông ta đã giật bắn mình, nhảy vội nép vào góc tường. Rồi thấy tôi vẫn ngồi im như thóc, ông ta hơi ngượng, quay trở lại bàn. Chẳng chê cười gì ông ta. Chẳng qua là ông làm một công việc nó không cho ông có dịp được nghe đạn rít mang tai, bom nổ quanh mình, nên không quen mà thôi. Vả lại, ông đang yêu đời, đang được đặt trước một cơ hội thăng tiến hiếm có, ngàn năm có một, còn tôi thì đang muốn chết. Lúc ấy tôi chỉ mong không phải là một mà là mười quả tên lửa rơi cả xuống giữa cái gian phòng này.

Thực ra cái gì cũng là quen cả. Như tôi quen ngồi vắt chân chữ ngũ, một thói quen bị vợ tôi phê bình nhiều lần mà không sửa được. Rồi đến cái tối ngày 24 tháng 12 ấy, ngay cái tối hôm tôi bị bắt, người ta đã điệu tôi đi lấy cung. Tôi được đưa đến một căn phòng rộng, cuối phòng kê một bộ bàn ghế làm việc có ông Nhiên đang ngồi cắm cúi xuống đống giấy tờ. Và trơ vơ giữa phòng là một cái ghế đẩu đặt cách xa bàn vài ba mét, để phân rõ ranh giới giữa hai người ngồi ở hai vị trí ấy. Bởi vì phân rõ ranh giới giữa bạn, thù và ta luôn luôn là tiêu điểm để đánh giá lập trường người cộng sản có kiên định hay không. Tôi đang như chim chích lạc vào rừng, chẳng kịp suy nghĩ gì, nên khi người ta chỉ cho ngồi vào ghế đẩu đó, tôi đã ngồi xuống và như một cái máy, vắt chân chữ ngũ, im lặng chờ. Tôi hiểu là ông Nhiên cố tình cho tôi đợi.

Lát sau, ông ta ngẩng đầu lên, thấy tôi ngồi kiểu ấy, xẵng giọng quát:

- Bỏ chân xuống!

Tôi hơi bị bất ngờ. Tôi chưa quen nghe ai ăn nói với mình kiểu xách mé như vậy. Chắc ông ta muốn bảo tôi: mày hãy quên cái lon thiếu tá của mày đi, bây giờ mày chỉ là một tên phản cách mạng, và ngồi trước mặt mày không phải là một thượng úy mà là người đại diện của chuyên chính vô sản, đừng có láo! Khốn nạn, tôi có định lếu láo gì đâu. Tôi đâu có nghĩ lôi thôi gì. Tôi chỉ quen ngồi vắt chân chữ ngũ mà thôi. Cũng như ông ta không quen nghe đạn nổ vậy. Nhưng cũng từ đó tôi bỏ được cái thói quen thô thiển ấy và học được một thói quen mới văn minh hơn: ngồi ngay ngắn, hai bàn tay xòe ra úp lên hai đầu gối, như các cụ ta ngồi chụp ảnh thờ.

Ông ta muốn trấn áp phủ đầu tôi.

Nhưng tôi nghĩ việc ấy là thừa. Bởi vì khi bước chân lên xe vào Hỏa Lò, tôi đã xác định sẽ trình bày hết sự thật, nói theo ngôn ngữ nhà tù mà lúc ấy tôi chưa thạo là thành khẩn khai báo hết. Tội gì không khai nhỉ! Tôi bị buộc tội là phản cách mạng, mà nếu tôi khai hết thì sẽ rõ ràng không phải như thế. Khai hết tức là chứng minh tôi là thế này chứ không phải thế kia. Khai hết chính là tôi tự bảo vệ vậy. Tôi có thể là bất cứ cái gì, xét lại, giao động, sợ Mỹ, vô tổ chức, vô kỷ luật, hợm hĩnh, hỗn, ngu... cái gì cũng được, nhưng phản cách mạng thì dứt khoát không. Đảng nhầm rồi. Thậm chí tôi còn nghĩ: khi tôi đã làm rõ được vấn đề thì Đảng phải xin lỗi tôi. Ôi anh bạn cả Cò ơi, tôi biết trời sinh ra anh ngớ ngẩn, nhưng không ngờ anh lại ngớ ngẩn đến thế! Nếu muốn, anh có thể đợi. Dẫu sao chờ đợi một điều gì tốt lành cũng là một niềm vui không mất tiền. Đợi cả đời càng được vui lâu.

Vậy là tôi quyết định khai hết, không sót điều gì. Tất nhiên là khai hết về mình. Còn về các anh em khác? Đến đây thì tôi phải tạ ơn trời đã sinh ra tôi không có tính tò mò, thóc mách, không hay thò mũi vào chuyện người khác, nếu không thì lúc này tôi sẽ phải đứng trước một sự lựa chọn khó khăn. Tất nhiên tôi biết rõ quan điểm của họ, vì khi gặp nhau chúng tôi thường chuyện trò về thế sự, hệt như các cụ lão thành bây giờ ngồi với nhau phê phán đủ chuyện vậy. Vả lại những anh em đó đã công khai bảo lưu quan điểm của mình trong thời Nghị Quyết 9, có gì mà phải dấu? Còn như họ có hành động gì không thì, nhờ ơn trời, tôi không biết. Trừ chuyện anh bạn đã quan hệ với thông tấn xã Novôxti (Novosti) như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này. Tôi xin anh bạn thông cảm, tôi không thể không khai ra, có thế tôi mới tự biện minh cho mình được. Vả lại, nếu bạn thấy việc mình làm là đúng và có gan làm thì tôi nghĩ nên có gan nhận.

Chính ý nghĩ rõ ràng và dứt khoát ấy đã làm cho tôi đi vào Hỏa Lò với một thái độ bình tĩnh, tự tin. Trên dọc đường xe đi, tôi ngồi kẹp giữa hai viên thiếu úy đeo sắc-cốt.

Đề nghị anh cho tôi xem tờ lệnh bắt.

Anh ta rút ra đưa và tôi cầm lấy với một vẻ thản nhiên, lướt mắt qua rồi thờ ơ trả lại. Đến lúc này cái tờ giấy ấy chẳng là gì đối với tôi cả.

Và tối hôm ấy, hỏi cung tôi xong, ông Nhiên bảo tôi trở về phòng giam. Tôi bước ra sân thì chẳng thấy ai dẫn mình đi cả. Quay lại thì phòng hỏi cung đã đóng. Trời đã khuya. Sân vắng tanh vắng ngắt. Chờ một lúc vẫn chẳng thấy ai, tôi lững thững qua cái cổng để mở, bước vào sân trong... Cũng vắng tanh. Tù nhân trong mấy san giam tập thể đã ngủ cả. Tôi hơi lạ, đứng giữa sân réo ầm lên:

- Có ai đấy không? Cho tôi về xà lim chứ!

Từ trong bóng tối lão Giave hiện ra. Thì ra là người ta thử tôi, thả lỏng để xem tôi hành động như thế nào, có tìm cách trốn không? Buồn cười thật, tội tình gì mà phải trốn? Và trốn đằng trời!

Thậm chí tôi còn lạc quan. Tôi cho rằng vấn đề của tôi chẳng có gì rắc rối, phức tạp, chỉ cần vài ngày trình bày là sẽ rõ hết, kể thêm thời gian xem xét xác minh nữa thì chỉ vài tuần lễ, cùng lắm vài tháng là xong. Vài tháng nằm Hỏa Lò thì sá gì.

Cho nên khi bước chân vào cái xà lim này, tôi thấy nó cũng chẳng có gì ghê gớm lắm, sống được. Và nhìn cái cùm ở cuối giường thấy lạ lạ, vui vui. Đảng bắt tôi vì tưởng tôi là phản cách mạng, vậy khi đã rõ tôi không phải là phản cách mạng thì tất nhiên Đảng sẽ cho tôi về, đó là ABC của phép lôgích (logic). Chính ông Nhiên đã giải thích cho tôi ngay trong buổi hỏi cung đầu tiên:

Đảng không muốn bắt các anh, nhưng để các anh ở ngoài thì các anh không chịu khai, phải đưa các anh vào đây để các anh khai.

Nghĩa là không phải nắm được chứng cứ rồi mới bắt, mà bắt để tìm chứng cứ trong lời khai.

ít lâu sau, ông Nhuận cũng nói:

- Anh khai xong thì sẽ được về.

Không lời hứa hẹn nào có thể rõ ràng, dễ hiểu và dứt khoát hơn. Làm sao tôi có thể không tin? Đây là Đảng chứ có phải ai đâu mà bảo sợ nói xong rồi nuốt lời? Không những thế, cả hai ông còn nói:

- Đảng không chủ trương giải quyết việc các anh bằng pháp luật mà bằng xử lý nội bộ.

