Blog Tử vi tinh quyết
Tham Lang - can Quý hóa thành sao Kị
Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa thành sao Kị là"đoạt tình". Vì vậy, nhẹ thì không như lý tưởng, nặng thì cảm thấy trắc trở về tâm lý. Nhưng thông thường không bị tổn thất về vật chất.
Tham Lang hóa Kị mang lại bất lợi có tính chất khá ôn hòa, thường chỉ là tranh cãi ồn ào, hoặc tâm trạng không yên, tâm trạng không yên có lúc kéo dài, vì vậy mệnh tạo dễ đi tìm kiếm sự kích thích.
Tham Lang vốn đã có ý vị trang sức, trang hoàng, làm dáng, khi Tham Lang hóa Kị sẽ làm mất đi phép lịch sự, hoặc có phần"đức"không tốt. Có lúc, cũng là trang sức, trang hoàng, làm dáng không được như lý tưởng, không tìm ra được cách sửa sang cho hợp sở ý, ví dụ như thích sửa sang cho đẹp chỗ ở nhưng khi trang trí, trang hoàng bố cục nội thất, thì việc lại rối tung rất khó thỏa mãn theo ý tưởng của chính mình.
Lúc"giao tế thù tạc", ảnh hưởng của Tham Lang hóa Kị mang lại sẽ là tốn tiền một cách vô ích, dùng tiền mà không được ai để mắt đến, không được bạn bè chú ý, cũng không được người ta gọi là hào sảng.
Lúc có các sao đào hoa, hoặc các sao"khoa văn"đồng độ, Tham Lang hóa Kị là biểu trưng cho biểu diễn văn hóa nghệ thuật, thường biểu hiện bản thân trong giao tế, nhưng không xảy ra sự cố có tính chất đào hoa.
Tham Lang hóa Kị cũng chủ về vất vả, có đặc tính"không có việc gì đáng mà cứ phải bôn ba bận rộn", lòng ham muốn tạo dựng sự nghiệp cực nặng, thường không lo nghĩ quan tâm đến gia đình, còn ưa mở rộng kinh doanh nhiều phương diện mất hâu hết thời gian, khiến càng vất vả khổ lụy, lúc thu hoạch kết quả thì lo lắng đến kết quả không được như ý tưởng ban đầu.
Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Tử vi độc tọa, tam phương hội hợp với Phá Quân hóa Lộc và Thất Sát độc tọa.
Tham Lang hóa Kị ở hai cung này lại chủ về"tài nghệ", nhưng bất lợi về tình cảm. Nhất là nữ mệnh dễ bị người đã có gia đình theo đuổi, dù hôn nhân có sự cố thay đổi, nhưng vẫn có khuynh hướng"ngó đứt mà lòng còn tơ vương", không thể dứt khoát được.
Trong 12 cung Tham Lang hóa Kị ở cung Tý là tốt nhất, cung ngọ là kế đó, sự nghiệp và tiền bạc đều tốt, chỉ tại mệnh tạo luôn cảm thấy không được như lý tưởng mà thôi.
"Vũ khúc Tham lang"đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, Tham Lang hóa Kị ắt sẽ có Kình dương đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, tam phương tương hội với"Liêm trinh Phá quân"mà Phá quân hóa Lộc, và"Tử vi Thất sát".
Tham Lang hóa Kị ở bản cung, chủ về sự nghiệp và tiền bạc không có gì đáng ngại, chỉ chủ về đời người khó đạt tới lý tưởng, nhưng thông minh tài trí vẫn được phát huy, phần nhiều phát huy trong nghê nghiệp. Tuy vẫn khó tránh rắc rối về tình cảm, nhưng rốt cuộc vẫn giải quyết được.
Tham Lang hóa Kị độc tọa ở hai cung Dần hoặc Thân (ở cung Dần thì gặp Lộc tồn), đối cung là Liêm Trinh, tam phương tương hội với Phá Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.
Tham Lang hóa Kị ở hai cung này, nếu có Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, cũng chủ về có tiền của bất ngờ. Nhưng nếu hội Kình dương và Đà la, cổ nhân cho rằng đây là điềm tượng"bị lưu đầy", thời cổ đại khi"bị lưu đầy"còn bị săm đóng"dấu chữ"lên mặt, do đó ý vị mở rộng là"phá tướng"hoặc có thẹo, có lúc là giải phẫu thẩm mỹ. Nữ mệnh gặp tổ hợp tinh hệ này chủ về bị người có gia đình theo đuổi.
"Tử vi Tham lang"đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu, Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với"Vũ khúc Phá quân"mà Phá Quân hóa Lộc, và"Liêm trinh Thất sát".
Tinh hệ này"tam phương tứ chính"đều gặp Sát tinh.
Tham Lang hóa Kị sẽ giảm bớt ý vị"Đào hoa phạm chủ", mà chủ về làm tăng năng lực phát triển sự nghiệp. Khi gặp hóa Kị chỉ là không được như ý tưởng, có lúc cũng chủ về sự nghiệp phát triển chậm.
Tinh hệ này còn có sắc thái"tham việc"do đó thường kiêm nhiều nghề, hoặc có ý thích cùng một lúc hai việc, nhưng trên thực tế chỉ làm tăng gian khổ trong đời người.
Nếu so sánh thì tinh hệ này ít có rắc rối về tình cảm.
Tham Lang độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), đối cung là Vũ Khúc, tam phương tương hội với Pha Quân độc tọa hóa Lộc, và Thất Sát độc tọa.
Tinh hệ này ở cung Thìn thì"Lộc trùng điệp"có thể thành Cách. Ngoại trừ cách"Hỏa Tham"và"Linh Tham", có không chủ về phát lên một cách đột ngột, mà là điềm tượng dùng tài trí và kỹ năng của bản thân để tạo dựng sự nghiệp. Ở cung Tuất tuy không có"Lộc trùng điệp", nhưng cũng có thể thành phúc cách. Nhưng bất kể ở cung nào cũng đều khó tránh vất vả. Về phương diện tình cảm, nhất là nữ mệnh, thường lãng không phí thời gian, tinh thần chỉ chuyên chú lo cho sự nghiệp mà làm lỡ mất lương duyên.
"Liêm trinh Tham lang"đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi (ở cung Hợi có Đà la đồng độ, ở cung Tị có Kình Đà hội chiếu), Tham Lang hóa Kị, tam phương tương hội với"Tử vi Phá quân"mà Phá Quân hóa Lộc, và"Vũ khúc Thất sát".
Tham Lang hóa Kị ở tinh hệ này, do có Liêm Trinh đồng độ, nên thường biểu trưng cho đau khổ về tình cảm. Tinh hệ này còn là biểu hiện của nghệ thuật. Tổng hợp hai tính chất này sẽ thành nỗi thống khổ trong nghệ thuật, hoặc chủ về nghệ nhân gặp nhiều rắc rối về tình cảm.
Người có tinh hệ này thủ Mệnh, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, phần nhiều đều có tính xung động trong kinh doanh làm ăn, do đó thường gây ra trắc trở. Lúc đầu tư, thường thường có khuynh hướng mạo hiểm, dễ thành phá tán thất bại, cần phải chú ý phép"xu cát tị hung".
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Vũ Khúc - can Nhâm hóa thành sao Kị
Vũ khúc là sao"tiền tài", lúc hóa thành sao Kị sẽ biểu trưng cho tình trạng xoay chuyển tiền bạc khó khăn, hoặc vì người khác mà phải ngưng dừng nửa chừng, có lúc vì hoàn cảnh khách quan thúc đẩy mà phải mở rộng việc kinh thương buôn bán đến nỗi không khái toán và dự toán được, khiến tiền bạc tổn thất. Đây là ý nghĩa cơ bản của Vũ Khúc hóa Kị.
Vì vậy có lúc cũng chủ về bệnh tật dây dưa kéo dài, hoặc tiến hành một sự kiện nào đó vượt quá dự liệu, do đó ảnh hưởng đến tình hình chi tiêu. Ví dụ như Vũ Khúc hóa Kị ở cung Điền Trạch đồng độ với Tham Lang, chủ về vì sửa sang nhà cửa vượt ngoài dự toán ban đầu, để hoàn thiện thì phải cố thu xếp, dẫn đến tiền bạc trống rỗng.
Vũ Khúc chủ về"quyết đoán", sau khi Hóa Kị nhuyễn hóa thành"quyết liệt", có nghĩa là khi phải giải quyết vấn đề rắc rối phức tạp thì thường quá cứng rắn, nên dễ bị trắc trở. Tinh hình như vậy rất dễ xuất hiện trong vấn đề tình cảm, cho nên hôn nhân trở nên bất lợi. Cổ nhân cho rằng đây là tinh hệ"không có lạc thú phòng the", ở thời hiện đại đây là điềm tượng hôn nhân đổ vỡ.
Vũ Khúc hóa Kị cũng bất lợi về sức khỏe, chủ về phẫu thuật. Lúc hội hợp các sao không tốt, thì chủ về khối u, phù thũng. Khi hội hợp với Tạp diệu chủ về các bệnh có tính hao tổn, nếu còn gặp thêm các sao Sát - Hình, có lúc biểu trưng cho bệnh ung thư.
Do Vũ Khúc hóa Kị có đặc tính"quyết đoán", do đó còn có thể biểu trưng cho rụng răng, đau răng.
Nói chung Vũ Khúc hóa Kị ở 12 cung đều có ý vị không cát tường.
"Vũ khúc Thiên phủ"đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Vũ khúc hóa Kị thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa. Tham khảo mục Thiên phủ - can Nhâm hóa Khoa.
"Vũ khúc Tham lang"đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì gặp Lộc tồn), mà Vũ Khúc hóa Kị, tam phương hội hợp với"Liêm trinh Phá quân"và"Tử vi Thất sát"mà Tử vi hóa Quyền.
Tinh hệ này thường chủ về lý tưởng quá cao mà"lực bất tòng tâm"(bao gồm cả năng lực tài chính), vì vậy mà xảy ra thất bại. Cho nên có lúc cũng chủ về việc sắp thành lại hỏng.
Nếu có các sao đào hoa đồng độ, thì nên theo ngành nghệ thuật biểu diễn, giải trí, vui chơi, thì lại có thể phát huy. Nếu có Sát tinh đồng độ, thì thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật. Việc theo những ngành nghề này, còn có thể hóa giải đặc tính xấu của Vũ Khúc hóa Kị, nhưng vẫn khó tránh gặp phải rắc rối về tinh cảm.
Nếu có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, chủ về sau khi phát lên một cách đột ngột sẽ dễ bị suy sụp nhanh chóng. Cần phải xem xét các sao Lưu niên để tìm cách"xu cát tị hung".
"Vũ khúc Thiên tướng"đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, Vũ Khúc hóa Kị, đối cung là Phá quân, tam phương là"Liêm trinh Thiên phủ"mà Thiên phủ hóa Khoa, lại hội Tử vi hóa Quyền. Tinh hệ này"tam phương tứ chính"đều hội Sát tinh.
Tinh hệ này có hai điểm bất lợi: Một là, hôn nhân dễ sóng gió, trắc trở trọng đại; Hai là, ưa hợp tác với người khác để sáng lập sự nghiệp, nhưng thường vì nóng lòng muốn mau thành, mà bị tổn thất, thất bại.
Đạo"xu cát tị hung"là kết hôn muộn, rất nên thận trọng trong việc lựa trọn bạn đời. Phải suy tính kỹ lưỡng kế hoạch hợp tác, và định rõ các điều kiện hợp tác một cách tỷ mỹ mới có thể tiến hành.
Đại khái là, tinh hệ này không nên hợp tác kinh doanh, trái lại có thể nên một mình đảm trách công việc, nguy cơ thất bại cũng nhỏ hơn.
"Vũ khúc Thất sát"đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Mão có thể gặp Lộc tồn), đối nhau với Thiên Phủ hóa Khoa, tam phương hội với"Liêm trinh Tham lang"và"Tử vi Phá quân"mà Tử vi hóa Quyền.
Tính chất cơ bản của tinh hệ này là"cô độc và hình khắc", cho nên không thích hợp với nữ mệnh, chồng và con đều dễ ly tán. Cổ nhân cho rằng nên làm nhị phòng hay kế thất, thời hiện đại chủ về không có hôn lễ chính thức.
Đời người thường gặp sóng gió lớn, đây cũng là đực điểm của tinh hệ này, cho nên mưu sự thường rất hao tổn sức lực, tinh thần bị áp lực rất nặng. Ở cung Mão thì đỡ hơn.
Nhiều lực để thư giãn, giảm áp lực, lại chủ về thích tiêu sài, nữ mệnh thì càng nặng. Nếu có Phỉ Liêm đồng độ, thì mua sắp cuồng nhiệt, nhưng mua rồi lại thường không dùng tới.
Vũ Khúc độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Tham Lang, tam phương hội hợp với"Liêm trinh Thiên tướng", và"Tử vi Thiên phủ"mà Tử vi hóa Quyền và Thiên Phủ hóa Khoa. Ở cung Thìn thì bị Kình dương Đà la hội chiếu, ơ cung Tuất thì đồng độ với Đà la.
Thìn và Tuất là"Thiên la Địa võng", Vũ Khúc hóa Kị ở đây dễ biến thành suy nghĩ nông cạn. Thường hay nóng lòng muốn đột phá, nhưng khi xử lý sự vụ lại gây thêm phản ứng ngược, dẫn đến tình hình càng thêm rắc rối khó khăn và phiền thức.
Tinh hệ này còn chủ về khi bị trắc trở thì lại thường có phải ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, do đó dễ biến thành thất chí.
Thích lãng phí cũng là khuyết điểm của tinh hệ này. Thường thường tổn hao tiền vì bạn bè, mà thường không thấy được báo đáp.