Xưa nay ai cũng hiểu xử lý nội bộ là kiểm điểm, phê bình, cảnh cáo, thi hành kỷ luật các mức, mà mức cao nhất ghi trong điều lệ Đảng là khai trừ. Tôi cũng đã hiểu như vậy.

Xin đừng cho đó là những lời nói vô trách nhiệm của những cán bộ thừa hành. Anh Kiến Giang có kể với tôi rằng ngồi tù hết năm thứ ba, anh đã viết thư cho ông Lê Đức Thọ đề nghị được đưa ra tòa xét xử đàng hoàng để có án và biết mình còn phải ngồi tù bao lâu nữa cho yên tâm. Ông Thọ đã cử ông Thành, vụ trưởng Vụ Bảo Vệ của Ban Tổ Chức Trung ương xuống trại giam Ba Sao gặp Kiến Giang để trả lời:

- Anh Thọ rất quan tâm đến các anh và cứ giục tôi đi trả lời anh. Đấy anh xem, hôm nay mới là mồng bốn Tết mà tôi đã đi gặp anh rồi. Anh Thọ bảo tôi truyền đạt cho anh hai ý kiến. Thứ nhất, đây không phải là vấn đề pháp luật, đây là xử lý nội bộ. Anh có bị tù đâu, anh ở đây học tập, đọc sách. Thứ hai anh ngồi đây cũng là tham gia chống Mỹ cứu nước...

Kiến Giang bị bất ngờ quá, phì cười. Ông Thọ quả là một người thích đùa. Và đùa đến là dai.

ở một nhà nước pháp quyền khi chưa có kết luận của tòa án ghi thành văn bản án là một người có tội thì người đó được coi là vô tội. Luật pháp của ta bây giờ cũng đã thừa nhận điều đó. Nhưng hồi ấy Đảng là luật pháp, hay nói cho đúng hơn, ông Duẩn, ông Thọ là luật pháp. Thêm nữa, ông Thọ lại tuyên bố xử lý nội bộ thì tòa án nào, cơ quan tư pháp nào dám xía vào công việc nội bộ của Đảng? Thực ra có lập tòa án để xử thì kết quả cũng vẫn như vậy. Vì tòa án đâu có xử theo pháp luật, mà xử theo chỉ thị của Đảng. Và cho dù tòa án có xử theo đúng pháp luật đi nữa thì pháp luật ấy cũng lại do Đảng vạch ra theo ý mình, coi như ý trời. Đó là một cái vòng Kim Cô không cho bất cứ ai thoát được nếu đã bị đeo nó vào. Tên gọi hiện đại của cái vòng Kim Cô ấy là chuyên chính vô sản.

Gần đây trong bản thông báo ra ngày 20/3/1994 của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung ương có giải thích rằng sở dĩ không đưa chúng tôi ra tòa mà chỉ xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung cải tạo là do tình hình trong nước và quan hệ quốc tế lúc ấy. Đúng là lúc ấy trong nước đang có chiến tranh và ta đang cần được Liên xô giúp đỡ nên không thể dằn mặt Liên xô đưa ra tòa xử một vụ án chống xét lại được. Nghe thì như có lý. Nhưng không phải. Chỉ là vin vào cớ ấy thôi. Vì nếu không có tình hình ấy thì cách giải quyết cũng vẫn như vậy. Tôi chẳng nói được điều gì mới mẻ khi khẳng định rằng ở Việt nam nói chung tù chính trị không bao giờ được xét xử, toàn là xử lý hành chính bằng biện pháp tập trung giáo dục cải tạo. Thế cho gọn nhẹ, đỡ phiền phức. Trừ trường hợp việc đưa ra xử là nhu cầu của tuyên truyền như trường hợp xử vắng mặt ông Hoàng Văn Hoan, hoặc cực chẳng đã, không thể trốn tránh, không thể đi đêm được. Nếu có thể đi đêm được thì bao giờ cũng đi đêm.

Đầu những năm 1960, nhà văn kiêm biên kịch Hoàng Công Khanh, nhà thơ Phùng Cung, anh Tuân Nguyễn, một cán bộ của Việt nam thông tấn xã đã bị bắt, người thì đi tù sáu năm vì bị coi là có tư tưởng chống Đảng, người thì chín năm vì là tác giả của truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh, người thì tám năm vì mấy bài thơ khóc Dương Bạch Mai mà anh đã làm và ghi vào sổ tay chứ không đăng ở đâu cả. Cả anh Hoàng Công Khanh và anh Tuân Nguyễn đều kể với tôi rằng các anh bị bắt, bị tống giam, rồi mấy năm sau, được thả ra, thế thôi. Không bị thẩm vấn tra hỏi gì cả, và tất nhiên không có luận tội và kết tội. Năm 1979, thượng tướng Chu Văn Tấn, đặc đẳng công thần, người hùng của Cứu Quốc Quân Bắc Sơn, ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Khu Uỷ kiêm chủ tịch khu tự trị Việt Bắc, bị bắt giam vì bị coi là thân Trung quốc và có âm mưu làm phản. Tất cả đều không xét xử. Khi ông Tấn bị bắt, đất nước đã hòa bình. Còn giữa ta và Trung quốc thì đã công khai vạch mặt chỉ trán nhau là kẻ thù nguy hiểm, thậm chí đã kéo ra biên giới bắn giết nhau một trận thoải mái, còn có gì phải giữ ý nữa đâu, vân vân và vân vân...

Chương Kết

Ấy là bây giờ tôi mới nói rành rọt như vậy, chứ đầu óc tôi lúc ấy còn rối rắm lắm. Tới lúc bấy giờ tôi là người đảng viên cộng sản đã hai chục năm có lẻ. Thoạt đầu, vào Đảng là vì người ta bảo vào thì vào. Rồi được cử đi học, cộng với tự học, trở thành một đảng viên có lý luận, tin vào chủ nghĩa, đi giảng dạy chủ nghĩa cho người khác, viết báo cũng viết về chủ nghĩa. Và tự hào về danh hiệu đảng viên cộng sản của mình, danh hiệu cao quý của những con người được tạo nên bằng một chất liệu đặc biệt, như Stalin nói, tự hào về Đảng của mình. Mấy năm bất đồng vừa qua chỉ có thể làm lung lay đôi chút chứ làm sao đã xóa bỏ được niềm tin ấy của tôi. Ngồi trong Hỏa Lò, không lúc nào tôi quên mình là đảng viên cộng sản. Chẳng qua là tôi bị Đảng hiểu lầm do những báo cáo bóp méo sự thật. Vả lại tôi cũng có sai, có những hành động thiếu suy nghĩ đã gây khó khăn cho Đảng trong lúc Đảng đang lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ. Từ những sai lệch ở cả hai phía, quan hệ giữa Đảng và tôi cứ xấu dần đi, rồi đến chỗ tồi tệ như thế này. Đã đến lúc phải tỉnh lại và không để cho nó xấu thêm. Đảng đã nói xử lý nội bộ và khai xong thì sẽ được về có nghĩa là Đảng cũng muốn mở một hướng giải quyết thỏa đáng. Về phần tôi, phải có một thái độ sòng phẳng, bị hiểu lầm thì thanh minh, có sai lầm thì nhận. Và nếu vì thế mà có bị khai trừ chăng nữa thì tôi vẫn là người cộng sản. Không phải đảng viên nhưng vẫn là cộng sản, bằng trí tuệ và tâm huyết của mình.

Nhưng mới hôm trước tuyên bố xử lý nội bộ với tôi thì ngay hôm sau, ông Nhiên đã đưa tôi đi lăn tay và chụp ảnh lập hồ sơ tù. Lăn đủ mười ngón tay và chụp đủ ba kiểu ảnh ngồi thẳng và ngồi nghiêng hai bên. Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên thì ông Nhiên giải thích:

- Đây chỉ là thủ tục.

Xử lý nội bộ sao lại cần đến những thủ tục ấy?

Nhiều chuyện làm tôi phân vân lắm. Một đằng thì tôi tin, rất muốn tin, một đằng thì các sự việc diễn ra cứ ông chẳng bà chuộc, lủng ca lủng củng. Lời nói và việc làm cứ chọi nhau chan chát, buộc tôi phải ngờ. Tin tin, ngờ ngờ, một sự giằng xé thật là khốn khổ và còn lâu mới ngã ngũ được. Nếu là bây giờ thì đã đơn giản quá, khỏi phải đau đầu làm gì.

Người ta bắt tôi, bảo tôi chống Đảng. Thực ra hồi ấy tôi không hề chống Đảng, tôi vẫn bon lắm. Chỉ sau gần mười năm ngồi nghiền ngẫm trong tù và ở nơi quản thúc, ngấm đòn những biện pháp nghiệp vụ của cơ quan an ninh, tôi mới trở thành chống Đảng. Nói đúng ra thì bây giờ tôi cũng chẳng chống Đảng. Tôi chỉ chán Đảng thôi, chán phè.