Cũng chủ về hai lần kết hôn, nên kết hôn muôn, nhất là nữ mệnh.
"Vũ khúc Phá quân"đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ Khúc hóa Kị, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với"Liêm trinh Thất sát"và"Tử vi Tham lang"mà Tử vi hóa Quyền.
Tổ hợp các sao cơ bản đã có tính chất đổ vỡ và trắc trở, nhất là khi hợp tác với người khác sẽ có kết cục xấu.
Vũ Khúc hóa Kị ở cung Hợi, thì Kinh dương và Đà la sẽ giáp cung, thành cách"Kình Đà giáp Kị", tình hình sẽ xấu hơn ở cung Tị. Ngoài việc không nên hợp tác với người khác, còn chủ về cuộc đời phần nhiều đều bị kinh tế áp lực, hễ có hành động thì liền bị kinh tế giới hạn, khiến không thể đạt được lý tưởng. Nếu có thêm Hỏa tinh Linh tinh đồng độ, thì đây là hiện tượng sụp đổ, thường thường việc sắp thành lại hỏng. Gặp Thiên nguyệt, Thiên hư, Âm sát, thì chủ về cơ thể suy nhược, bệnh hoạn.
Hễ Vũ Khúc hóa Kị, thì Tử vi trong nhóm"Tử vi Tham lang"ắt sẽ hóa Quyền, vì vậy tình hình khó khăn kinh tế thường do ham muốn quyền lực gây ra, biểu hiện ở khuynh hướng"lực bất tòng tâm"và khuynh hướng lãng phí.
Vũ khúc hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, nam mệnh bất lợi về hôn nhân, chủ về vợ lộng quyền.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Văn Xương - can Tân hóa thành sao Kị
Văn xương hóa thành sao Kị, ý nghĩa trực tiếp nhất là"sai lầm về văn thư", cho nên lúc thi cử, làm hợp đồng, gửi văn thư, .v.v ... đều phải cực kỳ cẩn thận để tránh sai lầm, làm tăng thêm phiền phức không cần thiết. Tóm lại, Văn xương hóa Kị là"chữ nghĩa gây ra rối ren, phiền phức".
Văn xương tuy không dính dáng đến kim tiền, nhưng thời hiện đại là xã hội công nghiệp, văn thư thường có liên quan đến thương nghiệp, do đó cũng dễ tạo thành tổn thất kim tiền. Khác với Văn khúc hóa Kị, khi Văn xương hóa Kị là vì yêu cầu của người khác, hay vì sai lầm của người khác, mà bản thân mệnh tạo phải gánh trách nhiệm, còn đối với Văn khúc hóa Kị thì trách nhiệm là do bản thân phải gánh vác, tức sai lầm là do bản thân gây ra. Cho nên Văn xương hóa Kị thường dễ vì cho mượn, hoặc đứng ra lấy tư cách bảo đảm mà bị tổn thất.
Văn xương hóa Kị, lạc hãm thì làm việc không chú tâm, thường thường vì sơ sót mà gây ra trắc trở, còn biểu trưng cho là"mau quên", có lúc lại biểu trưng cho"có tài mà không gặp cơ hội, học mà không dùng", Văn xương hóa Kị cũng có thể biểu trưng cho"bỏ học nửa trừng".
Văn xương thích hợp làm công việc quảng bá, soạn thảo. Ngoài ra Văn xương hóa Kị còn là điềm tượng hôn lẽ không được trọn vẹn, nếu gặp sát tinh nặng, phần nhiều không có hôn lễ, cũng chủ về bị quấy nhiễu, gây khó khăn về tình cảm. Văn xương hóa Kị chủ về"lốm đốm", cho nên biểu trưng cho tàn nhang, nốt ruồi, đậu mùa.
Trên là những ý vị phổ biến và khái quát của Văn Xương hóa Kị, cần phải xem xét các sao hội hợp thực tế mà định tính chất cụ thể.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hỏa tinh và Linh tinh - Vương Đình Chi
Hỏa tinh thuộc dương Hỏa, Linh tinh thuộc âm Hỏa. Cho nên có thuyết"Hỏa minh Linh ám", có nghĩa là Hỏa tinh mang lại điều không hay từ mặt chính diện, ngoài sáng; còn Linh tinh thì ngầm mang lại tại hại, trong tối.
Cũng do bản chất này, nên khi Hỏa tinh và Kình dương đồng độ, thì chủ về"kích phát", còn khi Linh tinh và Đà la đồng độ, thì chủ về"trui rèn".
Hễ Hỏa tinh hoặc Linh tinh ở cung Mệnh, hoặc ở cung Phụ mẫu, chủ về khi còn bé, đã chia ly với gia đình, hoặc là làm con thừa tự người khác.
Hỏa tinh thủ Mệnh, hoặc thủ cung Phụ mẫu, gặp các sao Phụ diệu Tá diệu không đủ"cặp đôi"(sao lẻ), thì chủ về cha mẹ lưỡng trùng, có hai họ, hoặc cha mất sớm.
Hỏa tinh ưa đồng độ với Tham lang, chủ về đời người tích cực tiến thủ
Tinh hệ Tử Sát cũng ưa Hỏa tinh đồng độ ở một cung, gặp thêm Kình dương thì càng đẹp, cũng chủ về tích cực tiến thủ, có điều không bằng Hỏa Tham hóa Lộc, đây là cách có thể phát lên một cách nhanh chóng (Tử vi tọa mệnh, đến cung hạn Thất sát, cũng chủ về đột nhiên biến thành hanh thông, nhưng không bằng"Hỏa Tham"chủ về kiếm được tiền).
Hai kết cấu sao thuật ở trên, không nên có Đà la đồng độ, nếu không sẽ biến thành"cách phá cục", chủ về phá hoại.
Hỏa tinh bay đến cung có tinh hệ ổn định (như Tử vi,"Tử Phủ", Thiên phủ, Thiên lương, .v.v...), có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, có thể khiến tinh hệ chính diệu thiên về phát triển tính"cương". Ví dụ như tinh hệ"Thái dương Thiên lương"chỉ có tính chủ quan, thêm Hỏa tinh thì có tính ngoan cố.
Uy lực của Linh tinh kém hơn Hỏa tinh, nhưng là âm hỏa nên Linh tinh chủ về kéo khá dài, vì vậy mang đến tai nạn cũng có tính lâu dài. Ví dụ như Hỏa tinh phần nhiều mang đến tính tổn thất vật chất chỉ thuộc loại không may nhất thời, còn đối với Linh tinh, thì mang lại tai nạn thường kèm có đau khổ nội tâm, mệnh tạo rất khó quên.
Bốn sao Linh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, chủ về thất bại, mà sự thất bại này, là do mệnh tạo tự chuốc lấy. Nếu có lưu Đà, lưu Xương cung khởi nguyên cục"Linh Xương Đà Vũ", thì tai họa càng kịch liệt.
Liêm trinh hóa Kị có Kình dương đồng độ, lại gặp Linh tinh, gọi là cách"Hình tù hội Linh"chủ về chết bất ngờ, hoặc chết về binh đao. Nguyên cục"Hình Tù hội Linh"lưu niên có lưu Dương cung khởi, thì tai họa càng dữ dội, thường thường xảy ra trong kỳ khắc ứng.
Tinh hệ Liêm Sát có Kình dương đồng độ, gặp Linh tinh, gọi là cách"Liêm Sát Dương Linh", là mệnh chết ngoài chiến trường.
Linh tinh cũng không ưa đồng độ với Phá quân, chủ về kinh doan làm ăn thất bại, nhưng thích hợp với các nghề nghiệp có tính trắc trở như nha sỹ, bác sỹ, chuyên viên về trật đả, làm nghề tháo dỡ, thợ sửa xe, sửa thuyền, .v.v...
Hễ có Hỏa tinh và Linh tinh giáp cung, cung bị giáp thường thường rất xấu. Như giáp cung Tài, chủ về vất vả bôn ba mà tài khí rất kém. Hỏa Linh chia ra ở các cung Phúc đức và cung Mệnh, chủ về cuộc đời nhiều sóng gió trắc trở. Hỏa Linh chia ra ở cung Mệnh và cung Phu thê, phần nhiều cũng chủ về vợ chồng không êm ấm, đời người khó thuận lợi toại ý.
Các chính diệu không ưa Hỏa Linh giáp cung là Thiên cơ, Thiên đồng, Cự môn, Thiên tướng, Thiên lương, các chính diệu này cũng không ưa chúng đồng cung, dễ biến thành phá cách. Như tinh hệ Cự Cơ an mệnh tại cung Mão, Cự môn hóa Lộc, là"Cự Cơ đồng lâm cách"chủ về phú quý, nếu có Hỏa Linh đồng độ thì chủ về no ấm mà không giầu sang.
Cung Phu thê gặp Hỏa Linh, thì chủ về thành hôn trong tình cảnh bối rối vội vàng.
Hỏa Linh ở cung Mệnh, chủ về trước thì"việc sắp thành lại hỏng", trải qua nỗ lực mới chuyển thành"việc sắp hỏng thì lại thành". Người theo võ nghiệp gặp chúng thì chủ về lập được công trạng.
Nữ mệnh gặp Hỏa Linh, cổ nhân cho răng hiếp đáp chồng, khắc con, quan hệ nhân tế rất kém, tính cách cương cường, nặng nhất là gặp Hỏa tinh, cổ nhân còn nói là"lòng lang dạ sói". Những luận đoán này cần phải xem xét tinh hệ chính diệu thủ cung Mệnh mới định được. Không thể luận đoán theo cách nói của cổ nhân được.
Cung Phúc đức gặp Hỏa Linh, phần nhiều nội tâm nóng nảy, nhưng vẫn có phân biệt. Hỏa tinh chủ về tính"cương"(cứng rắn), Linh tinh chủ về tính"liệt"(dữ dội). Tính"cương"thì phần nhiều nóng nảy, tính"liệt"thì không dùng lời nói nhưng dùng hành động đọt ngột để phản kháng.
Cho nên hai sao tuy cùng tính cứng rắn, nhưng tính cứng rắn của Hỏa tinh mang tính chính diện, bộc trực, còn tính cứng rắn của Linh tinh thì thâm trầm hơn.
Hai sao Hỏa Linh rất ưa đồng độ với Tham lang, gọi là cách"Hỏa Tham", hay cách"Linh Tham", chủ về phát lên một cách nhanh chóng, hoặc chủ về lập đương công danh một cách nhanh chóng. Ngoài ra Hỏa Linh cũng ưa đồng độ với hai chính diệu Tử vi và Thất sát, đối với Tử vi thì có thể hóa giải tính cứng rắn của Hỏa Linh, đối với Thất sát thì có uy và có thể nhiếp phục Hỏa Linh. Cho nên nếu so sánh, thì mệnh cục Tử vi có Hỏa tinh đồng độ sẽ ít sóng gió trắc trở hơn mệnh cục Thất sát có Hỏa tinh đồng độ.
Cự môn là"ám tinh", rất kị gặp Hỏa tinh và Linh tinh, bởi vì Hỏa Linh không đủ sức làm sáng Cự môn, mà"ám"của Cự môn thì đủ để làm u ám Hỏa Linh. Nếu Cự môn đồng độ với Hỏa tinh hoặc Linh tinh, thì chủ về người dễ xung động, mà còn nhiều thị phi.
Hỏa tinh và Linh tinh cũng không ưa Liêm trinh, vì Liêm trinh là âm hỏa, các sao Hỏa cùng tụ tập một cung, gặp Thất sát và Kình dương sẽ chủ về xảy ra bất chắc.
Cổ nhân có lập hai cách cục liên quan đến Hỏa Linh, một là"Hỏa Linh giáp mệnh cách", hai là"Linh Xương Đà Vũ cách".
Cổ nhân nói:"Hỏa Linh giáp mệnh là bại cục", trong Đẩu Số, hễ bị một cặp sát tinh giáp cung, nhất định sẽ có khuyết điểm, như Kình Đà giáp cung, Không Kiếp giáp cung, và Hỏa Linh giáp cung. Cung bị Hỏa Linh giáp cung sẽ có khuyết điểm gì, thì phải xem tinh hệ bị giáp cung mà định, thông thường, sẽ khiến đời người bị giảm sắc.
Xuất thân như nhau, cùng học như nhau, thậm chí cùng làm việc trong một cơ cấu, đến sau trung niên, thì lại một thăng một trầm, có thể là vì bị"Hỏa Linh giáp mệnh cách"mà chính diệu của cung mệnh lại vô lực. Đây là căn cứ quan trọng, cần phải xét chính diệu có lực hay vô lực.
Nếu bị giáp cung là tinh hệ có lực, như"Vũ khúc Thất sát","Vũ khúc Thiên phủ","Liêm trinh Thất sát","Tử vi Thất sát", sẽ chủ về mệnh tạo vẫn có thể phát dương quang đại, bất quá chỉ phải trải qua gian khổ mà thôi.
Nhưng nếu cung vị bị Hỏa Linh giáp cung lại có Kình dương, thì lúc luận đoán phải cực kỳ thận trọng. Kình dương có thể biến thành"thiện"mà cũng có thể biến thành"ác", không thể luận chung chung được.. Lúc này phải quan sát các sao hội hợp ở tam phương tứ chính mà định tính chất của nó.
Còn cách"Linh Xương Đà Vũ"là an mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà tam phương tứ chính lại hội tụ 4 sao Lịnh tinh, Văn xương, Đà la, Vũ khúc, cổ nhân nói:"Linh Xương Đà Vũ, hạn đến thì nhảy sông", chủ về có tai nạn sông nước. Đây là do cổ nhân chứng nghiệm được nên đưa ra kết luận này. Vương Đình chi cho rằng, cũng có thể xem là điềm báo tai nạn thông thường, nhất là về giao thông.