Đúng như tôi nghĩ, chỉ sau vài ngày hỏi cung, tôi đã khai hết tất cả những chuyện tôi cho là cần phải khai. Khai một cách thoải mái, và đúng sự thật. Và tôi thấy là vấn đề của tôi đã rõ.

Bây giờ nếu phải tường thuật cụ thể với bạn đọc tôi đã khai những gì, tôi cảm thấy ngượng. Không phải ngượng vì sợ bạn đọc chê là thiếu kiên cường. Tôi chưa bị bắt vào nhà tù đế quốc bao giờ, không rõ trong nhà tù đế quốc tôi có kiên cường trước kẻ thù không. Nhưng ở đây tôi không lúc nào nghĩ đến chuyện phải kiên cường trước Đảng. Đảng không phải là kẻ thù của tôi, dù có bất đồng với nhau như thế nào. Nói về những cuộc đấu tranh trong nội bộ những người cộng sản nhiều lúc diễn ra gay gắt dẫn đến bạo lực. étga Moranh trong cuốn Để Bước Ra Khỏi Thế Kỷ 20 đã dùng một khái niệm kép: đồng chí kẻ thù. Không phải vừa là đồng chí vừa là anh em, mà vừa là đồng chí vừa là kẻ thù. Khái niệm ấy thích hợp với ai chứ với tôi thì nó hoàn toàn xa lạ. Cho nên tôi ngượng không phải vì sợ bị chê là thiếu kiên cường trước Đảng, coi như trước một kẻ thù. Tôi ngượng là vì nhiều bạn thấy tôi bị bắt và tù đày như thế tưởng rằng tôi đã làm những chuyện đội đá vá trời ghê gớm lắm. Thực ra chẳng có gì ghê gớm cả. Ngay cả chuyện có vẻ ly kỳ nhất là chuyện tôi làm gián điệp cho Liên xô, cũng lại chỉ là một chuyện tào lao. Bằng cách bắt bỏ tù tôi, người ta đã cho tôi một vòng hào quang mà tôi không có. Thậm chí có bạn đã nói vui là Đảng đã phong thánh cho tôi. Mà tôi thì chỉ là một hòn đất.

Trong thông báo số 2, ông Lê Đức Thọ có nói là anh em chúng tôi đã chống lại đường lối của Đảng trên tất cả các mặt đối nội, đối ngoại. Quả là trên tất cả các vấn đề, chúng tôi đã có những suy nghĩ độc lập, ít hay nhiều, nông hay sâu tùy từng người, nhưng nói chung vẫn không vượt được ra khỏi khuôn khổ của chủ nghĩa Mác Lê nin và sự vận dụng nó vào cách mạng Việt nam. Tôi không nêu cụ thể, sợ làm rườm tai bạn đọc, vì những tư tưởng dị giáo nhất của tôi hồi ấy, nay đều đã trở thành lỗi thời. Cuộc sống đã đi rất xa. Đảng cũng đã đi xa hơn tôi trên con đường... xét lại. Đơn cử: trước kia tôi đâu dám nghĩ đến chuyện thừa nhận quyền tư hữu và chia ruộng đất cho nông dân làm ăn riêng lẻ, chuyện Nhà nước pháp quyền, chuyện làm bạn với tất cả mọi người v.v... nhiều lắm.

Và những suy nghĩ ấy tôi thường trao đổi với một vài anh em hay lui tới nhau, và những cuộc chuyện trò tay đôi, tay ba với nội dung ấy đã bị ông Nhuận quy kết là hoạt động tuyên truyền phản cách mạng, là hình thức sinh hoạt của một tổ chức phản cách mạng. Ông đưa cho tôi tờ báo Nhân Dân có đăng kín trên ba trang bản Sắc Lệnh Trừng Trị Phản Cách Mạng mới được công bố, và chỉ cho tôi chú ý những mục cần phải đọc:

- Anh ngồi đây đọc đi, mục này, nói về tội tuyên truyền phản cách mạng, mục này, nói về hoạt động có tổ chức, và mục này, quan hệ với nước ngoài vì mục đích phản cách mạng. Anh xem đi, và cộng thử xem ngần ấy tội của anh phải bao nhiêu năm tù?

Tôi nhớ đã cộng thành mười lăm, hai mươi năm gì đó. Tôi thực sự không hiểu. Khai xong thì sẽ được về rồi lại phải bao nhiêu năm tù, đâu là thật, đâu là giả?

Cuối năm ngoái, tôi có đi dự một buổi sinh hoạt kỷ niệm, tới nơi, đang khóa xe ở sân thì được nghe câu chuyện giữa hai chị trông xe, chắc là công nhân viên nhà nước ngày chủ nhật đi trông xe kiếm thêm.

Một chị bô bô nói với chị kia:

- Con X... bảo em nó định giới thiệu em vào Đảng. Em bảo nó: xin lỗi chị, khi vào Đảng béo bở các chị chẳng nhớ đến em, bây giờ người ta sắp lôi đảng viên ra hỏi tội, các chị mới bảo em vào, em chả dám.

Chỉ tiếc rằng không có ông Nhuận ở đây mà nghe câu chuyện ấy. Tôi nhớ lời nói báng bổ nhất của tôi hồi ấy chỉ là gọi ông đại tướng Nguyễn Chí Thanh là ông tướng Quảng Lạc. Tất nhiên là tôi không tán thành lời nói ngoa ngoắt của chị trông xe kia. Không ai định lôi đảng viên ra hỏi tội cả, trừ bọn lưu manh côn đồ, bọn mang nặng tư tưởng phục thù, và một số nào đó bọn cơ hội. Tư tưởng cơ hội bị đẩy đến chỗ cùng cực thì không biết thế nào mà lường. Tấm gương cải cách ruộng đất và cách mạng văn hoá Trung quốc còn đó.

Điều tôi không ngờ là cuộc hỏi cung tôi lại kéo rất dài. Tôi khai như thế nào cũng vẫn là chưa rõ, chưa thành khẩn. Người ta đòi hỏi tôi phải khai rõ tất cả những quan hệ của tôi trong mấy năm qua. Tức là trong mấy năm đã gặp những ai, nói chuyện gì (tất nhiên là chỉ những chuyện chính trị), ở đâu, vào ngày tháng nào, phải khai rõ. Người ta muốn rạch hết các đường chỉ quần áo tôi, lộn trái tất cả ra để xem có con rận nào ẩn nấp không. Ba bốn năm trời, tôi gặp gỡ biết bao nhiêu người, nói biết bao nhiêu chuyện. Có những cuộc gặp nhau giữa đường, chuyện trò xong rồi quên đi ngay, chẳng nhớ để bụng làm gì. Nhưng mình ở trong tay người ta, người ta bắt thế thì cũng đành phải cố vắt óc ra mà khai để cho nó xong đi. Khai miệng chán rồi lại viết bản khai. Nhiều khi ngồi cả buổi không viết được chữ nào vì không nhớ ra cái gì để khai cả, người ta lại tưởng là tôi đang đấu tranh tư tưởng nên khai hay nên giấu.

Hãy còn may là tôi không bị bắt phải vẽ sơ đồ tổ chức như một số anh em khác: hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới, ai là thủ lĩnh, ban lãnh đạo gồm những ai, từng cấp do ai phục trách v.v... Có lẽ bắt đến tôi thì người ta đã cảm thấy tất cả những cái đó chỉ là chuyện nhảm nhí. Tuy vậy, tôi vẫn cứ bị coi là chống Đảng có tổ chức, nhưng lại không phải khai về tổ chức.

Có một điều rất khó là những người hỏi cung tôi không chịu đưa ra những chứng cớ cụ thể để buộc tội. Nếu có chứng cớ cụ thể thì tôi còn biết đường mà cãi. Ví dụ, một lần ông Nhiên nói:

- Thằng Đinh Chân có viết một cuốn tiểu thuyết chống Đảng để đưa sang in ở Liên xô, tại sao anh lại giấu giếm cho nó, không chịu khai?

Tôi đáp luôn không chần chừ:

- Nếu Đinh Chân có quan hệ chặt chẽ với Liên xô như thế thì sao anh ta lại phải mò đến nhà tôi mượn những tờ báo Liên xô cũ rích về đọc? Anh ta rất ham đọc sách báo, nhưng là người rất thận trọng dè dặt, tránh đi lại mật thiết với tôi mặc dù tôi là trưởng phòng, trực tiếp phụ trách anh ta. Anh ta thiếu sách báo lắm mới đành đến tôi mượn.