Cần lưu ý, nếu nguyên cục có Vũ khúc và Linh tinh hội chiếu (Hỏa tinh thì không phải), trong đại hạn hoặc lưu niên, cần phải có lưu Xương, lưu Đà hội hợp. Bởi vì"Linh Xương Đà Vũ cách"cũng bao gồm cả lưu Xương lưu Đà, vốn dĩ đã có Đà la Văn Xương, lại bay vào lưu Đà hoặc lưu Xương, xung khởi Đà la, Văn xương, thì tai họa sẽ xảy ra, năm đó cần phải cản thận giữ gìn sức khỏe, đồng thời đề phòng tai nạn sông nước và tai nạn giao thông.
Hỏa tinh ưa các sao Cát, ưa người sinh ở hướng Đông và hướng Nam, ưa người sinh vào các năm Dần Mão Tị Ngọ Tuât
Hỏa tinh ưa ở các cung Dần - Ngọ - Tuất
Hỏa tinh kị các sao Hung, kị ở các cung Thân - Tý - Thìn
Hỏa tinh là Cát thì chủ về phát tài năng hơn người, Hung thì chủ về gặp nhiều tai ách.
Linh tinh ưa và kị giống Hỏa tinh
Linh tinh là Cát thì chủ về ngầm phát phúc, là Hung thì chủ về ngầm bị xâm hại.
Khẩu quyết an Hỏa tinh và Linh tinh:
An Hỏa tinh và Linh tinh, căn cứ chi của năm sinh để khởi giờ Tý
Thân Tý Thìn nhân Dần Tuất dương
Dần Ngọ Tuất nhân Sửu Mão phương
Tị Dậu Sửu nhân Mão Tuất vị
Hợi Mão Mùi nhân Dậu Tuất phòng.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Tử vi tọa thủ cung Mệnh - Toàn thư
DUNG MẠO VÀ TÍNH CÁCH
Người có sao Tử vi tọa thủ cung Mệnh thường có sắc mặt mầu vàng tía, người to béo, tướng mạo hiền hậu điềm tĩnh, ánh mắt trong sáng. Mệnh nam thì vai rộng lưng dày, rắn rỏi uy nghiêm; mệnh nữ thì đôn hậu thanh tú, phúng phính đãy đà, khoan thai quý phái.
Tính cách ngay chính ngay thẳng, trung hậu thật thà, bên ngoài cứng rắng bên trong yếu mềm, có lòng tự trọng tự ái, tâm địa lương thiện, có lòng nhân hậu hay nghĩ cho người khác, có khí chất tôn quý, có tính kiêu ngạo, thích phân minh rõ ràng. Có tinh thần trách nhiệm, thích hư vinh, ưa thể diện, tự tin lại hiếu thắng, giỏi biện luận, tâm địa khá hẹp hòi, thích chiếm hữu, đa nghi thiếu chủ kiến, dễ làm việc theo cảm tính tùy theo mong muốn của bản thân, thường cảm thấy tủi thân, dễ tự tìm đến phiền muội. Thông minh học rộng, năng lực quản lý tài chính giỏi, có khả năng lãnh đạo. Làm việc chăm chỉ nhiệt tình, tính cầu toàn, thích những điều mới mẻ.
Nữ có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, ngoài có tiền đồ còn có dung mạo xinh đẹp, da dẻ mịn màng, khí thái đoan trang, được giáo dục tốt, là mẫu phụ nữ vợ đảm mẹ hiền điển hình. Đại đa số đều có được người bạn đời có địa vị cao trong xã hội, hưởng cuộc sống hạnh phúc về cả vật chất lẫn tinh thần. Nếu gặp Cát tinh thì là người vợ giúp chồng, nuôi con giỏi.
SUY ĐOÁN MỆNH LÝ
Sao Tử vi tuy là Đế tọa phú quý, có khí thể độc tôn, quyền uy cao ngất, là chúa tể của các sao nhưng khi tọa thủ tại cung Mệnh, thì không nhất định là thể hiện phú quý vinh hoa, còn phải xem xét cát hung của các sao trong cung và các cung bên cạnh, cung đối diện và cung tam hội với cung này.
Sao Tử vi không thích hợp tọa thủ một mình, tọa thủ một mình cũng giống như vị vua đơn độc không có hiền thần phò tá, lại vì làm việc không có chủ kiến, thường bó buộc trong vỏ bọc tôn quý, dễ bị gian thần tiểu nhân làm hại, dễ độc đoán chuyên quyền, về tinh thần không tránh khỏi cô độc, nếu không biết biến thông thì khó tránh khỏi gặp trở ngại tai ương.
Người có sao Tử vi tọa thủ cung mệnh, thích được người khác tiếp thu ý kiến của bản thân, thích ra lệnh, thường đưa ra kiến nghị cho người khác, nên dễ bị hiềm khích. Do sao Tử vi có khuynh hướng duy trì địa vị tôn quý của mình, hy vọng được người khác tôn trọng và thừa nhận. Vì vậy tính tình thường kiên định, đòi hỏi cái tôi khá cao, làm bất cứ việc gì đều rất nghiêm túc, có khả năng cải tiến đi lên, đồng thời lại mang tính cầu toàn, thích thể hiện mặt tốt đẹp của bản thân ra ngoài; nhiều khả năng do nỗ lực sau này trong công việc thể hiện nổi trội mà trở nên có quyền uy ở một phương diện nào đó. Sau khi thành danh, tất tiếp tục khẳng định cái tôi, nếu chuyên về tri thức hoặc kỹ thuật đặc thù, lấy hiện trạng đột phá, đồng thời biết tiếp thu ý kiến của bạn bè, duy trì bản năng có lòng hiếu kỳ với bất kỳ sự việc nào, tất có vận may được hiển đạt lớn, nếu không sẽ dễ đi theo khuynh hướng hư danh.
Sao Tử vi hợp nhất đồng cung với 6 cát tinh phò tá, cũng hợp cát tinh như Thiên phủ, Thiên tướng, Thái dương, Thái âm, Lộc tồn, Thiên mã, hoặc gặp được hỗ trợ trong cùng một cung, như vậy mới có thể phát huy được uy lực chân chính của đế tinh.
Suy đoán cát hung của sao Tử vi tọa thủ tại cung mệnh cần phải đồng thời xem xét Tam thai, nếu cung vị của sao Tử vi là Trung thai, thì trước nó một cung là Thượng thai, sau nó một cung là Hạ thai. Các sao Tam thai đều là cát tinh của miếu vượng thì mọi việc hanh thông. Nếu các sao của Tam thai đều là hung tinh rơi vào thế hãm thì mọi việc không như ý.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Kình dương và Đà la - Vương Đình Chi
Kình dương thuộc dương kim, kèm tính dương hỏa, còn Đà là thì thuộc âm kim, kèm tính âm hỏa. Do tính chất"hỏa luyện kim", vì vậy trường hợp cát thì"tôi luyện", trường hợp hung thì"thiêu đốt".
Kình dương gọi là"sao Hình", Đà là gọi là"sao Kị", gọi như vậy là để hình dung"hung tính"của chúng.
Kình dương gặp Hỏa tinh sẽ thành lực"kích phát", Đà là gặp Linh tinh cũng thành hoàn cảnh"trui rèn", lúc này Kình Đà không còn là"hình - kị"nữa. Bởi vì Kình dương gặp Hỏa tinh, cũng giống như luyện kim loại thành vật hữu dụng. Đà là gặp Linh tinh, cũng giống như nung chảy kim loại thành vật liệu. Tính hung của Tứ sát sẽ tác động đến nhau mà tiêu trừ tính hung của nhau, còn có thể chuyển hóa thành có lợi ích.
Nhìn ở góc độ khác, kết cấu"Kình Hỏa"còn chủ về"minh tranh"(tranh chấp ngoài sáng, trực diện), vì có"minh tranh"mới có lực"kích phát". Kết cấu của Đà Linh lại chủ về"ám đấu"(đấu nhau ngầm, trong tối, không trực diện), vì có"ám đấu"mới chủ về"trui rèn".
Nhưng nếu tình huống giao thoa kể trên xảy ra ngược lại, Kình dương gặp Linh tinh, thì dương hỏa vẫn không đủ nung chảy khối kim loại. Hoặc Đà la gặp Hỏa linh, thì lửa có mạnh vẫn không đủ để rèn kim loại, trái lại, sẽ chủ về đun nấu thành tính chất không lành.
Đây là các đặc điểm kết hợp của Tứ sát.
Về cơ bản, Kình dương có lực phá hoại, thường còn chủ về tình trạng lung lay đến nền tảng bị phá hoại, cho nên gọi là"hình". Tính phá hoại của nó là những điều không may đến một cách công khai, mệnh tạo thấy rất rõ mà không thể tránh né.
Kình dương có khí"hình sát", vì vậy thích hợp công tác trong quân đội, cảnh sát, lĩnh vực pháp luật, làm bác sỹ ngoại khoa, hoặc nhân viên kỹ thuật, mà không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, cũng không thích hợp làm việc trong chính giới.
Kình dương ưa cung tứ Mộ, nhất là hai cung Thìn Tuất"thiên la địa võng", rất ưa Kình dương"kích phát"hội hợp với Hỏa tinh, như vậy lực kích phát càng lớn. Lúc đại vận đến cung độ này, cần phải xem xét kỹ tinh hệ chính diệu của cung hạn, để định cảnh ngộ, thông thường đều phải trải qua trắc trở, gập ghềnh, bất đắc trí trước, rồi sau mới thành tựu, những trắc trở này có ảnh hưởng tốt đối với hậu vận.
Kình dương không ưa Liêm trinh, cũng không ưa Cự môn, gặp hai chính diệu này, còn đồng độ với Hỏa tinh, thì không phải là"kích phát", trái lại, sẽ chủ về thị phi, hoặc tai nạn bệnh tật. Đay là vì Liêm trinh thuộc âm hỏa, bản chất xung đột với Hỏa tinh, Kình dương, Cự môn thuộc âm thổ, đủ để giải trừ dương hỏa. Bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, cung mệnh mà gặp chúng, cuộc đời sẽ nhiều tai họa bệnh tật.
Cách Hỏa Tham hoặc Linh Tham cũng không ưa gặp Kình dương, chủ về sau khi phát lên một cách nhanh chóng, sẽ xảy ra tranh chấp, tiềm phục nguy cơ suy sụp nhanh chóng. Cho nên cần phải chọn phương kế bảo thủ, buông bỏ chuyện tranh chấp với đối thủ, thì mới có thể"theo cát tránh hung".
Tinh hệ Vũ khúc đồng độ với Kình dương lại không thích hợp với võ nghiệp, nếu Kình dương chỉ hội hợp ở"tam phương", thì thích hợp công tác trong quân đội, cảnh sát, bảo an.
Tham lang không ưa đồng độ với Kình dương. Ở cung Ngọ Tham lang thành cách"Mộc hỏa thông minh", gặp Kình dương tuy cũng là"Mã đầu đới kiếm", nhưng vãn không phải"chính cách", chủ về phải trải qua gian khổ mới phát lên, rồi mới biến thành hanh thông, nhưng hanh thông lại không được lâu bền, cần phải đề phong tai họa lửa nước, trộm cướp, phạm pháp, thất bại, ... sẽ xảy ra sau khi hưng thịnh.
Tham lang đồng độ với Kình dương ở cung Tý, gọi là"Phiếm thủy đào hoa", chủ về đời người chìm đắm trong tử sắc, cũng không phải là kết cấu đẹp.
Đà la chủ về"lần nữa","cố chấp","thị phi","đố kị", những thứ không hay này đều ngầm xảy ra, mệnh tạo khó biết nguyên nhân tại sao, cho nên gọi Đà là là"sao kị". Đà là mang lại bất lợi giống như bị"bắn lén"(ám tiễn), thường thương khó"tìm cát tránh hung", hơn nữa hậu quả bất lợi phần nhiều cũng kéo dài một thời kỳ.
Đà la cũng ưa ở cung tứ Mộ, nhưng lại ưa hai cung Sửu Mùi hơn, ở hai cung Thìn Tuất thì nó không có lực"đột phá".
Đà la rất kị đồng độ với tinh hệ Tham lang, đối với cách Hỏa Tham hay Linh Tham, lực phá hoại của nó khá lớn, bởi vì nó có thể khiến tính chất"đột nhiên biến thành hanh thông"trở thành tính chất"kéo dài", như vạy là có mâu thuẫn rất lớn, thé là nảy sinh lực phá hoại. Thương thì Tham lang gặp Đà la, chủ về vì sắc dục mà mắc bệnh nan y.
Tham lang đồng độ với Đà la ở cung Quan tại Dần, thì gọi là"phong lưu thái thượng", chủ về vì chìm đắm tửu sắc mà ảnh hưởng đến sự tiến thủ, nhưng nếu ở cung mệnh thì lại chủ về mệnh tạo thông minh tuấn tú.
Tham lang đồng độ với Đà la ở cung Hợi, cũng gọi là"phiếm thủy đào hoa", không phải là cách tốt.
Đà la không ưa đồng độ với Cự môn, chủ về thị phi trung trung ở sau lưng, hoặc chủ về có ám tật.
Đà la không ưa đồng độ với Thất sát, mệnh cục này không thích hợp cho nữ mệnh, chủ về chồng con ly tán, hoặc lấy chông rất muộn.
Hễ Đà la thủ cung Phu Thê, chủ về kết hôn muộn, tọa thủ cung Tử tức chủ về chậm có con.
Đà la ở cung Quan hay cung Tài, thích hợp với ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật, không thích hợp tự kinh doanh làm ăn.