Nghe tôi trả lời, ông Nhiên không gặng hỏi gì thêm nữa. Tôi hiểu ngay ông không có chứng cớ gì mà chỉ bắt nọn tôi. Sau vài ba lần bắt nọn trật chìa như thế, người ta thôi không dùng cách ấy nữa, chỉ một điều: khai chưa hết, còn giấu giếm. Và tôi lại ngồi cắn bút, không phải là một vài ngày, mà mấy tháng trời liền như thế. Khi thấy tôi ngồi mãi không viết được gì thì lại bắt khai lại những điều tôi đã viết ba bốn lần rồi. Chán thì lại khai lý lịch, để rồi độ nửa tháng sau lại khai lý lịch, rồi lại khai lý lịch. Tôi mụ mẫm cả người, đầu nhức như búa bổ, đến nỗi lần khai trước nhớ được tên bố vợ, đến lần sau nghĩ mãi không ra! Lần khác thì quên tên mấy đứa cháu ruột gọi tôi bằng bác, còn ngày sinh tháng đẻ của tôi thì quên tịt hẳn cho đến tận bây giờ, không nhớ chính xác là 26-3 hay 3-3 hay 23-6. Chắc ông Nhuận cho là tôi giở thủ đoạn mụ mẫm, giả vờ quên để che đậy việc tôi giấu giếm tội lỗi. Kệ ông ta, ông ta muốn nghĩ gì thì nghĩ, tôi ớn lắm rồi, không chịu nổi nữa. Tôi đã mất hết tin tưởng, không còn hy vọng cái cuộc này sẽ có ngày kết thúc.

Có một cái tôi tự nhủ phải cố gắng đến cùng là: chuyện gì có mới khai, không bịa ra, cũng như không nhận những chuyện bị gán ép. Còn một cái khác thì nên nhân nhượng, không cãi làm gì, để cho nó xong đi. Tức là ngoài việc bắt tôi cung khai các sự việc ông Nhuận bắt tôi phải phê phán đánh giá, coi đó là những hoạt động phản cách mạng. Tôi nghĩ bụng: được, phê phán thế nào cũng được, chụp cho nó cái mũ gì cũng được, miễn là sự việc chỉ có thế. Sau này nếu có ai nghiên cứu các bản khai của tôi, người ta sẽ chỉ căn cứ vào những sự việc cụ thể, còn mọi sự phê phán đều là vô nghĩa nếu nó không ăn khớp với nội dung sự việc. Tôi ngồi chơi với một anh bạn, nói vụng ông Nguyễn Chí Thanh là ông tướng Quảng Lạc, việc đó gọi là tuyên truyền phản cách mạng thì chỉ làm trò cười.

Đến khoảng tháng 5/1968, các cuộc hỏi cung thưa dần, rồi đến lúc cả tuần, cả nửa tháng không thấy gọi đi nữa. May ra xong rồi chăng? Nhưng sao chẳng thấy kết luận? Bỗng một buổi chiều tháng 6, trời đã xâm xẩm, lão Giave mở cửa xà lim bảo tôi gói ghém quần áo đi theo lão. Ra đến sân ngoài cùng thì thấy một chiếc com măng ca đã chờ sẵn. Niềm hy vọng đã tắt lại le lói trở lại. Nhưng để xem sao đã, chớ vội mừng.

Xe qua cổng, rẽ về phía vườn hoa Cửa Nam. Tôi trố mắt nhìn đường phố. Mới có nửa năm trời mà nhìn các đường phố quen thuộc đã thấy ngỡ ngàng. Phố xá vắng vẻ vì đang thời sơ tán. Một chị phụ nữ dáng gầy gầy đang uể oải đạp xe, một mớ rau muống buộc đằng sau xe. Vợ tôi chắc cũng đang tan tầm, uể oải đạp xe về nhà như chị kia. Chưa chắc. Chồng bị bắt, con cái đi sơ tán, chắc vợ tôi ở lại cơ quan, ăn cơm tập thể.

Xe rẽ vào đường Điện Biên Phủ. Có thể là đưa tôi vào trong thành, theo lối cửa phía Nam, ở đó vài hôm nghe kết luận rồi làm các thủ tục để về? Nhưng qua Bảo Tàng Quân Đội, xe đi thẳng, rẽ vào đường Hoàng Diệu. Hay là vào thành theo lối cửa Bắc? Nhưng tới Phan Đình Phùng, xe rẽ trái về phía Vườn Bách Thảo. Rồi đường Hoàng Hoa Thám, chợ Bưởi, trường Nguyễn ái Quốc, ra đường Sơn Tây, và tăng tốc phóng thẳng. Thế là tôi hiểu.

Đời tôi có hai lần vĩnh biệt Hà Nội. Lần thứ nhất là đầu năm 1947, là phóng viên chiến tranh, sau một tháng lăn lộn với quân dân liên khu I Hà Nội chiến đấu trong vòng vây, tôi một mình bò dọc bãi cát bờ sông rút ra khỏi thành phố bị bao vây, trở về đơn vị. Bò suốt một đêm, tảng sáng tới Quảng Bá, quay lại bâng khuâng nhìn thành phố quê hương còn chìm trong đêm, trong lòng thầm một lời nguyền: mình sẽ trở về. Và tôi đã trở về.

Lần thứ hai là vào cái buổi chiều tháng 6/1968, tôi ra đi trên chiếc xe com măng ca chở tù này. Đi đâu, không rõ. Đi làm gì, không rõ. Có ngày về không, không rõ. Vô định. Một cái vô định to tướng.

Xe đi một mình lầm lũi trong đêm.

- Anh hãy khai thành phần cái chính phủ mà các anh định thành lập gồm những ai?

- Tôi chẳng định thành lập chính phủ nào cả.

- Anh không định nhưng có kẻ định, anh phải biết chứ.

- Tôi không hề biết danh sách chính phủ nào ngoài chính phủ Hồ Chí Minh.

- Anh vận động cho ai lên nắm quyền lãnh đạo đất nước?

- Tôi chẳng vận động cho ai cả, và tôi vận động như thế nào được.

- Nếu anh không vận động thì ít nhất anh cũng phải có ý nghĩ là ai lên lãnh đạo thay anh Duẩn thì tốt hơn chứ. ý nghĩ thôi cũng được, anh cứ khai ra.

à, ý nghĩ thì tôi có. Tôi nghĩ rằng nếu ở một Đại hội nào đó anh Văn được đa số bầu lên làm tổng bí thư thì tốt. Tôi cho là anh Văn làm tổng bí thư thì hay hơn anh Duẩn. Nhưng cái đó là do Đại Hội quyết định.

Đó là ở Bất Bạt, trại giam quân sự Trung ương, nơi tôi được đưa từ Hỏa Lò đến đêm hôm ấy. Tôi lại bị đưa vào xà lim biệt lập, và một tuần lễ không thấy gọi đến mình, tôi cứ tưởng việc khai cung của mình đã xong và bắt đầu thời kỳ nằm chờ.

Nhưng sau tuần lễ ấy, tôi lại bị gọi đi hỏi cung, và bài ca lại tiếp tục. Từ đây, tất cả các cuộc hỏi cung đều do ông Nhuận tiến hành. Vòng vo một số buổi, rồi dần dần lộ rõ ý đồ của ông: đi tìm một âm mưu lật đổ. Rồi dần dần xoáy vào một điểm:

- Trong lần gặp ấy, Hoàng Minh Chính đã chỉ thị cho anh hoạt động những gì ở trong quân đội?

Hoặc rõ hơn:

- Trong lần gặp ấy Hoàng Minh Chính đã truyền đạt cho anh những chỉ thị gì của Liên xô về hoạt động trong quân đội?

Về sau này bình tĩnh nghĩ lại tôi mới hiểu: mấy tháng hỏi cung ở Hỏa Lò mới chỉ là khai vỡ. Sau khi thu thập các lời khai của tôi, đem đối chiếu với lời khai của các anh em khác, nghiên cứu tìm ra chỗ nào là chỗ khả nghi nhất và đồng thời cũng là quan trọng nhất, người ta mới tập trung vào đó đánh một đòn quyết định để từ đó làm cho các vấn đề tung tóe ra.

Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến ngày tôi bị bắt cuối tháng 12/1967 tôi đã gặp anh Hoàng Minh Chính tổng cộng ba lần (nếu không tính một đôi lần trước đó, chúng tôi gặp nhau trong hội nghị triết học, khi ấy chúng tôi chỉ mới biết nhau sơ sơ nên chỉ chào hỏi xã giao)

1. Lần thứ nhất là vào giữa năm 1965, một buổi tối tôi đi dự cuộc họp phụ huynh học sinh trường nhạc, nơi con gái tôi đang học. Đến nơi thì thấy anh Hoàng Minh Chính cũng tới dự và lúc ấy tôi mới biết anh cũng có một đứa con gái học nhạc. Tôi kể rõ như vậy để nói rằng lần ấy chúng tôi gặp nhau là hoàn toàn tình cờ. Trong cuộc họp, Chính ngồi một góc phòng, tôi một góc khác. Họp xong gặp nhau ở chỗ lấy xe đạp, tôi hỏi thăm anh ở phố nào? Phố Lý Thường Kiệt. ồ, tôi ở Bà Triệu, vậy ta về cùng đường. Thế là chúng tôi đạp xe sóng đôi. Thời gian ấy Cách mạng văn hoá Trung quốc đang rầm rộ, cho nên chúng tôi cũng nói chuyện Cách mạng văn hoá Trung quốc. Đến ngã tư Lý Thường Kiệt, chuyện đang sôi nổi, anh Chính đi quá một quãng nữa tới ngã tư Nguyễn Du. Lần đầu tiên chuyện trò với Chính, bắt anh đi thêm nữa e không tiện, mà tôi thì muốn nghe nốt cho nên đã rủ anh ngồi xuống tấm ghế đá bờ hồ Thiền Quang. Đang ngồi thì có một người đến xin lửa châm thuốc lá. Chính nói: Cớm đấy. Tôi đáp: Kệ họ. Nói vậy chứ trong bụng cũng hơi ngại, tôi ngồi nán lại một lát, rồi ra về. Từ đó coi như tôi và anh Hoàng Minh Chính bắt đầu quen nhau.