Kình Đà luôn luôn giáp Lộc tồn, nếu giáp cung có Chủ tinh không tốt mà đồng độ với Lộc tồn, sẽ chủ về keo kiệt, bủn xỉn, đa nghi. Nếu tinh hệ là chính diệu cát, thì chủ về nhiều lo toan nghĩ ngợi.
Thiên lương đồng độ với Lộc tồn ở cung Tị, bị Kình Đà giáp cung, lại có sao sát - hình xung phá, vào năm Dậu năm Sửu phải đề phòng tai họa lao ngục.
Tử Sát ở hai cung Tị Hợi, cũng không ưa bị Kình Đà giáp cung, chủ về lúc gặp cơ hội tốt để phát triển thì liền bị người ta gây trở ngại.
Kình Đà giáp cung có chính diệu hóa Kị, đây là cách"Kình Đà giáp Kị", chủ về tai nạn, bệnh tật, thất bại.
Nếu cung mệnh có Đà la đồng độ, cung Phúc ắt sẽ gặp Kình dương, thông thường tư tưởng có rất nhiều lực"kích phát", nhưng hành động lại do dự, thiếu quyết đoán.
Nếu cung mệnh đồng độ với Kình dương, cung Phu thê ắt sẽ gặp Đà la, chủ về tính cách vợ chồng không hợp nhau.
Nam mệnh mà Thái âm hóa Kị tại cung mệnh, hoặc cung Phu thê, bị Kình Đà giáo cung, chủ về hôn nhân bất lợi, bị vợ gây lụy hoặc đàn bà gây liên lụy.
Nữ mệnh có Thái dương hóa Kị tại cung mệnh, hoặc cung Phu thê, bị Kình Đà giáp cung, chủ về có người chồng không tốt, hoặc chủ về chồng bị tai nạn, bệnh tật.
Kình dương và Đà là là một"cặp"sát tinh trong Đẩu Số, trong đó Kình chủ về"Hình", còn Đà chủ về"Kị", cho nên Kình dương không ưa gặp Liêm trinh, bởi vì Liêm trinh chủ về"tù", cổ nhân nói là"sao Hình và sao Tù cùng đến", Kình dương cũng không ưa gặp Phá quân, bởi vì Phá quân chủ về"Hao", cổ nhân nói là"Sao Hình sao Hao cùng tới". Đà là thì không ưa gặp Hóa Kị, cổ nhân nói là"Kị hóa tương xung".
Từ tính chất trên mà phân biệt, Kình dương có thể gọi là"chân tiểu nhân", còn Đà la thì giống ngư"ngụy quân tử". Kình dương mang lại tai hại chỉ thuộc nhất thời, như phải phẫu thuật, sau phẫu thuật thì bình an. Còn đối với Đà la thì mang tai hại có tính chất kéo dài, ví như mắc bệnh, tuy không chủ về động dao động kéo, nhưng lại khiến người ta đau ốm triền miên.
Kình dương hay gây ra xung đột, sau khi xung đột, bất kể là tốt xấu thế nào, sự tình cũng sẽ được giải quyết. Đà la thì không phải vậy, có mâu thuẫn xung đột sẽ không xảy ra công khai, mà ngàm kéo dài, kết quản là rất hao phí tinh lực. Vì vậy Kình dương chủ về dứt khoát, còn Đà la chủ về dây dưa.
Kình dương chỉ ưa gặp Hỏa tinh, là dương Kim gặp dương Hỏa, chủ về trải qua gian khổ mới có thành tựu.
Đà la cũng ưa gặp Linh tinh (cách"Linh Xương Đà Vũ"là ngoại lệ), là âm Kim gặp âm Hỏa, chủ về đời người tuy có thành tựu, nhưng phải gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử trong âm thầm, khiến cho mệnh tạo không thể nhàn hạ, còn dễ xảy ra hiện tượng"cát"thì chậm đến,"hung"thì chậm tiêu, tuy"cát"cũng sẽ đến"hung"cũng sẽ tiêu, khiến cho người ta cảm thấy ngày tháng trôi qua một cách vô ích.
Cho nên so sánh hai sao, thì tinh hệ"Hỏa tinh Kình dương"đồng cung sẽ ưu hơn"Linh tinh Đà la"đồng cung.
"Kình Đà giáp cung cách"do tính chất"Hình - Kị giáp cung", nên cung bị giáp sẽ gặp nhiều bát lợi. Có điều cung bị Kình Đà giáp, ắt sẽ có Lộc tồn, nên khá dễ"tìm cát tránh hung".
Ở xã hội hiện đại, hai sao Kình dương và Đà la còn chủ về kỹ năng chuyên môn, tức câu cổ nhân nói:"tay nghề khéo mà yên thân". Vì vậy người hiện đại may mắn hơn người xưa. Thời cổ đại địa vị người thợ thuyền rất thấp hèn, ngày nay một chuyên viên cũng có cơ hội phát đạt.
Kình dương ưa người ở hướng Tây và hướng Bắc, khi Cát thì chủ về quyền uy, khi Hung thì chủ về"Hình - Thương"
Đà la chủ về trì hoãn, kéo dài, ưa người sinh vào năm tứ Mộ, ưa ở các cung tứ Mộ, kị ở các cung tứ Sinh, khi là Cát thì chủ về ngầm sinh quyền lực, khi là Hung thì chủ về ngầm chịu chèn ép, xô đẩy.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hỏa tinh và Linh tinh - Toàn thư
Hỏa Tinh
Thuộc tính ngũ hành của Hỏa tinh là dương hỏa, là sát tinh thứ nhất của chòm Nam Đẩu, hóa khí là sátchủ về tính cương, quyết liệt, phá hoại và nóng vội. Là một trong sáu Sát tinh, Hỏa tinh có sức phấn đấu mạnh mẽ, nhưng đồng thời lại mang tính phá hoại, không thích bị bó buộc. Do Hỏa tinh quá mức cương cường, nếu như không được các sao thích hợp chế phục, chủ về thủa nhỏ nhiều bệnh tật tai họa, nên đổi họ, cho người khác làm con nuôi. Nếu lại có thêm các sát tinh khác công phá mà không được cát tinh trợ giúp, dễ dẫn đến tàn tật.
Hỏa tinh là sát tinh, nhưng không phải là hung hoàn toàn, cũng không cát hoàn toàn, cần phải quan sát xem có sao nào có thể chế phục, hoặc lợi dụng được nó hay không, nếu có sẽ chuyển hung thành cát. Nếu Hỏa tinh cùng Thất sát, hoặc Kình dương nằm tại cung miếu vượng, thì có thể chế ngự được hung tính của nhau, tuy vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả, nhưng vẫn có được những thành tựu mang tính đột phá hoặc sáng tạo. Nếu như miếu vượng lại đồng cung với Tử vi, thì Hỏa tinh sẽ thần phục trước Đế tọa mà giảm bớt sức phá hoại. Hỏa tinh tốt nhất là được đồng cung với sao Tham lang nhập miếu tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, sẽ tạo thành cách Hỏa Tham, nếu cả hai sao cùng nhập miếu thì chúng sẽ kiềm chế lẫn nhau để phát huy tính thiện, ức chế tính ác nên thường sẽ gặp thời cơ tốt để phát triển nhanh chóng. Nếu lại gặp sao Hóa Lộc của Tham lang (năm Mậu), sẽ chủ về đại phú quý, có được uy quyền nhanh chóng.
Hỏa tinh đứng một mình tại cung Mệnh, dù là nam hay nữ, đều chủ về có những thiên hướng phát triển đặc thù, sự nghiệp có thành tựu, nhưng khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Hỏa tinh nhập miếu, lại có được sáu Cát tinh bổ trợ, thì càng thêm cát lợi. Nếu không, thường là chóng phất chóng bại, nữ mệnh hôn nhân trắc trở. Do sức mạnh của Hỏa tinh quá lớn, nên ngoài các sao Tử vi, Thất sát, Tham lang, Kình dương, những sao khác nếu gặp phải Hỏa tinh đều tăng thêm phần gian nan trắc trở, neus những sao đó còn thêm lạc hãm thì mức độ bất lợi càng trở nên nghiêm trọng.
Linh Tinh
Thuộc tính ngũ hành của Linh tinh là âm hỏa, là sát tinh thứ hai trong chòm Nam Đẩu, hóa khí là sátchủ về tính liệt.Tính chất của Linh tinh cũng tương tự như Hỏa tinh, nhưng uy và lực không bằng Hỏa tinh, có phần hư nhược, nhưng nếu không gặp Tử vi, Thất sát, Tham lang chế phục, vẫn chủ về thủa nhỏ nhiều tai họa bệnh tật, khó nuôi, cần phải đổi họ, cho làm con nuôi. Nếu không được Cát tinh phù trợ, lại bị Sát tinh công phá, dễ dẫn đến tàn tật.
Nếu Linh tinh đồng cung với Tử vi nhập miếu, thì Linh tinh sẽ thần phục Đế tinh mà giảm thiểu tai hại. Nếu Linh tinh đồng cung với Thất sát, sẽ bị chế ngự trước quyền và uy của Thất sát mà giảm bớt lực phá hoại. Linh tinh nếu rơi vào Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và đồng cung với Tham lang nhập miếu sẽ tạo thành cách Linh Tham, cả hai đều nhập miếu sẽ tương tác bổ trợ lẫn nhau, thường gặp cơ hội tốt để phát triển mạnh, nếu như lại gặp sao Hóa Lộc của Tham lang, sẽ được tài đột ngột làm nên sự nghiệp.
Nếu Linh tinh đứng một mình tại cung Mệnh, dù là nam hay nữ, đều chủ về có thành tựu đặc thù cho sự nghiệp, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả. Nếu Linh tinh miếu vượng, tại cung Tam phương Tứ chính có chủ tinh tốt đẹp đắc địa, hoặc sáu Cát tinh hiệp trợ thì sẽ càng cát lợi., nếu không dễ chóng phát chóng bại, tai họa triền miên, mệnh nữ hôn nhân nhiều trắc trở. Ngoài các sao Tử vi, Thất sát, Tham lang, những sao khác nếu gặp phải Linh tinh sẽ chuốc thêm nhiều trắc trở gian nan, đặc biệt khi chúng lạc hãm thì lại càng thêm bất lợi.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Thiên cơ - Phan Tử Ngư
Thiên cơ thuộc âm mộc, sao thứ ba của nhóm Nam Đẩu, là sao ích thọ, chủ về anh em, hóa khí gọi là thiệnnên còn gọi là Thiện Tú(sao Thiện). Thiên cơ nhập miếu, vượng thì người đậm mập, gặp hãm địa thì người gầy ốm. Tính cách phần nhiều tính toán sáng suốt, siêng năng cẩn thận, nếu đồng cung với Thiên lương thủ Thân Mệnh thì phần nhiều là người nói hay, giỏi biện luận, đủ tố chất thành tài ở ngành nghề cần tới sự khéo léo đặc biệt, tâm địa thiện lương, có lòng tín ngưỡng đối với tôn giáo. Nếu thêm Khôi Việt Khúc Xương thì chủ về đa học đa năng, nếu có Kình dương xung phá hoặc hội thêm Không Kiếp thì rất cô độc, hoặc là mệnh sư tăng đạo sĩ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Thiên cơ - Vương Đình Chi
Sao Thiên cơ miếu ở Tý Ngọ, hãm ở Sửu Mùi.
Sao Thiên cơ là sao thứ nhất của Nam Đẩu, ngũ hành thuộc âm mộc, hóa khí là"thiện"(khéo léo).
Tính chất cơ bản của Thiên cơ là mưu trí, quyền biến và linh hoạt, có thể ví với mưu sĩ hoặc quân sư.
Nói về phương diện tốt, Thiên cơ chủ về thông minh, nhạy bén, xử sự có mạch lạc lớp lang, cho nên học hành giỏi giang, có thể trở thành người đa tài đa nghệ. Nhờ đặc tính thông minh, nhạy bén với thời cuộc, người Thiên cơ là người khi lâm sự thường phản ứng nhanh, lại khéo ăn khéo ở. Do những đặc tính này, Thiên cơ có phẩm cách về trí tuệ, giỏi động não sở trường về phân tích và vạch kế sách, kiêm có kỹ năng chuyên môn. Đây đều là đặc tính mưu thần và quân sư.
Nói về phương diện khuyết điểm, Thiên cơ có đặc tính hay lo nghĩ quá đáng, thường lao tâm khổ tứ. Cho nên, có biểu hiện không thể kiên trì trong một kế hoạch. Bởi vì, khi tiến hành theo kế hoạch tới một giai đoạn nào đó, người Thiên cơ sẽ vì suy nghĩ tính toán quá nhiều nên muốn thay đổi kế hoạch. Nói cụ thể hơn, người có Thiên cơ thủ cung Mệnh dễ có tính đứng núi này trông núi nọ, học nhiều mà không thực tế, tâm dục đặt mục tiêu quá cao.
Thiên cơ thủ Mệnh không nên kinh doanh làm ăn, đặc biệt không nên tự sáng lập sự nghiệp, mà chỉ nên làm việc lập kế sách. Nếu không, khi tự kinh doanh, sẽ dễ vì động não quá nhanh mà không kiên trì theo đuổi mục đích ban đầu, thường dẫn đến rối loạn sự đồng thuận ở giai đoạn cuối nên hiệu quả không mang lại giá trị cao nhất, đôi khi còn dẫn đến thất bại.
Thiên cơ khác với Tử vi, nó không có khí quý phái của bậc hoàng đế, cho nên sức đề kháng và hóa giải các sao hung, sát, kị, hình, rất yếu. Thiên cơ rất ngại Hóa Kị, khi hóa Kị khiến cho những ưu điểm của Thiên cơ rất khó được phát huy, trong khi khuyết điểm lại bị bộc phát hoàn toàn.
Thiên cơ cũng tương phản với Tử vi ở chỗ không kị gặp Cự môn, khi Cự môn gây ảnh hưởng đối với Thiên cơ, chỉ là dễ xảy ra điều tiếng thị phi sau lưng, nhất là sai lầm về những phát ngôn thuộc quá khứ của Thiên cơ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Tử vi - Chu Vân Sơn
Vận gặp Tử vi chủ về thăng tiến, gặp được cơ hội tốt. Tử vi thuộc âm thổ.
Ưu điểm: Là người có nhiều kinh nghiệm, làm việc cẩn trọng, thẳng thắn khẳng khái, có lễ độ thiếu thuận lại hiếu khách. Là người giao thiệp rộng, một đời nhiều quý nhân phù trợ. Học nhiều đa tài, nhưng không chuyên vào một nghề nhất định nào, có trí tuệ khả năng ứng biến linh hoạt.
Khuyết điểm: Là người dễ chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, thường tin và nghe theo ý kiến của người khác, nên dễ thay đổi, đa nghi, tâm địa có lúc hẹp hòi, thích quyền hành, dễ bị lung lạc bởi tình cảm.
Mệnh nữ có sao Tử vi: thường đòi hỏi công việc ở mức độ cao, không thích làm việc nhà. Nếu ở Tý Ngọ thì đặc điểm này càng hiện rõ.
Tử vi không nên nhập cung Huynh đệ, Tử nữ, Nô bộc, Tật ách, Phụ mẫu - thường chủ về một đời vất vả.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Tử vi - Phan Tử Ngư
Sao Tử vi là chí tôn, còn có tên là Đế tọa, chuyên chủ về quan lộc, tức là sao của sự nghiệp, thuộc âm thổ. Ở Số thì chuyên chủ về chức tước, có khả năng giải nguy, kéo dài tuổi thọ, chuyên chính chế hóa. Hợp với Tả phụ, Hữu bật ở"tam phương tứ chính"để phò tá, hợp với Thiên tướng, Văn xương, Văn khúc để làm bộ tùng, hợp với Thiên khôi, Thiên việt để truyền lệnh tới Nhật Nguyệt triển khai sự việc trong tam giới.
Tử vi nhập cung Thân hoặc cung Mệnh, chủ về người có hình dạng tướng mạo đôn hậu, khiêm cung mà chính trực, tính tình cương nhu giúp nhau. Tuy là người trung hậu nhưng tâm địa mang tính độc tôn mà có phần hẹp hòi, dễ bị mềm lòng. Thị hiếu đa dạng, thường muốn làm gì thì làm bất chấp tất cả, nhằm thỏa mãn dục tính và tâm tính.
Tử vi nếu không gặp Tả phụ và Hữu bật là cô quân (vua cô độc), không thể là hạng quý phái, đông thành tây bại, có thành có bại nên nhiều lao nhọc, càng kỵ khi gặp Lục sát vậy chiếu, đời người sẽ có nhiều thương tật, thậm chí tàn phế, hoặc chết không an lành. Khi nhập đại tiểu hạn trong trường hợp này, nếu là quân nhân phần nhiều hy sinh anh dũng, nếu là thường dân thường cũng sẽ vì cứu người mà hy sinh, được tôn vinh sau khi chết.
Tử vi được Lộc tồn, Thiên mã, Văn xương, Văn khúc, Thiên khôi, Thiên việt, Thiên phủ, Thiên tướng ..., tam phương hội hợp thì đại phú đại quý, sẽ có thành tựu, phát tài bất ngờ. Nếu cát tinh ít mà sát tinh nhiều, thì không luận như vậy, thường gặp nhiều trắc trở bất lợi.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Tử vi ở cung Mệnh - Lục Bân Triệu
Sao Tử vi ở cung Mệnh thì chủ về người có sắc mặt đỏ tía, hoặc vàng trắng, lúc tuổi già sắc thái đỏ vàng hoặc tía; eo lưng mập dày, thân thể cao trung bình; mặt dài gầy mà có kèm tròn, tính tình trung hậu hào sảng, song hay đi chơi, di chuyển bất định; chí khí cao ngạo, tính tình quật cường; có thể biến sát khí của Thất sát thành quyền uy; có thể biến cái khí bất tường của Hỏa tinh và Linh tinh thành sự trung hòa.
Tử vi hội chiếu với các sao Thiên phủ, Thiên tướng, Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã, Hóa lộc, Hóa quyền, Hóa khoa mà ở cung vị nhập miếutất sẽ phú quý xong toàn.
Nếu Tử vi có Lộc Mã giao trì, mà không có Không Kiếp, thì càng chủ về đại phú đại quý.
Nếu như không có các sao như Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc vây chiếu, đồng thời Tử vi ở ngôi vị không miếu, đó chính là vị quân vương ở nơi hoang vắng, trở thành vị vua cô độc. Chủ về người có tính tình cô độc, tư tưởng siêu thoát, có thể xuất thế làm tăng, hoặc làm đạo sỹ tìm cầu chân lý.
Tử vi đồng cung hoặc hội chiếu với Phá quân, không có sát tinh, thì nên mưu tính phát triển trong chính giới. Nếu hội chiếu với Lộc tồn, Thiên mã thì có thể buôn bán kinh doanh phát đạt, song nên kinh doanh đến ngành nghề có liên quan đến công cộng hoặc công việc hành chính.
Nếu Tử vi bay đến Thìn địa và Tuất địa thì cuộc đời nhiều trắc trở, có thể phú mà không thể đại quý, hoặc là quý mà không thể đại phú. Sự việc không đươc song toàn, phân nửa là hư không vậy.
Mệnh của người làm ăn kinh doanh bình thường, mà có 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh cùng tới, chỉ cần sao Tử vi nhập miếu hoặc có Cát tinh khác hội chiếu, cũng có thể phát tài, song phiền nhiễu rắc rối, miệng lưỡi thị phi rất nhiều. Hội chiếu với Kình dương lạc hãm thì chủ về hay gặp miệng tiếng thị phi, kiện cáo.
Sao Tử vi ở cung mệnh, hiện tượng rất phổ biến là tai thì mềm mà lòng hay thay đổi, có thói quen thích đủ thứ.
Nữ mệnh có Thiên phủ và sao phụ cát hội chiếu là mệnh của một vị phu nhân danh giá. Nếu có Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp chiếu hội, lại có thêm Phá quân vây chiếu, thì một đời tự tung tự tác, tuy có phát tài, song khó tránh khỏi dâm ô nhiều chồng. Ở cung Phu mà có sao Tử vi bay đến, thêm Thiên phủ và sao phụ cát cũng chủ về chồng vinh, con quý.
Lưu niên, đại hạn mà có sao Tử vi đến, thì chủ về phúc nhiều lộc hậu, ở thương trường chủ về phát triển, làm quan thì được thăng chức, gặp nhiều cơ hội. Có Thiên phủ đồng độ càng được quý nhân giúp đỡ, đột nhiên danh lợi đều thu về. Nếu có Phá quân đồng độ hay chiếu hội, thì có ý nghĩa bỏ cũ thay mới. Gặp Địa không Địa kiếp, Thiên hao là có khó khăn về kinh tế, gặp những bất lợi như phá tài, đình trệ. Tương hội Kình Đà Hỏa Linh thì càng lo lắng hảo, tranh chấp, bị giáng chức, mất việc làm.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Tử vi - Lục Bân Triệu
Sao Tử vi trong Âm dương Ngũ hành thuộc Âm Thổ, là sao chính của chòm sao Bắc Đẩu, ở trên trời là một sao cao quý thì chủ về nắm quyền tạo hóa trong vũ trụ và đời sống của mỗi vật chất cá nhân. Cho nên, trong truyền thống tư tưởng của người Trung Hoa, sao Tử vi là Đế tinh, là tượng trưng cho Hoàng đế. Bởi vì vua của một nước, nên việc nắm đại quyền sinh sát, địa vị và quyền hạn đều chí cao vô thượng, đây là điều không thể nghi ngờ.
Bất luận đó là vị vua hiền đức vì dân vì nước, hay là một ông vua bạo ngược vô đạo, thì người dân đều buộc phải kính sợ. Cho nên, bất kể trong lòng suy nghĩ thế nào, nhưng ngoài mặt vẫn phải ca tụng công đức. Vì vậy, sao Tử vi có tính cách tự cao tự đại, đồng thời còn có lòng ích kỉ, yêu thích người nào thì người đó sống, ghét ai rồi thì chỉ muốn cho kẻ đó chết.
Trong tưởng tượng của chúng ta, tình cảnh của Hoàng đế như đã nói ở trên, đương nhiên là chỉ có mặt tốt, mà vĩnh viễn không có mặt xấu. Nhưng, lịch sử đã mách bảo tường tận cho chúng ta biết, sự tao ngộ của Hoàng Đế có thể chia làm hai phương diện dọc và ngang để nghiên cứu.
Về phương diện dọc có thể chia ra: có vị quân vương sáng lập nên cơ nghiệp; có vị quân vương ở vào thời kỳ hưng thịnh quốc thái dân an (quốc bĩ dân nguy); cũng có vị quân vương đông tranh tây chiến, nước nghèo nhiều tai ương; lại có vị quân vương gặp phải cảnh thê thảm, nước mất nhà tan.
Về phương diên ngang có thể chia ra: có vị quân vương được văn võ bá quan ủng hộ ở triều đường; có vị quân vương rời xa quần thần, xa lánh triều chính.
Một vị quân vương sở dĩ sử dụng được uy quyền là vì được bá quan ủng hộ, ngồi cao trên miếu đường, một tiếng hô trăm tiếng dạ vâng, tất cả mọi khó khăn nguy hiểm đều do văn võ bá quan hiệp sức phù trợ xử lý và dốc toàn lực bảo vệ. Nếu như một sớm một chiều xa rời quần thần, không vận dụng được quyền uy thì dù chỉ là một thường dân cũng có thể phản kháng hoặc có khi còn làm cho ô nhục.
Như trong tiểu thuyết xưa, thường kể có những vị hoàng đế đi xuống Giang nam, bị bọn phỉ bắt giam trong nhà lao chịu tội. Đương nhiên đây không phải là để nghiên cứu tính chân thực trong tiểu thuyết, song ở đây rất rõ ràng một điều là, hoàng đế mà rời khỏi sự bảo vệ của quân thần võ sỹ, rời xa triều đình là sẽ gặp khốn khó ngay. Trong môn Tử Vi Đẩu Số, sao Tử vi tượng trưng cho hoàng đế, cho nên mọi chuyện và phản ứng của sao Tử vi cũng có thể luận như vậy.
Ngoại trừ việc nghiên cứu về miếu, vượng, lạc, hãmcủa sao Tử vi, còn cần phải sưu tra văn võ bá quan của nó, như: Tử phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Văn xương, Văn khúc, Tam thai, Bát tọa, Lộc tồn, Thiên mã, ... xem có đồng độ hoặc hội chiếu hay không. Bởi vì tụ hội được các cát tinh phù trợ này thì sao Tử vi có thể sẽ tác oai tác phúc, không có gì là không lợi. Nếu không có cát tinh, mà lại tụ hội với các hung tinh ác sát, tức là cục diện bị người tài giỏi trung thành xa lìa, kẻ tiểu nhân lộng quyền, hoặc là tình hình tiểu nhân thì ở triều đình, mà quân vương thì ở bên ngoài, thế là tai họa liên miên thì chủ về là con người tâm ý giả dối, gian trá giảo hoạt.
Thất sát nếu đồng độ với Tử vi, có sát tinh hội chiếu, thì sự cương dũng của sao Thất sát sẽ trở thành anh hùng có đất dụng võ, biến sát thành quyềnthì chủ về người có quyền có thế, nếu không có cát tinh hội chiếu tức là bá đạo thảo khấu thì chủ về người dễ thành công bất ngờ mà cũng dễ bị phá bại bất ngờ.
Ba sao Thiên tướng, Lộc tồn, Thiên mã hội chiếu sao Tử vi mà không có ác sát Không Kiếp đồng cung, là chủ về một đời phú quý song toàn.
Sao Tử vi nếu ở cung Thiên la Địa võng, xung cung là Phá quân, không có cát tinh phụ diệu hội chiếu, đó gọi là không có tình nghĩa. Bởi vì, Phá quân có ý nghĩa xung phong hãm trận, tiên phong phá địch, sau khi nhận lệnh của hoàng đế ở xung cung thì chỉ biết làm theo quân lệnh, ngoài ra không còn quan tâm đến bất kể việc gì khác, mọi thứ đều không ngó ngàng tới, xa lìa gia đình, chỉ lo giết giặc, cho nên mới gọi là vô tình vô nghĩa. Đối với người, là chủ về: hoặc tinh thần bị kích thích, hoặc tâm trạng không được khỏe mạnh. Nếu có cát tinh hội chiếu, tuy là có thể biến vô tình thành hữu tình, song người đó cuộc đời ba chìm bảy nổi quyết không thể bình thường được. Đồng thời, trong lúc vô tình hay hữu ý, về phương diện tình nghĩa, có lúc còn có biểu hiện bạc bẽo.
Bổ chú: (Lục Tại Điền hậu duệ của Lục Bân Triệu)
- Tả phụ và Hữu bật làm tăng trợ lực cho Tử vi, khiến mệnh tạo rất có năng lực lãnh đạo, sự nghiệp có biểu hiện kiệt xuất.
- Thiên khôi và Thiên việt làm tăng cơ hội cho Tử vi, sự nghiệp thuận lợi thường kiến tạo nên cục diện rất lớn.