2. Lần thứ hai là vào khoảng đầu năm 1966: một hôm anh Phùng Văn Mỹ, cán bộ viện triết, đến chơi tôi và bảo:

- Sáng mai, Chính đến chơi nhà mình, Thư đến chơi cho vui. Hôm ấy ba chúng tôi chuyện trò linh tinh mười lăm phút, chuyện gì quả thực tôi cũng không nhớ, chắc là chỉ có nói chuyện thời sự, và chuyện trò trước sự có mặt của vợ con anh Mỹ, vì nhà anh Mỹ chỉ có một buồng.

3. Lần thứ ba là tháng 11 năm 1966, cũng anh Phùng Văn Mỹ đến rủ tôi:

- Sáng mai, Chính tổ chức liên hoan kẹo bánh kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười, có mấy anh em đến dự, Thư cùng đến cho vui. Thú thật là từ ngày ngồi nói chuyện với anh Hoàng Minh Chính ở ghế đá bờ hồ Thiền Quang bị công an đến nhòm mặt, tôi không muốn đi lại dập dìu với anh để tránh những chuyện phức tạp, nhất là sau đó chính bản thân tôi cũng bị bám sát theo dõi. Nhưng từ chối không tiện, tính tôi cả nể, vả lại ngồi nhà một mình mãi cũng buồn, muốn đến chơi gặp anh em cho vui, nên tôi nhận. Hôm ấy hoàn toàn là một buổi liên hoan ăn uống vui vẻ, nói năng xô bồ. Có anh quá chén đã nôn ọe ra nhà và phải nằm lại cho rã rượu. Tôi kể như vậy để nói rằng trong không khí như thế thì không ai lại bàn bạc chuyện lật đổ cả.

Về hai lần gặp gỡ sau giữa tôi và Chính, ông Nhuận không hề gợi đến, thậm chí tôi khai thì ông ta gạt đi:

- Không cần, những đứa khác đã khai rõ cả rồi. Hôm ấy thằng Lộc nôn ọe ra nhà chứ gì? Tôi hỏi anh về cái lần này kia.

Tức là cái lần thứ nhất, lần tôi gặp anh Chính ở cuộc họp trường nhạc. Quả thật, hai lần kia thì có đông người, và nhà Chính chắc có gài máy ghi âm, cho nên ông Nhuận đã có đủ tài liệu để kết luận. Còn lần tôi đi họp về với Chính thì chỉ có hai chúng tôi, hai cái xe đạp và cái ghế đá. Ông Nhuận cho rằng giữa tôi và Chính nhất định phải có cái gì, và cái gì ấy chỉ có thể ở cái cuộc họp ghế đá kia mà thôi. Ông ta nói:

- Các anh là những người có kinh nghiệm hoạt động bí mật, bố trí khéo lắm.

Nghĩa là bố trí gặp nhau nhưng bề ngoài lại có vẻ như tình cờ gặp nhau, rồi lại bàn bạc trong khi đi rong trên đường và ngồi ghế đá, không có một người thứ ba chứng kiến. Rõ ràng là tuân thủ chặt chẽ các quy tắc của hoạt động bí mật. Chà, giá mà ở gầm hai cái yên xe đạp của chúng tôi và ở tất cả các ghế đá vườn hoa Hà nội đều có gài máy ghi âm thì đỡ cho tôi biết mấy. Ông ta không thể tin được rằng chúng tôi mất công bố trí một cuộc gặp như thế lại chỉ để nói chuyện Cách mạng văn hoá. Ông ta đập bàn:

- Thằng Chính nhận rồi, sao anh không chịu nhận?

- Vậy tôi đề nghị được đối chất với Hoàng Minh Chính.

Tôi thừa hiểu là ông ta bắt nọn và không dám cho chúng tôi đối chất đâu. Và đúng vậy, ông ta đã lờ đi, không trả lời đề nghị của tôi.

Tiện đây cũng xin nói thêm là đối với ông Nhuận, tất cả chúng tôi đều là thằng, thằng Đặng Kim Giang, thằng Hoàng Minh Chính, bất kể tuổi tác như thế nào và dù anh đã từng là một vị tướng trong Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch Điện Biên Phủ.

Hỏi cung tôi ông ta còn nể mặt, gọi tôi bằng anh nhưng khi hỏi cung người khác nếu ông có nhắc đến tôi thì chắc chắn tôi cũng chỉ là thằng Trần Thư mà thôi.

- Tất cả những lời anh thóa mạ Đảng, thóa mạ các đồng chí lãnh đạo, tôi không quan tâm. Cả những lời anh chửi Trung quốc cũng vậy. Anh chửi ông Trung quốc thì để ông ấy sẽ trị tội anh. Còn tôi, tôi quan tâm chuyện này cơ. Cho tới nay anh toàn khai những chuyện linh tinh, còn chuyện quan trọng nhất anh lại che giấu, không chịu khai.

- Thật đáng tiếc là chuyện ấy không có. Không có thì khai làm sao được? Giá nó có để tôi khai cho xong đi thì tốt quá!

Rồi một hôm, ông ta nói:

- Anh cứ suy nghĩ cho kỹ đi, tôi đợi. Đợi bao nhiêu lâu cũng được, tùy anh.

Nói xong, ông ta ngả lưng ra ghế, hai tay đặt dài lên bàn, hai chân ruỗi thẳng trong một tư thế ngồi đợi thoải mái.

Và ngay chiều hôm ấy tôi bị chuyển vào giam ở phòng tối.

Phòng tối là một xà lim biệt lập như các xà lim biệt lập khác của trại, chỉ khác là nó kín như bưng. Phòng cũng có một cửa sổ có chấn song sắt, nhưng cánh cửa bằng ván đóng im ỉm suốt ngày đêm. Hơn nữa các khe hở do ván co đều được đóng thêm nẹp gỗ bịt lại cho kín. Chỉ khi nào ngoài trời có nắng thì trong phòng mới sáng mờ mờ do có ánh sáng lọt qua khe khung cửa. Còn sáng dậy đi vệ sinh phải lấy chân dò dẫm để tìm cái thùng để ở góc phòng, không dám sờ soạng bằng tay, sợ vô phúc thọc vào giữa thùng thì khốn, vì thùng không có nắp đậy. Có những buổi râm trời, ăn cơm, và vào mồm mới biết là người ta cho mình ăn gì. Chuột và gián tưởng ngày là đêm, cứ bò đi bò lại thoải mái. Có lần cầm bát cơm đưa lên mồm thì có con gián ở trong bát bay vọt ra.

Phòng xây trên đồi trọc, lại đang giữa mùa tháng tám nắng rám trái bưởi, cho nên từ xế trưa đến tận nửa đêm, trong phòng nóng om ngột ngạt. Không tài nào ngủ được, thậm chí không nằm được, vì ván giường nóng hổi tưởng chừng như đổ nước vào thì sẽ bốc khói. Tôi cứ cởi truồng ngồi quạt cho đến mấy giờ không rõ, chỉ biết là rất khuya. Rồi quạt mãi cũng chỉ là khua lên một bầu không khí ngột ngạt nồng nặc mùi nước tiểu bốc ra từ thùng vệ sinh bị hâm nóng.

Và tôi đã nghĩ ra một kế: nửa đêm ngồi bên cửa sổ, lấy móng tay cào sồn sột vào chấn song gây tiếng động như cưa chấn song. Quả nhiên người lính gác đi qua, nghe thấy tiếng động, sinh nghi, mở cửa sổ chiếu đèn pin vào kiểm soát. Tranh thủ khoảng khắc quý giá đó, tôi quạt thốc quạt tháo lùa khí mát bên ngoài vào phòng. Tỉnh người. Tôi làm như thế được hai đêm. Đêm thứ nhất, anh lính gác hiểu ý để cửa mở vài phút cho tôi quạt. Đêm thứ hai, một anh lính gác khác mở ra rồi đóng sập vào ngay. Có thể là anh ta ác, nhưng cũng có thể chỉ là vì cửa mở ra thì một luồng không khí hôi thối ở trong phòng ùa ra theo phả vào mặt anh ta, anh ta không chịu nổi. Từ sau đó, tôi cào mấy họ cũng mặc.

Lại phải nghĩ kế khác. Dưới gậm giường có một hố tránh bom. Nửa đêm tôi chui xuống, đấm bình bịch vào thành hố làm như đào ngạch. Lần này anh lính gác buộc phải mở cửa nhìn vào, và soi đèn pin một lúc mới phát hiện được ra tôi ở dưới hố. Anh ta hỏi tôi xuống đấy làm gì. Tôi đáp: nóng quá, chui xuống cho mát. Ngần ấy thời gian là đủ cho tôi rồi. Đêm hôm sau không dám làm nữa, vì chợt nghĩ ra dưới hố có thể có rắn rết. Một lần ở phòng giam cũ của tôi đã có một con rết to bằng ngón tay cái, dài đến hai gang tay, chui ra từ cái hố gầm giường cũng như cái hố này, bò lên tường ngoằn ngoèo như con rắn, tôi đã lấy dép cao su đập chết và anh lính gác đã xách về ngâm rượu.

Cuối cùng, chẳng còn cách nào khác là nằm xấp xuống đất, ghé mũi vào chân cửa ra vào, vừa là để hít lấy chút không khí trong lành bên ngoài, vừa là hưởng cái hơi mát của đất.

Quá nửa đêm, trong phòng dịu bớt, đã có thể nằm được thì bắt đầu cuộc chiến đấu với muỗi. Muỗi lao xuống đậu phịch lên cái thân thể trần truồng của tôi, đậu đâu biết đấy. Chỉ còn có việc nhẹ nhàng đưa tay tới gần, rồi đập mạnh. Bách phát bách trúng. Diệt được khoảng dăm sáu chục con như thế thì ngủ thiếp đi, làm mồi cho muỗi đến sáng. Và buổi sáng lại nằm lơ mơ ngủ tiếp cái giấc ngủ không đã của ban đêm, hoặc nằm vắt tay lên trán nghĩ, nghĩ, nghĩ về cái thân tội thân nợ của mình.

Và cứ thế, vài ba ngày một lần ông Nhuận lại cho gọi tôi lên hỏi cung. Bước qua cửa phòng giam, đứng lại một tí cho hết lóa mắt, tôi bước theo viên quản giáo qua ba bốn lần cửa của khu giam biệt lập đi một quãng xa sang đồi bên là nơi hỏi cung. Đó là những giây phút sung sướng hiếm hoi của tôi. Trong khoảnh khắc tôi được sống lại cuộc sống người: ngẩng đầu lên là trời, chân đạp xuống là đất, nhìn quanh xa xa là người. Không phải những con người đang thực thi chuyên chính vô sản mà những con người bình thường đang bận rộn những công việc bình thường của một cuộc sống bình thường, cuộc sống mà tôi đã mất. Chà, sao mà tôi thèm người thế, người nói chung chứ không phải đàn bà. Bao lâu nay tôi sống như một con chó sói cô độc nằm một mình trong hang nhớ cuộc sống bầy đàn. Tôi bước đi tung tăng. Niềm vui đơn sơ. Và niềm vui ngắn ngủi.

Chỉ vài phút sau, trước mắt tôi đã là cái bàn, mấy tờ giấy trắng, cái bút, và đối diện là ông Nhuận với câu hỏi búa bổ kia. Hai bàn tay tôi đặt lên bàn, da nom trắng nõn như trứng gà bóc, nổi rõ từng đường gân xanh đỏ. Và vài ba giờ sau người ta lại dẫn tôi trả về phòng tối. Tôi lại đi ngược trở lại quãng đường tôi đã đi lúc sáng. Vẫn cảnh ấy, trời mây, cây cỏ, và người. Nhưng nguồn cảm hứng lúc sáng đã tắt ngấm. Tôi bước đi, trong lòng nửa muốn sống để về với vợ con, nửa muốn chết cho xong nợ đời.

Ông Nhuận bảo ông ta đợi bao lâu cũng được. Ông ta đợi thì thoải mái quá: ngồi mát đọc tài liệu, rỗi rãi thì đi bắn chim, chủ nhật nhảy xe com măng ca về Hà Nội với vợ con. Còn tôi thì nằm đếm từng ngày từng giờ trong cái phòng tối này.

Tường của phòng tối là tường cách âm, vẩy lổn nhổn những cục xi măng vữa. ánh sáng lọt qua khe cửa phản chiếu lên tường làm nổi lên những hình thù kỳ quái: hai cái vú đàn bà thỗn thện, một kỵ sĩ không đầu cầm đao, cưỡi con ngựa chỉ có hai chân sau, một bộ mặt nhăn nhó rất khó coi... Tôi nằm lơ mơ trong cái không khí nửa thật nửa ảo ấy. Còn tôi, cái gì là ảo, cái gì là thật? Những mảnh đời quá khứ của tôi là ảo, lúc hiện ra, lúc tan đi. Vợ con tôi là ảo, những trận chiến đấu, sông Luộc, Đường Số 5 là ảo. Cái có thực là cái thân tàn ma dại của tôi nằm đây. Chín tháng rồi còn gì! Chín tháng xà lim, chín tháng hỏi cung, chín tháng cơm tù (mà lại là cơm tù thời chiến), và bây giờ, cái phòng tối này. Tôi sờ nắn thân thể gày gò của mình, thử đánh giá xem trên con đường lịch sử tiến hóa nhân loại, từ vượn đến người, từ Homo Sapiens đến con người hiện đại, cái tòa thiên nhiên.

Tôi đang đứng ở quãng nào.

Sờ cẳng: hai ống tre. Sờ ngực: cái thùng bẹp toàn những đai. Sờ bụng: lép kẹp. Sờ chim: rũ rù rù, như cờ rũ, không làm thế nào cho nó hăng hái lên được, nó không còn một tí tinh thần cách mạng tiến công nào.

Ông Nhuận thách thi gan với tôi, nhưng cuộc thi quả thật là không công bằng.

Hồi ở nhà tù Hỏa Lò, tôi đã nghe thấy từ một xà lim ở cuối dãy một cuộc đối thoại như thế này giữa một người tù ở trong xà lim nói ra và một nữ quản giáo ở bên ngoài nói vào.

Tiếng đàn ông rên rĩ:

- Con lạy bà, xin bà tháo cùm cho con. Mấy tháng trời rồi! Chân con toét hết.

Tiếng đàn bà đáp dấm dằn:

- Tháo cùm cho anh để đút chân tôi vào à? Ai bảo có tội không chịu khai?

Lại tiếng rền rĩ:

- Bẩm bà, con không có tội, biết khai thế nào?

Câu chuyện tội tình kia thực hư thế nào, tôi không biết. Chỉ biết rằng như vậy là người ta có thể cùm một người trong xà lim mấy tháng trời vì cho là anh ta có tội mà không chịu nhận. Nhưng nếu có chứng cứ rành rành thì anh tù kia chối làm sao được? Và dù cho anh ta không nhận thì tòa vẫn có thể xử và kết án được kia mà. Vậy là không có chứng cứ. Hệt như trường hợp của tôi. Đối với tôi người ta chỉ mới sử dụng đến cái phòng tối này. Nếu cái phòng tối này cũng không xong thì sẽ có cái gì nữa?

Tôi không hề lên gân, chỉ tự nhủ phải cố gắng giữ mình lương thiện, không được tố điêu. Nhưng xem ra thì giữ được mình lương thiện cũng không phải chuyện đơn giản. Rồi một ý nghĩ thỉnh thoảng lại thoáng hiện, xua không đi, như một ám ảnh: nếu phải nhận mới xong được thì sao không nhận quách đi cho nó xong, kéo dài mãi như thế này để mình phát điên hay sao? Dẫu sao mình cũng không chịu trách nhiệm, mình bị ép buộc. Mà đằng nào thì cũng ngồi tù. Câu Khai xong thì sẽ được về bây giờ thì đã quá rõ chỉ là một biện pháp nghiệp vụ lừa mình để mình khai ra mà thôi. Nhưng nhận thì nhận cái gì bây giờ? Đâu phải chỉ là nói: vâng, tôi có tội. Phải dựng đứng lên cả một câu chuyện có đầu có đuôi, nghe hợp lý và thỏa mãn được điều mà người ta đòi hỏi ở tôi. Câu chuyện mà lủng củng thì người ta càng truy ác liệt hơn, càng chết. Từ thuở tôi còn bé, ông cụ tôi vẫn bảo là tôi không biết nói dối, nói dối nó cứ lò ra mặt. Thật là lương thiện cũng khó, mà bất lương cũng chẳng dễ gì hơn.

Tôi do dự mãi. Bây giờ nhắc lại chuyện này, tôi vô tình nghĩ đến câu của ông Giáp trả lời phỏng vấn về chuyện kéo pháo ra ở Điện Biên Phủ: De ma vie, c est de décision des plus difficiles. Câu ấy ghép vào tôi sao nó vừa hợp vừa nghịch cảnh đến thế.