- Văn xương và Văn khúc làm tăng tài chí cho Tử vi, nhờ đó có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, thể hiện được tố chất là vị quân chủ anh minh. Có điều chỉ có Xương Khúc phù tá Tử vi, mà không có Tả Hữu Khôi Việt, thì thường dẫn đến phong lưu đa tình.
- Lộc tồn và Thiên mã làm tăng Tài vận cho Tử vi, chủ về tăng năng lực kiếm tiền. Chỉ thấy Lộc tồn mà không thấy Thiên mã thì chỉ giỏi về cất giữ, để dành tiền bạc, năng lực kiếm tiền e không đủ, nhưng vẫn có thể là người có tài sản vào bậc trung. Cung mệnh mà thấy Lộc Mã là thích hợp với kinh doanh thương mại.
- Đài phụ và Phong cáo làm tăng danh tiếng cho Tử vi, nếu phối hợp với Tả Hữu, thì trợ lực và năng lực lãnh đạo của Tử vi được tăng cường rất nhiều.
- Tam thai và Bát tọa, về tính chất so với Đài phụ và Phong cáo không khác mấy, nhưng sức mạnh thì không bằng. Chúng cũng ưa hội và hợp với Tả Hữu làm cho càng mạnh thêm.
- Ân quang và Thiên quý làm tăng danh dự cho Tử vi, được người người hoan nghênh, song nếu chỉ thấy hai sao này mà không thấy các Cát tinh khác, thì chỉ được hư danh mà thiếu lợi lộc thực tế.
- Long trì và Phượng các làm tăng tài nghệ cho Tử vi, nhất là về phương diện thủ công nghệ.
- Thiên quan làm tăng sự ổn định cho sự nghiệp, Thiên phúc thì nâng cao năng lực hưởng phúc.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Thiên khôi và Thiên việt - Toàn thư
Thiên Khôi
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên khôi là dương hỏa, là trợ tinh thứ nhất của chom sao Nam Đẩu, hóa khí là dương quý, tức những người sinh vào năm dương và sinh vào ban ngày, thì sẽ có nhiều quý khí hơn, còn được gọi là Thiên Ất quý nhân.
Sao Thiên khôi cũng là một trong sáu Cát tinh, tục gọi là sao Quý nhân, quý nhân ở đây không phải chỉ người hiển quý, mà chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm trong những thời điểm thích hợp, đều được gọi là Quý nhân.
Quý nhân được tượng trưng bởi sao Thiên khôi có thể gặp hung hóa cát, hơn nữa, thường xuất hiện một cách tự nhiên, không cần phải bỏ công tìm kiếm, những khó khăn trở ngại gặp phải thường được hóa giải một cách nhẹ nhàng, tự nhiên. Cho đến khi người gặp nạn bình yên vô sự, mới cảm nhận được sự phù hộ ngầm ẩn của quý nhân.
Cái quý của sao Thiên khôi thường được bộc lộ vào trước 40 tuổi, tất cả các cung vị và các sao đều ưa thích gặp được Thiên khôi để trợ giúp. Vận và hạn gặp Thiên khôi chẳng khác nào được quý nhân phù hộ, nâng đỡ trong hầu khắp các lĩnh vực thì cử, cầu tài, cầu chức, công tác ..., mọi sự đều thuận lợi thành công. Sau năm 40 tuổi, dù là nam hay nữ, đại tiểu hạn và lưu niên nếu gặp Thiên khôi, sẽ thường trở thành quý nhân cho người khác, tức có thể nâng đỡ, làm lợi cho người khác.
Thiên Việt
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên việt là âm thủy, là trợ tinh thứ hai trong chòm Nam Đẩu, hóa khí là âm quý, tức người sinh năm âm hoặc sinh ban đêm sẽ có quý khí, còn có tên gọi là Ngọc Đường quý nhân.
Sao Thiên việt cũng là một trong sáu Cát tinh, tương tự như sao Thiên khôi cũng là một quý nhân, quý nhân ở đây cũng không hẳn là chỉ người hiển quý, mà đây để chỉ những người có thể giúp đỡ, chỉ điểm cho mình trong những thời điểm thích hợp.
Cũng tương tự như sao Hữu bật, sao Thiên việt cũng có tính đào hoa (thủy âm) nên thường gặp được quý nhân khác giới, hơn nữa, thường nảy sinh tình cảm với vị quý nhân này.
Quý nhân của sao Thiên việt cũng thường đem lại những giúp đỡ mang tính tự nhiên, không dễ nhận biết, thường ngãu nhiên mà ngầm ẩn, gián tiếp.
Các sao khác nếu gặp được sao Thiên việt, chỉ cần không có Sát tinh ở tam phương hội chiếu, sẽ thường xuyên được quý nhân giúp đỡ, nên mọi việc gặp nhiều thuận lợi.
Sau năm 40 tuổi, sao Thiên việt dần dần mất đi sức mạnh của quý nhân, mặt khác, lại dễ gặp phải trở ngại và rắc rối, nếu lại nằm đồng cung với Hồng loan, dễ trở thành cách Đào hoa hồ đồ, thường vì thiếu tỉnh táo mà nảy sinh những rắc rối về tình cảm với người khác giới. Chỉ có những chủ tinh có lực, hoặc sát tinh miếu vượng, mới có thể thức tỉnh được cách Đào hoa hồ đồ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Thiên Đồng - can Canh hóa thành sao Kị
Tính chất của Thiên Đồng cơ bản là miêu tả về tâm trạng, cho nên lúc hóa thành sao Kị, ý nghĩa phổ biến là"tâm trạng không ổn định", nếu Thiên đồng nhập miếu thì càng đúng, vì vậy không phải là tai vạ.
Thiên Đồng chủ về tay trắng làm nên, ý vị mở rộng là trung niên ắt sẽ có một khoảng thời gian gian khổ, sau khi Thiên Đồng hóa Kị sẽ làm mạnh thêm ý vị này. Do đó, thường thường biểu trưng cho tuổi trẻ có gia cảnh không tệ, đột nhiên mọi thứ thay đổi, thế là phải sống độc lập, trải qua gian khổ của cuộc đời.
Thiên Đồng còn là sao"tình cảm", sau khi Hóa Kị thường chủ về xảy ra tình huống rắc rối khó xử về"tình cảm", có tình yêu không bình thường nên đau khổ vì tình, trong tình cảnh này mệnh tạo thường thường khó tự động đứng lên, vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp.
Thiên Đồng hóa Kị ở cung lạc hãm, đây là tâm trạng không yên, tinh thần xuống thấp (suy sụp), do đó không có cách nào chuyên tâm phát triển sự nghiệp. Thường thường còn biểu trưng cho"Lý tưởng vượt quá hiện thực", vì vậy mà đời người theo đuổi"lý tưởng"rất lao khổ. Nếu có các sao Sát - Hình trùng trùng, thì tâm lý bị mất quân bình, trở thành đa nghi mà chịu nhiều lo lắng.
Thiên Đồng hóa thành sao Kị thường thường biểu trưng cho hội chứng"suy nhược thần kinh", cũng tức là nói"âm hư","khí hư"mà cổ nhân đã nói.
"Thiên đồng Thái âm"đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ (ở cung Tý còn gặp Lộc tồn), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với"Thiên cơ Thiên lương", và mượn"Thái dương Cự môn"để nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở cung Tý là cung vượng, ưu hơn ở cung Ngọ, nên không sợ bị Hóa Kị quấy rối.
"Thiên đồng Thái âm"ở cung Ngọ đều bị lạc hãm, khi Thiên Đồng hóa Kị thường biểu trưng cho lo nghĩ nghi ngờ không có căn cứ, có thể dẫn đến hội chứng"suy nhược thần kinh", lại còn tự chuốc lấy rắc rối về tình cảm, dẫn đến xảy ra những phiền phức không cần thiết.
Nữ mệnh chủ về rất ưa phấn son, trang điểm, trải chuốt, nhưng phẩm chất không tốt.
Bất kể là nam mệnh hay nữ mệnh gặp tinh hệ này, đều biểu trưng cho kiếm tiền không thuận lợi, có lúc còn vì phản ứng quá mẫn cảm mà dẫn đến những trắc trở không cần thiết, nhưng tài lộc vẫn không lo bị thiếu.
"Thiên đồng Cự môn"đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì đồng độ với Đà la, ở cung Sửu thì bị Kình dương Đà la hội chiếu), Thiên Đồng hóa Kị, tam phương hội hợp với Thiên Cơ độc tọa, và"Thái dương Thiên lương"mà Thái Dương hóa Lộc.
Thiên Đồng ở hai cung này là lạc hãm, lúc Hóa Kị rất dễ gây ra sóng gió, trắc trở, và rắc rối khó xử trong tình cảm, do đó dẫn đến"điều tiếng thị phi". Còn chủ về dễ mắc chứng viêm đau thần kinh, như thoái hóa đốt sống làm đau dây thần kinh. Lúc có Hỏa tinh Linh tinh đồng độ là dễ bị"trúng phong", thậm chí có thể"bán thân bất toại".
Do có tinh hệ"Thái dương Thiên lương"hội hợp, mà Thái Dương hóa Lộc, vì vậy cũng thích hợp nghiên cứu học thuật. Thiên Đồng hóa Kị càng biểu trưng cho tâm tư lo nghĩ lúc nghiên cứu, nhưng vẫn cần chú ý sức khỏe.
"Thiên đồng Thiên lương"đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương hội hợp với thái âm độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Nếu không có Hỏa tinh, Linh tinh, Địa không, Địa kiếp đồng độ, sẽ chủ về mệnh tạo tay trắng kiếm tiền, nhưng phải hao tổn tinh thần. Nếu có Sát tinh, thì biểu trưng cho tâm trạng không yên một nghề, không chuyên nhất theo một ngành nghề mà thường thay đổi. Vì vậy mà ảnh hưởng đến sự ổn định của cuộc sống.
Đặc biệt là lúc có Địa không, Địa kiếp đồng độ, không ai hiểu được tư tưởng của mệnh tạo, do đó xử sự không hòa hợp. Thiên đồng ở cung Thân là cung vượng, tốt hơn ở cung Dần.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu thì đồng độ với Kình dương, ở cung Mão thì bị Kinh dương Đà la chiếu xạ), đối cung là Thái Âm độc tọa, tam phương hội hợp với Cự môn độc tọa và Thiên Cơ độc tọa.
Đây cũng là tinh hệ nhiều lo nghĩ, nghi ngờ, nên cũng chủ về có khuynh hướng"suy nhược thần kinh". Kiếm tiền phải hao tổn tinh thần, sự nghiệp nhiều biến động thay đổi, là đặc điểm của tinh hệ này.
Ngoài ta, tinh hệ này còn dễ chuốc"đố kị","điều tiếng thị phi", thường thường là do mệnh tạo cố tránh"điều tiếng thị phi"mà ra, đúng với câu nói"càng sợ thì càng gặp nhiều". Nhưng Thiên Đồng ở cung Mão là nhập miếu, chỉ chủ về có tâm trạng không ổn định, ưu hơn ở cung Dậu.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn được hội Lộc tồn), đối cung là Cự Môn, tam phương hội hợp với Thiên Lương độc tọa và"Thái âm Thiên cơ"
Hai cung Thìn và Tuất là"Thiên la Địa võng", lúc Thiên Đồng hóa Kị sẽ biến thành lực kích phát, do đó thường là cách"phản bối", có thể không thành cách"phản bối"nhưng cũng chủ về nhờ trải qua nhiều biến động thay đổi mà thành người hữu dụng.
Ở cung Thìn ưu hơn ở cung Tuất, biến động thay đổi trong đời người cũng ít hơn, biên độ biến động thay đổi cũng nhỏ hơn. Hơn nữa thường lại được phát triển một cách thiết thực, và dễ gặp cơ hội phát đạt đột ngột, có ý vị"vô tình cắm liễu, liễu xanh um".
Ở cung Tuất còn chủ về các bệnh viêm đau thần kinh, thống phong, ở cung Thìn thì nhẹ hơn.
Thiên Đồng độc tọa hóa Kị ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên Lương, tam phương hội hợp với"Thiên cơ Cự môn", và mượn"Thái dương Thái âm"nhập cung mà Thái Dương hóa Lộc. Tinh hệ này"tam phương tứ chính"đều gặp Kình dương hoặc Đà la.
Thiên Đồng ở hai cung Tị hoặc Hợi là nhập miếu, Hóa Kị chỉ làm tăng"tâm trạng không ổn định".
Nhưng có lúc"tâm trạng không ổn định"này, có thể chuyển biến thành bất mãn với người phối ngẫu. Nữ mệnh thường dễ vì ham muốn hư vinh mà xảy ra sự cố, gây nên sóng gió trắc trở trong đời sống tình cảm và hôn nhân. Nếu có các sao đào hoa trùng trùng, thì nên kết hôn muộn, nếu không sau khi kết hôn dễ thay đổi tình cảm.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Văn Khúc - can Kỷ hóa thành sao Kị
Văn khúc hóa Kị, ý nghĩa cơ bản là thiếu văn hóa, bản chất của Văn khúc vì hóa Kị mà bị trắc trở.
Văn khúc là biểu trưng cho tài ăn nói, Hóa Kị thì nói năng sai lầm.
Văn khúc biểu trưng cho văn thư, hợp đồng. Hóa Kị thì văn thư phạm sai lầm, do đó mà gây ra phiền phức, thậm chí còn bị tổn thất.
Văn khúc thường thường còn biểu trưng cho người khác giới để mắt, Hóa Kị thì vì vậy gây ra sóng gió, hoặc gây ra hiểu lầm không cần thiết trong sinh hoạt tình cảm. Có sát tinh nặng, thì biểu trưng cho là khó phát triển tình cảm với người khác giới.
Văn khúc là tài nghệ tinh, Hóa Kị thì lại không có liên quan về phương diện tài năng.
Văn khúc là thiên tài ngôn ngữ, Hóa Kị thì tiêu trừ năng khiếu này. Có sát tinh nặng, thì có thể nói cà răm, nói lắp, có lúc còn làm cho người khác phê bình chỉ trích.
Văn khúc còn mang sác thái kim tiền, Hóa Kị thì tổn thất tiền bạc. Cần phải xem xét các sao hội hợp mà định, như thu lầm chi phiếu không có tiền bảo chứng, hoặc bị lừa, bị hại. Những điều có tính vật chất này, không có ở Văn Xương hóa Kị.
Văn khúc hóa Kị, còn dễ xảy ra tình huống bị tình cảm và tiền bạc cùng gây lụy.
Văn khúc hóa Kị, còn chủ về dễ rơi vào ảo tưởng, mà còn chấp trước ảo tưởng, do đó nảy sinh cảm giác có tài mà không gặp thời.
Trên là thuật những nguyên tắc cơ bản, cần xem xét thêm các sao hội hợp mà định tình huống cụ thể.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Văn xương Văn khúc hợp luận - Đại Toàn
Văn Xương (tức văn quế) thuộc Kim, Nam Đẩu, chủ khoa giáp, là sao đỗ đầu văn.
Văn Khúc (tức văn hoa) thuộc Thủy, Bắc Đẩu, sao chủ khoa giáp. Hai sao này nhập miếu ở Tỵ Dậu Sửu, Dần Ngọ Tuất lạc hãm.
Người có Văn Xương hay Văn Khúc nhập Mệnh cung, mày thanh mắt đẹp, nho nhã, có phong thái của danh sĩ, học rộng nhớ nhiều, thông minh ham học, có tinh thần nghiên cứu, cơ biến dị thường, có thể tranh biện, cũng dễ dàng thành công, thân vinh quý hiển, một đời phúc thọ song toàn, dù bị Tứ Sát xung phá, cũng không hạ tiện.
Xương Khúc nhập Mệnh là người có hứng thú ưa thích văn học nghệ thuật như thơ ca, tản văn, âm nhạc, hội họa, nhảy múa, diễn tấu, học thuật, kĩ nghệ... khả năng biểu đạt cao. Văn Khúc còn mang ý nghĩa đào hoa, Văn Xương thì không.
Nữ mệnh có Xương Khúc nhập Mệnh, dung mạo xinh đẹp, thân hình đẹp, đa tài đa nghệ, nhu cầu đời sống tình dục cao, tuy rằng phú quý nhưng cũng chủ tâm tư phức tạp hay tưởng tượng, có vướng mắc về tình cảm với nam giới. Nhập miếu bình thường, hội cát tinh phú quý. Hãm địa hội Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Cự Môn, Thiên Cơ, Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Hóa Kỵ xung phá thì hạ tiện, nghèo, dâm dục.
文昌 - Văn Xương
Văn Xương chủ người đoan trang thanh tú, kiến thức rộng, đầu óc mẫn thiệp, phúc thọ đều có. Nhập cung miếu vượng thì trên người có nốt ruồi kín, đa phần là nốt ruồi son, nốt ruồi đen thì cũng không xấu, ở cung Ngọ Tuất hãm địa, thân thể có vết lốm đốm, người gầy.
Văn Xương thủ Mệnh, nhập miếu hội nhiều cát tinh, công danh hiển hách, đặc biệt hỉ đồng cung với Văn Khúc
Văn Xương hỉ người Kim tứ cục, phú quý song toàn, trước khó sau dễ, trung vãn niên có danh tiếng.
Văn Xương thủ Mệnh, hãm địa hội nhiều hung tinh, cũng chủ mồm mép, cơ xảo, bản lĩnh hơn người.
Văn Xương hội Thái Dương, Thiên Lương, Thiên Đồng, Lộc Tồn, có thể phát huy tài năng về phương diện văn hóa, học thuật, nghệ thuật, quản lý, chủ phú quý.
Văn Xương Vũ Khúc thủ Thân Mệnh cung, văn võ kiêm toàn, có tài cán nổi bật, nếu làm về văn hóa, chính trị, thương nghiệp có thể đứng đầu.
Văn Xương đồng thủ với Kình Dương, lại có Liêm Trinh, Thất Sát đồng thủ thì chủ người gian trá giả dối.
Văn Xương Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo, rối rắm.
Văn Xương Tham Lang thủ Mệnh ở cung Tỵ Hợi, hội sát tinh Hóa Kỵ, chủ xương cốt vỡ vụn, chết yểu.
Văn Xương Cự Môn đồng cung, mất ý chí, gặp hạn trắc trở thì chán chường hoặc có lúc gió chiều nào xoay theo chiều đó.
Văn Xương Phá Quân đồng cung, chỉ tai nạn đường thủy, ví dụ như chết đuối, hoặc bị bệnh về đường tiết niệu, sinh sản hay gan thận.
Văn Xương, Tả Phụ hội cát tinh, có thể làm quan to.
Văn Xương Hóa Khoa ở Mệnh, chủ người học hành ưu tú, có tài hoa và kiến thức, thi cử có tên bảng vàng.
Văn Xương củng chiếu với Hóa Khoa, lợi cho việc thi cử, có tên bảng vàng. Hoặc Văn Xương ở cung quan lộc Hóa Khoa cũng vậy.
Văn Xương hãm và Thiên Tướng, chết yểu. (Mệnh có Kiếp Không Dương Đà, hạn có Thất Sát Dương Đà thì luận như trên)
Văn Xương Hóa Kỵ ở Mệnh, cũng chủ người hiếu học, nhưng có trở ngại trong học tập, miếu vượng Hóa Kỵ tai nạn nhỏ, hãm địa gặp Hóa Kỵ thì tai nạn lớn.
文曲 - Văn Khúc
Văn Khúc thủ Mệnh, đồng cung với Văn Xương, hội cát tinh, đỗ đầu khoa thí, chắc chắn làm quan.
Văn Khúc chủ người có tài tranh biện, bác học đa năng, hãm địa thì thích khoe khoang tài học, hào nhoáng mà không thực. Văn Khúc đơn thủ Mệnh Thân cung, lại hội hung diệu, cũng là kẻ mồm mép vô danh.
Văn Khúc Vũ Khúc nhập miếu, chủ người có tài cán nổi bật, theo văn hóa, chính trị, thương nghiệp có thể đứng đầu. Nếu hội Tả Hữu, uy danh hiển hách, là là bậc tướng quân, tất là quan chức cấp bộ trưởng.
Vũ Khúc Vũ Tham ở Sửu, đề phòng nơi sông nước dễ chìm, đắm.
Văn Khúc Liêm Trinh đồng cung, tất là quan lại (ghi chép)
Văn Khúc Dương, Đà đồng cung, lại có Liêm Trinh hay Thất Sát đồng thủ, chủ người gian trá giả dối.
Văn Khúc nhập Mệnh, có duyên với y học chiêm tinh tướng học, tôn giáo, huyền học, tâm lý học, nếu có Thái âm, Tham Lang, Thiên Đồng đồng cung thì càng rõ ràng. Vì vậy sách có viết:"Văn Khúc Thái âm đồng cung, cửu lưu thuật sĩ".
Văn Khúc Tham Lang đồng cung, chính sự điên đảo.
Văn Khúc Cự Môn đồng cung, mất ý chí.
Văn Khúc Phá Quân đồng cung, thủy tai, e bị chết đuối, hoặc bị bệnh về đường tiết niệu, sinh sản và gan thận...
Văn Khúc Thiên Lương đồng cung, tầng lớp quan (hai sao này đồng cung an Mệnh ở Ngọ thì là thượng cách, thứ đến là cung Dần)
Khúc Tý, Lương Ngọ, củng xung chiếu cũng tốt.
Văn Khúc cư Ngọ Tuất hãm địa, làm việc rối rắm.
Văn Khúc Hóa Khoa tại Mệnh, chủ người có năng lực viết lách ưu tú, kiến thức hơn người, cũng có tài hoa văn nghệ. Văn Khúc Hóa Khoa cư Mệnh Thân, Di, Quan Lộc cung đều chủ có tên bảng vàng, cũng có danh tiếng trong xã hội.
Văn Xương Hóa Kỵ, cũng chỉ hiếu học, nhưng học hành không thuận lợi, tiếng tăm bên ngoài không tốt, hay bị người khác vu cáo, phỉ báng, Văn Khúc hãm địa Hóa Kỵ cũng không tốt.
文昌文曲合论- Văn xương Văn khúc hợp luận
Văn Khúc Văn Xương, là người đa học đa năng, nếu như một trong hai sao hãm địa đơn thủ Mệnh Thân, lại hội hung tinh Dương Đà Hỏa Linh Địa Kiếp đồng cung hay xung phá thì giỏi mồm mép ngụy biện, thường tranh cãi với người khác, có chết cũng không chịu thừa nhận lỗi sai của mình, hoặc tự cho mình thanh cao, câm hận thế tục, đa phần là những người có tài nhưng không gặp thơi, hào nhoáng mà không thực, danh lợi đều chỉ là hư ảo. Vì vậy sách có viết:"Xương Khúc hãm cung hung sát phá, hư dự chi long".
Xương Khúc giáp Mệnh là đặc sắc nhất, tất là quý cách. Nếu Mệnh của cung Sửu, Văn Xương ở Dần, Văn Khúc ở Tý giáp, không quý tất phú, cũng cần phải có tam phương Mệnh cung cát tinh nhiều thì mới luận như vậy. Hoặc Mệnh cung ở Mùi, Xương Khúc ở Ngọ Thân hai cung giáp cũng vậy. Nhật Nguyệt an Mệnh Sửu Mùi, trước sau có Xương Khúc hay Tả Hữu giáp, Nam mệnh quý hiển.
Xương Khúc tại Tỵ Hợi thủ Mệnh, đồng cung với Tử Vi Thất Sát, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái âm miếu vượng, không quý tất đại phú.
Xương Khúc tại Sửu Mùi tọa Mệnh hoặc đồng cung tại cung Di tất là người sinh giờ Mão hoặc giờ Dậu, tam hợp có cát tinh, là số quý, thường phục vụ bên cạnh bậc quân vương.
Xương Khúc tại Thìn Tuất nhập Mệnh, người sinh năm Kỷ Văn Khúc Hóa Kỵ, người sinh năm Tân Văn Xương Hóa Kỵ, người sinh năm Nhâm hội Dương Đà, lại gặp hạn Thìn Tuất, có thủy tai hoặc bị chết đuối. Vì vậy sách có viết:"Xương Khúc Kỷ Tân Nhâm sinh nhân, hạn phùng Thìn Tuất lự đầu hà".
An Mệnh Dần Thân, cung Nô Bộc tại Sửu Mùi, Văn Xương Văn Khúc đồng cung tọa thủ, Mệnh Thân tất có Không Kiếp xung chiếu, lại có Dương Đà, nếu hạn gặp Thất Sát hoặc Dương Đà tất chết. Vì vậy sách có viết:"Xương Khúc hãm vu thiên thương, nhan hồi yểu chiết".
Văn Xương Văn Khúc, nữ mệnh không hợp, tuy thông minh tài hoa, cơ xảo lanh lợi, nhưng thủy tính dương hoa, dễ thu hút đám ong bướm, cũng đa dâm dục, vì vậy sách có viết:"Nữ nhân Xương Khúc, thông minh phú quý chỉ đa dâm","Dương phi háo sắc, tam hợp Văn Xương Văn Khúc".
Nữ mệnh Mệnh cung, Thân cung, Phúc Đức cung, Phu Thê cung hội Xương Khúc Tứ Sát và Hóa Kỵ, nếu không là ca kỹ thì chết yểu.
Xương Khúc đồng cư cung Phúc Đức, là cách"ngọc tụ thiêm hương", tất nắm đại quyền, lấy Mệnh cung miếu vượng hội cát tinh thì luận vậy, cũng chủ một đời tươi đẹp, có diễm phúc.
Văn Xương Văn Khúc hội Liêm Trinh Tham Lang tại Tỵ Hợi tọa Mệnh, là người tâm thuật bất chính, thích khoe khoang, lời lẽ đa hư thiểu thực, là cách cục chết yểu, nếu Mệnh cung có Hóa Kỵ hoặc hội Dương Đà, quyết đoán rằng thọ yểu.
Xương Khúc Phá Quân phùng, hình khắc lắm lao lực, là bần sĩ, cần chú ý phòng thủy ách. Xương Khúc và Liêm Trinh Phá Quân tại Mão đồng cung, hoặc cùng Phá Quân ở Dần cung tọa Mệnh, là cách"chúng thủy triều đông", phùng ác sát xung phá, quyết đoán một đời bôn ba, hay gặp sự việc kinh hãi.
Xương Khúc Tả Hữu hội Dương Đà, có nốt ruồi lạ.
Xương Khúc Lộc Tồn, rất đặc biệt, là cách cát lợi, một đời thu được danh lợi.
Lộc Tồn thủ Mệnh, tam hợp được Xương Khúc củng chiếu, phú quý.
Thiên Cơ Thái âm ở Dần Thân tọa Mệnh, đồng cung hay hội chiếu với Xương Khúc, bất luận nam nữ, đều có phiền não về sắc tình.
Xương Khúc Hóa Khoa, đều chủ thuận lợi, miếu vương thì độ tốt đẹp tăng lên, thứ đến là hãm địa. Nhập cung Quan Lộc Hóa Khoa, có thể đỗ đại học.