Rồi một hôm, đến lần hỏi cung thứ một trăm bao nhiêu đó, đáp lại câu vào đầu thường lệ của ông Nhuận: Nghĩ kỹ chưa? Có chịu khai không? tôi ngậm ngùi đáp.

- Tôi xin khai.

Ông Nhuận giật mình, lật đật mở sổ tay, vớ vội cái bút, nom hồi hộp ra mặt. Rõ ràng là ông ta mừng đến phát cuống lên: ép bao nhiêu lâu, bây giờ mới làm phọt được ruột gan tôi ra.

- Khai đi!

Tôi nói chậm rãi, dứt từng đoạn một:

- Trong lần ấy Hoàng Minh Chính bảo tôi gặp sư trưởng X... dặn anh ta cố gắng nắm lấy một trung đoàn trưởng và vài ba cán bộ tiểu đoàn, nên có cán bộ xe tăng...

Nói đến đây họng tôi tắc lại. Tôi dừng lại một lúc nghỉ. Ông Nhuận ghi chép lia lịa. Tôi nói tiếp:

- ... và chuẩn bị sẵn sàng... để khi cần...

Tôi chịu không nổi nữa, nước mắt tự nó trào ra ràn rụa. Tôi cảm thấy nhục, ngồi im một lát, mặt cúi gằm. Rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt ông Nhuận, tuyệt vọng nói:

- Không phải đâu anh Nhuận ạ, tất cả là tôi bịa.

Rồi gục xuống bàn khóc những giọt nước mắt cay đắng nhất của đời tôi.

Một lúc sau tôi nghe thấy ông Nhuận cáu kỉnh bảo anh thư ký:

- Gọi quản giáo bảo đưa anh ta về!

Về tới phòng tối, tôi nằm vật xuống giường, mệt lử.

Hai hôm sau, cánh cửa phòng tối từ từ mở. Quản giáo hất hàm lệnh cho tôi đi ra, mang theo quần áo.

- Đi đâu? Người ta định làm gì tôi? ở trại Bất Bạt này, còn nơi giam nào khổ ải hơn cái phòng tối này nữa hay sao?

Quản giáo dẫn tôi đi loanh quanh qua mấy lần cửa, đưa tôi trở về xà lim cũ có ánh sáng, có cửa sổ gió mát, nơi tôi bị giam trước khi bị đưa vào phòng tối.

Tôi đã liều, không ngờ lại thoát được bế tắc một cách dễ dàng thế. Suy đi tính lại mãi tôi đã chọn phương án: tố đại lên, tố những chuyện động trời, đặt ông Nhuận trước bờ vực của một vụ Hát xăng vanh đơ mới thì may ra mới làm cho ông ta chùn tay được. Còn nếu ông ta không chùn tay mà cứ làm tới thì sao? Thì một liều ba bảy cũng liều.

Ông Nhuận đã chùn tay. Xin đừng hiểu là trong cuộc đấu trí cuối cùng với ông Nhuận, tôi đã chuyển bại thành thắng. Không có đấu trí nào cả. Tôi chẳng qua chỉ là chó cùng dứt dậu. Trước kết cục ấy lẽ ra tôi phải phấn khởi lắm, nhưng tôi dửng dưng. Trong tôi có một cái gì như đã đứt.

Tôi muốn nói thêm rằng tôi không hề thù oán ông Nhuận. Ông ta chỉ là chiếc đinh vít của cỗ máy nghiền... Tôi chỉ thấy ngán ông ta thôi, ngán đến tận cổ. Tôi cũng mong cho ông ta sẽ không bao giờ phải lâm vào cảnh như tôi.

Đang viết dở đến đây thì tôi nhận được bản sao một bức thư như sau, xin ghi nguyên văn để bạn đọc xem:

Nguyễn Trung Thành

Hà Nội, ngày 3 tháng 2 năm 1995

Kính gửi:

- Đồng chí Tổng Bí Thư.

- Các đồng chí trong Bộ Chính Trị và Ban Bí Thư.

- Các cố vấn Ban Chấp Hành Trung ương,

- Các đồng chí trong Ban Kiểm Tra Trung ương.

- Các đồng chí Trưởng Ban Tổ Chức Trung ương

- Ban Nội Chính Tư, Ban Bảo Vệ Chính Trị Nội Bộ.

- Các đồng chí Viện Trưởng Viện Kiểm Soát Tối Cao, Chánh án Tòa án Tối Cao.

Đề nghị: Cứu 32 đảng viên bị xử trí oan khuất gần 30 năm nay trong cái gọi là Vụ án Tổ chức chống Đảng, chống Nhà Nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài.

1. Tôi, Nguyễn Trung Thành, nguyên là cán bộ thuộc Ban Tổ Chức Trung ương (1951-1988) nguyên là Vụ Trưởng Vụ Bảo Vệ Đảng (1962-1988), nguyên là ủy viên thường trực Tiểu Ban Bảo Vệ Trung ương (1977-1979) và chuyên viên giúp Ban Tổ Chức Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nay đã về hưu, được xếp chuyên viên 9.

Tôi đã có tham gia các công tác sau đây:

_ Giúp phát hiện và sửa chữa những sai lầm trong chỉnh đốn tổ chức, cải cách ruộng đất đợt 4 và đợt 5 (1955-1956).

_ Giúp Trung ương xem xét về mặt chính trị của cán bộ dự kiến bầu vào trung ương ở các kỳ Đại Hội III, IV, V, VI và kiện toàn bộ máy các cơ quan Nhà Nước.

_ Giúp thẩm tra 10 cán bộ cấp cao có nghi vấn về chính trị.

_ Góp phần và trực tiếp phát hiện và giải quyết một số vụ án sai, bắt oan nhiều cán bộ, Đảng viên vô tội.

2. Từ năm 1963, tôi được phân công giúp việc cho Ban Bí Thư, Ban Tổ Chức Trung ương, theo dõi và làm một phần trong vụ án nói trên trong nhiều năm với sự phối hợp của các đồng chí: Trần Hữu Đắc (Uỷ Ban Kiểm Tra Trung ương, Trần Quyết, Cục Trưởng, Hoàng Thao, Phó Cục Trưởng và các cán bộ thuộc Bộ Công An nay là Bộ Nội Vụ, Kinh Chi, Cục Trưởng (Tổng Cục Chính Trị).

Trong hàng chục năm trước đây, do chỗ chỉ được biết từng bộ phận riêng lẻ của tài liệu, nên tôi vẫn tin rằng các kết luận của Bộ Chính Trị và của Trung ương đối với vụ án là đúng đắn và chính xác.

3. Gần đây do có nhiều đơn khiếu nại liên tục của những người bị xử trí và thân nhân trong vụ án, do có thư đề nghị của nhiều cán bộ đảng viên, và theo chỉ thị của trên, đồng chí Nguyễn Đình Hương, Trưởng Ban Bảo Vệ Chính Trị Nội Bộ có giao cho tôi nắm lại toàn bộ vụ án để báo cáo với Ban Bí Thư Trung ương . Trong hơn một năm qua, tôi có điều kiện và đầy đủ thời gian nghiên cứu lại toàn bộ các hồ sơ tài liệu của vụ án, đi sâu phân tích các tài liệu, so sánh đối chiếu các tài liệu điều tra, các lời khai cung, các biên bản những cuộc họp của Ban Chỉ Đạo vụ án, các đơn khiếu nại trước và nay v.v...

4. Qua nghiên cứu lại một cách tỉ mỉ, nghiêm túc và thận trọng, tôi nhận thấy một cách có căn cứ rằng Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng trước đây khi kết luận về vụ án đã tin vào những báo cáo của Ban Chỉ Đạo vụ án. Những báo cáo đó đã không dựa vững chắc trên những cơ sở khách quan có thực, mà chỉ dựa vào một số lời khai (bản thân những lời khai này có nhiều mâu thuẫn giữa người này với người khác, và giữa lời khai trước và sau của cùng một người) mà không được xác minh cẩn thận. Hơn nữa lời khai của các can phạm khi đang bị công an bắt giữ không có giá trị pháp lý đích thực. Ngay lúc công bố kỷ luật có người đã chối, không công nhận kết luận. Sau này hầu hết bọn họ và thân nhân đều khiếu oan. Do báo cáo của ban chỉ đạo thiếu những cơ sở chứng cứ, nên các kết luận của Bộ Chính Trị và của Trung ương đều thiếu căn cứ xác thực.

5. Từ việc phân tích, đối chiếu các tài liệu điều tra và các bản khai cung, rõ ràng không thể quy cho những người bị bắt về những tội chống Đảng, chống Nhà Nước, có tổ chức, có cương lĩnh, cung cấp tình báo cho nước ngoài v.v... Nhiều đồng chí bị bắt đã phạm một số sai lầm so với những quy định trong Điều Lệ Đảng, nhưng họ không phạm tội so với những điều khoản pháp luật.

Trong những người bị xử trí, phần lớn là cán bộ cao cấp, trung cấp (bốn ủy viên trung ương, một thiếu tướng thứ trưởng, bốn vụ trưởng, ba đại tá). Một số là cán bộ hoạt động trước Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, đã bị thực dân Pháp bắt và cầm tù nhiều năm.

6. Với sự thôi thúc của lương tâm hàng ngày hàng giờ bị cắn rứt, tôi cho rằng vấn đề cấp bách hàng đầu hiện nay là phải khẩn thiết giải oan cho những đồng chí đã bị bắt và bị xử trí oan.

Điều đó chỉ có lợi cho uy tín của Đảng, cho sự đoàn kết trong và ngoài Đảng, cho sự ổn định chính trị hiện nay. Đảng ta chính đại quang minh đã từng thừa nhận khuyết điểm trước toàn dân, đã sửa chữa nhiều vụ án bắt oan sai và qua đó đã vững mạnh lên.

7. Các vấn đề cấp bách thuộc quyền lợi cần giải quyết ngay cho số đồng chí bị bắt và xử trí oan là:

- Xếp một mức lương thỏa đáng với từng trường hợp làm căn cứ định lương hưu, và được truy lĩnh từ tháng 1 năm 1994.

- Với những người đã tham gia cách mạng trước tháng 12/1944, được hưởng chế độ ưu đãi, thâm niên hiện hành, thâm niên quân đội.

- Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể cấp một khoản trợ cấp đền bù.

- Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể hoặc cấp nhà, hoặc bổ sung diện tích, hoặc giúp cơi nới cải tạo nơi ở.

- Được hưởng chế độ khen thưởng tương ứng.

- Hòa nhập vào sinh hoạt các Hội, Đoàn tương ứng (nhà tù, hưu trí, câu lạc bộ, hội cựu chiến binh v.v...)

8. Để xác định lại những nhận xét trên đây của tôi, và cũng để thẩm tra lại toàn bộ công việc điều tra và xử lý vụ án trước đây, tôi đề nghị với Bộ Chính Trị cho lập ra một ban thẩm tra vụ án nói trên qua đó rút ra những bài học cho Đảng ta sau này. Tôi xin sẵn sàng phục vụ vô điều kiện. Với lòng trung thực, với ý thức trách nhiệm đối với việc bảo vệ Đảng và bảo vệ sinh mệnh chính trị của đảng viên, tôi tha thiết kính mong Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư có những quyết định dứt khoát để sớm cứu các đồng chí bị xử trí oan trước lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Bác Hồ và 50 năm Cách Mạng Tháng Tám.

Kính.

Nguyễn Trung Thành

Nơi ở: 10C Dốc Ngọc Hà - Phòng 201 - 202

Điện thoại: 258261/3746

Tiếp theo, tôi xin trích một đoạn trong một bức thư của tôi gửi cách đây 7 năm:

Trần Thư

Hà Nội, ngày 12 tháng 3 năm 1988

Kính gửi:

Anh Trần Công Mân, Tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân.

Hồi trong năm anh có cử anh Toại đến gặp tôi để truyền đạt ý kiến của anh Nguyễn Quyết bảo làm đơn trình bày lên Tổng Cục Chính Trị trường hợp của tôi. Từ bấy đến nay tôi cứ lần lữa mãi, không quả quyết viết. Không phải vì tôi không có thời gian. Cũng không phải tôi không hiểu thiện ý của các anh. Tôi phân vân không muốn viết vì những lý do sau đây:

1. Ngồi tù thì đằng nào tôi cũng ngồi rồi, chuyện ấy đã qua và bây giờ không cái gì có thể bù đắp lại được cho tôi 20 năm đã bị mất đi cùng với tất cả những điêu đứng mà tôi và gia đình tôi đã phải chịu đựng.

2. Danh dự tôi đã được phục hồi rồi. Bất kỳ ai được biết trường hợp của tôi đều cho là tôi bị oan và đều chê trách Đảng ta tại sao không dám sửa sai. Vậy là tuy Đảng chưa phục hồi cho tôi nhưng nhân dân đã làm cái việc đó thay cho Đảng. Tôi thấy đối với tôi như thế là đủ. Tôi làm theo lời Đảng, lấy dân làm gốc.

3. Cuộc sống của tôi và gia đình tôi qua bao nhiêu đảo điên nay đã ổn định, kiếm đủ ăn. Con cái tôi bị phân biệt đối xử, không ngóc đầu lên được, đến nay cũng đã có công ăn việc làm tử tế, chẳng là sự nghiệp gì quan trọng thì cũng là sự nghiệp của người lao động bình thường.

4. Tôi không có tham vọng cá nhân nào, không nghĩ đến việc trở lại công tác vì đã quá tuổi làm việc, và cũng không nghĩ đến chuyện trở lại Đảng. Như vậy là việc của tôi, tôi cho là đã xong, hà tất phải đơn từ làm gì. Chỉ còn lại việc của Đảng: việc có một thời gian Đảng ta đi theo chủ nghĩa Mao, chống lại Liên xô, khủng bố, bắt bớ một số cán bộ, đảng viên của mình, là một vết đen trong lịch sử của Đảng. Sớm muộn lịch sử cũng sẽ đem chuyện ấy ra phán xét. Đó là điều không có chút gì nghi ngờ cả. Hiện nay, các điều kiện để phân tích đúng sai đã quá đầy đủ. Nếu thế hệ các anh lãnh đạo hiện nay (là những nhà lão thành cách mạng) không làm nổi việc đó mà phải để cho các thế hệ con cháu giải quyết thì tôi cho là một điều đáng để các anh suy nghĩ...

Như vậy là tôi vẫn nghĩ rằng sớm muộn vụ án này sẽ được đưa ra phán xét. Và đến bây giờ mới đưa ra cũng là quá muộn. Cho nên tôi không ngạc nhiên khi đọc lá thư của ông Thành. Nhưng tôi lại bị bất ngờ về một mặt khác. Tôi thực không ngờ rằng người đặt vấn đề này ra lại là ông Thành, chính ông Nguyễn Trung Thành. Và càng nghĩ tôi càng thấy việc làm đó đòi hỏi ở ông Thành một lòng dũng cảm như thế nào. Trước nhất là dũng cảm vượt qua chính bản thân mình. Tôi hiểu chuyện đó rất không đơn giản. Sau đó mới đến chuyện dũng cảm chấp nhận trả giá, nếu công cuộc không thành. Là một cán bộ an ninh lão luyện, ông thừa hiểu cái giá ấy thường không rẻ.

Có anh em hỏi tôi: động cơ thực của ông Thành là gì? Tôi rất kỵ cái thói quen của một số người là thích truy động cơ. Tôi đã trả lời: chịu, nó ở trong bụng ông ta, tôi làm sao biết được? Dù động cơ của ông ta là thế nào tôi cũng mặc, chỉ cần biết về khách quan việc làm của ông ta là hợp đạo lý. Nhưng tôi cũng thử suy luận: ông Thành đã qua ngưỡng thất thập cổ lai hy, gần đất xa trời rồi, đã hết cái tuổi đua chen. Vả lại ông ta còn thiếu cái gì nữa mà phải đua chen? Và ở cái tuổi rất kỵ phiêu lưu ấy, nếu còn máu đua chen thì người ta chọn những lĩnh vực ngon ăn hơn, không dại gì mà lao vào cái trận đồ bát quái đầy bất trắc này. Dễ làm khó bỏ, đó là tuổi già. Vậy nếu đã chọn tảng đá mà húc thì ắt phải có những thôi thúc nào cao hơn những tính toán nhỏ nhen.

Còn cách đặt vấn đề của ông, tôi cho là đúng: tách riêng hai vấn đề đối với Nhà Nước và đối với Đảng.

Đối với Nhà Nước, không có bằng chứng xác thực nào để buộc tội những anh em này là phạm pháp, vậy họ là những người vô tội về mặt pháp luật và bắt bớ họ là sai. Và sai thì tất nhiên cứ theo pháp luật Nhà Nước mà sửa sai và đền bù.

Đối với Đảng, một số anh em có phạm một số sai lầm so với những quy định trong điều lệ Đảng thì cứ chiếu theo điều lệ Đảng mà xem xét kỷ luật.

Thế là sòng phẳng.

Ông Thành không nhắc gì đến chuyện quan điểm đúng sai, chuyện chủ nghĩa, và tôi cho thế là phải. Chuyện ấy phải để lịch sử phán xét. Lịch sử đã, đang và còn sẽ phán xét mọi thứ chủ nghĩa một cách công minh và nghiêm khắc, bất chấp mọi cuộc tranh luận. Bản thân chủ nghĩa Mác đang bị lịch sử đặt thành vấn đề thì xét lại hay giáo điều còn có nghĩa gì?

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #gautruckaka