Xương Khúc Hóa Kỵ, nhập Mệnh cung, hoặc ở Di cung, là người ở ngoài tất có danh tiếng xấu. Hội Hỏa tinh, Linh Tinh, Kình Dương, Đà la, là người có tai họa ngục tù. hai sao này nhập miếu Hóa Kỵ, thì độ hung khá yếu, vẫn chủ thông minh. Hãm địa Hóa Kỵ cực hung, có rắc rối về giấy tờ, lắm khẩu thiệt thị phi, là người hay nói, ức hiếp người khác, tự tư.
Văn Xương hoặc Văn Khúc nhập cung Mệnh, bất luận miếu hãm, đều chủ người có trí nhớ tốt, thậm chí chỉ nhìn qua cũng không quên.
Văn Xương Văn Khúc tại Tỵ Dậu Sửu nhập miếu, an Mệnh cung tại đây thì chủ thông minh phú quý.
Văn Xương Văn Khúc và Tham Lang đồng thủ Mệnh, chủ người phong lưu mà giả dối, nếu là quan thì chủ chính sự điên đảo, rối rắm.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Liêm Trinh - canh Bính hóa thành sao Kị
Trong Đẩu Số, Liêm Trinh hóa thành sao Kị là sao có sức ảnh hưởng khá lớn, tính chất khi hóa Kị cũng khá phức tạp.
Liêm Trinh hóa Kị, chủ về biểu trưng cho tình cảm trắc trở, bao gồm tình cảm đối với lục thân và tình cảm nam nữ. Hơn nữa, nói"trắc trở"là do Liêm Trinh khi hóa Kị thường có tính chất ảnh hưởng lâu dài và không gì hóa giải được.
Đồng thời, Liêm Trinh hóa Kị còn biểu trưng cho tâm trạng"đau buồn", nếu gặp các sao"khoa văn"thì đây là nỗi đau buồn có tính văn nghệ, thường diễn hóa ở mức độ thâm sâu. Nhưng lúc có Sát tinh cùng bay đến, thì trở thành là không đắc ý về nghệ thuật.
Do tính chất diễn hóa đã thuật ở trên, nên còn là điềm tượng bị lừa dối, đặc biệt là bị"lục thân lừa dối", cho nên nói Liêm Trinh hóa Kị biểu trưng cho tình cảm trắc trở. Trong đó tinh hệ"Liêm trinh Thiên tướng"đối nhau với Phá quân ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị thì chủ về tình cảm trắc trở càng lớn. Lúc gặp thêm các sao Sát - Hình tụ tập, có thể có khuynh hướng tự sát.
Mở rộng tính chất về tình cảm trắc trở, lại thường bị"làm ơn mắc oán", hoặc do bản thân không tự lượng sức mình khiến cho lòng tự tôn bị tổn thương.
Một tính chất quan trong khác của Liêm Trinh hóa Kị là: bệnh tật có liên quan đến máu, còn chủ về vì tai nạn bất ngờ hay do phẫu thuật mà gây ra chảy máu. Ở nữ mệnh là biểu trưng vào lúc mang thai hoặc vào khi sinh con. Ở cung Tật Ách thì biểu trưng cho bệnh về máu hoặc bệnh về tính dục.
"Liêm trinh Thiên tướng"đồng độ ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Liêm Trinh hóa Kị, đồng độ với Kình dương, hoặc hội với Kình Dương Đà la, đối cung là Phá Quân, tam phương tương hội với"Tử vi Thiên phủ"và Vũ khúc độc tọa.
Liêm Trinh hóa thành sao Kị ở tinh hệ này chủ về trắc trở và bị người ta kiềm chế (nhất là lục thân: cha, mẹ, vợ, con, anh chị em), tuyệt đối không nên cố tự xuất đầu lộ diện, nếu không ắt sẽ tổn thất hoặc phá tán, thất bại. Rất ngại có Hỏa tinh đồng độ, chủ về tình cảm bị trắc trở nghiêm trọng mà nảy sinh ý định tự sát. Có lúc cũng vì bản thân sai lầm mà gây hậu quả trọng đại. Đặc biệt không nên hợp tác với người khác.
Nhưng tinh hệ này lại chủ về có được nguồn tiền tài toại ý. Đại khái là, không những có thể kiếm tiền mà còn có thể tích lũy. Cho nên, người gặp tinh hệ này, rất nên chọn sách lược thủ thành, không thể quá gấp cầu thành công, đồng thời cần phải biết mức độ nặng nhẹ nhiều ít của cá tính"tự ái", thì mới có thể duy trì thành tựu đã đạt được. Có thể vì tính"tự ái"không đúng lúc đúng chỗ, mà biến thành"lực"đạp đổ kết quả thành tựu đã đạt được.
"Liêm trinh Thất sát"đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Sửu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, tứ chính đối nhau với Thiên Phủ, tam phương hội hợp với"Tử vi Tham lang"và"Vũ khúc Phá quân".
Do Liêm Trinh hóa thành sao Kị, nên"Liêm trinh Thất sát"ở cung Mùi không thành cách"Hùng tú Kiền nguyên", vì vậy ở cung Sửu là tốt hơn, đời người khá thuận lợi toại ý.
Cũng do Liêm Trinh hóa Kị, nên"Liêm trinh Thất sát"ở hai cung độ này không thích hợp theo võ nghiệp, nếu theo võ nghiệp e rằng bất trắc. Tinh hệ này rất kị các sao Sát - Hình, chủ về đời người gặp nhiều gian khổ, rất thích hợp trong lĩnh vực sản xuất, làm việc hưởng lương, nếu tự kinh doanh làm ăn thì sẽ sinh phá tán thất bại.
Tinh hệ này cũng chủ về tính"giao du thù tạc", thường chịu lãng phí tiêu tiền và lãng phí thời gian về phương diện này, nhưng sự lãng phí này không mang lại hiệu quả gì như dự liệu. Phần nhiều tốn tiền chỉ do ưa thích, ví dụ như mua sắp quần áo thời trang không cần thiết, đây là đặc điểm của tinh hệ này.
Liêm Trinh độc tọa, Hóa Kị ở hai cung Dần hoặc Thân, gặp Kình dương hoặc Đà la, tứ chính là Tham lang ở đối cung, tam phương hội hợp là"Vũ khúc Thiên phủ"và"Tử vi Thiên tướng".
Do Liêm Trinh hóa Kị, nên Liêm Trinh của cung Thân cũng không thành cách"Hùng tú Kiền nguyên".
Tinh hệ của bản cung có sắc thái"ưu uất", nhưng trưng diện khá sa hoa, thường ứng xử vui vẻ lấy tiền bạc giúp bạn bè, mà không xem trọng việc tích lũy tiền bạc cho gia đình, vì vậy bị người phối ngẫu oán trách.
Bất lợi về hôn nhân, tính cách của người phối ngẫu không hợp với bản thân mệnh tạo, trong cuộc đời dễ nảy sinh tình yêu đối với người đã có gia thất bất kể là nam hay nữ, có tình mà không có duyên là đặc điểm của tinh hệ này.
"Liêm trinh Phá quân"đồng độ ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở cung Dậu gặp Lộc tồn), mà Liêm Trinh hóa Kị, đối cung là Thiên Tướng, tam phương hội hợp với"Tử vi Thất sát"và"Vũ khúc Tham lang".
Tinh hệ này có tính chất suy sụp nhanh chóng, ở cung Mão nghiêm trọng hơn ở cung Dậu. Cho nên đạo"tìm cát tránh hung"là phải xem xét Lưu niên để tiến thoái hợp thời cơ.
"Liêm trinh Phá quân"ở cung Dậu có Thiên Hình đồng độ, thì nên đề phòng sự cố giao thông, cũng chủ về gông cùm, hay thú dữ cắn. Cung Thiên Di mà gặp tinh hệ này lúc đi xa nên phòng xảy ra bất trắc. Xem xét các sao của Lưu niên để định tình hình cụ thể, mức độ nặng nhẹ.
Tinh hệ này còn có một sắc thái đặc biệt khác, đó là cuộc đời ắt có một thời kỳ tiền bạc qua tay rất nhiều, nhưng khi vận thế qua rồi thì lại buồn rầu lo lắng vì túng thiếu. Do đó nhân sinh quan có ảnh hưởng rất lớn đối với vận mệnh.
"Liêm trinh Thiên phủ"đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Đà La đồng độ, hoặc Kình dương Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội với Tử vi độc tọa và"Vũ khúc Thiên tướng".
Liêm Trinh hóa Kị ở 12 cung, hai cung Thìn và Tuất là khá tốt, vì Hóa Kị trong"Thiên là Địa võng"sẽ chủ về làm tăng ý chí phấn đấu, tuy cuộc đời thành bại bất nhất, nhưng tâm cảnh vẫn giữ được sự cởi mở, tốt nhất là ở cung Tuất, thường dễ vượt hơn nhiều người.
Do đối cung là Thất Sát, nên cũng phải đề phòng sự cố giao thông.
Tinh hệ này bất lợi về tình cảm, vợ chồng tính cách không hợp nhau, nên phần nhiều có ngoại tình, nhưng không dễ vợ chồng nói lời chia tay.
"Liêm trinh Tham lang"đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi, Liêm trinh hóa Kị ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, tam phương tương hội"Tử vi Phá quân"và"Vũ khúc Thất sát".
Tinh hệ này có sắc thái ưu uất rất nặng, nếu không gặp thêm các sao"văn"nhuyễn hóa trở thành có tính văn nghệ, thì cuộc đời phần nhiều sẽ tự đi tìm sự phiền phức, nhất là rắc rối về tình cảm, mệnh tạo thường lấy đau khổ làm niềm vui, thường ảo tưởng bắt chước phong cách của người phi thường. Có thêm Địa không Địa kiếp thì càng nặng.
Sắc thái đặc biệt của tinh hệ này là không có khả năng quản lý tài chính một cách hiệu quả, do đó thường có hiện tượng tiền vào tay trái rồi ra bằng tay phải.
Trong số các tinh hệ Liêm Trinh, thì tinh hệ này (Liêm Tham) mang sắc thái bôn ba phiêu bạt nhất. Cho nên không thích hợp với nữ mệnh, đời người quá nhiều sương gió, không ổn định.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Thiên phủ - can Canh hóa Khoa
Phái Trung Châu định lệ Thiên Phủ hóa Khoa, còn các phái khác thì Thái Dương và Thiên Phủ không hóa Khoa, mà thay vào đó là Tả phụ và Hữu bật.
Sự truyền thụ nào thì cũng có nguồn gốc lịch sử của nó, do đó tốt nhất là giải quyết theo cách: để cả hai thuyết cùng lưu truyền tùy theo môn phái.
Thiên Phủ hóa Khoa có uy tín như giới ngân hàng, uy tín là điều tối trọng yếu của ngân hàng, cho nên phái Trung Châu cho rằng khi Thiên Phủ hóa Khoa cũng không phải là vô lý.
Do đó, ý nghĩa của Thiên Phủ hóa Khoa cực kỳ đơn giản, nó không giống như các Sao khác, thông thường sau khi Hóa Khoa sẽ có bản chất"lưỡng trùng", đó là vừa cải thiện khuyết điểm, vừa làm tăng năng lực cho sự biểu hiện. Nhưng bản chất của Thiên Phủ hóa Khoa chỉ có một, đó là làm tăng mức độ của uy tín. Thực ra đây cũng đã bao gồm bản chất"lưỡng trùng"đã thuật ở trên. Bởi vì"kho tiền"mà có uy tín thì đương nhiên phải rất ít khuyết điểm, đồng thời phải có biểu hiện tốt thì mới tạo dựng được uy tín.
Cho nên, Thiên Phủ thuộc vào loại"kho trống","kho lộ"vốn chủ về gian xảo, nhưng sau khi hóa Khoa, thì dù là"kho lộ"hay"kho trống", cũng biến thành không thể gian xảo.
Tinh hệ"Vũ khúc Thiên Phủ"thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên Phủ hóa Khoa thì Vũ khúc ắt sẽ hóa Kị, còn đồng độ với Kình dương hoặc có Đà la hội chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương tương hội là Liêm trinh độc tọa ở cung Tài bạch, và"Tử vi Thiên tướng"ở cung Sự nghiệp mà Tử vi hóa Quyền.
Thông thường tổ hợp tinh hệ này không thích hợp tự kinh doanh làm ăn. Vũ Khúc hóa Kị chủ về"nhập xuất"tài chính gặp khó khăn và nhiều nan giải, còn Thiên Phủ hóa Khoa chủ về được người ta tín nhiệm, do đó kinh doanh làm ăn dễ bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, biến thành mối quan hệ tài chính có hệ số rủi ro rất cao. Lúc Thiên Phủ hóa Khoa chỉ thích hợp làm việc trong ngành tín dụng hoặc chính giới, chủ về dễ được thượng cấp tin tưởng đề bạt. Có điều không nên ở vị trí cao nhất, nếu không sẽ dễ thất bại. Ngoài ra mệnh tạo cũng thích thực thi công việc có tính liều lĩnh, mạo hiểm có hệ số nguy hiểm cao.
Đối với nữ mệnh, phần nhiều đều bất lợi về hôn nhân, thường ít có lạc thú phòng the đối với chồng (nhưng vẫn thích lạc thú phong the đối với nhân tình).
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là"Liêm trinh Thất sát", tam phương tương hội là Thiên tướng ở cung Sự nghiệp, và mượn"Tử vi Tham lang"nhập cung Tài bạch để hội cung mà Tử vi hóa Quyền.
Thiên Phủ hóa Khoa nên tinh hệ này vẫn chủ về tốt, do ảnh hưởng của"Tử vi Tham lang"ở cung Phúc nên có lúc xảy ra mâu thuẫn. Có trí tiến thủ, chịu tiêu xài thích đáng trong giao tế, nhưng vẫn giữ tác phong rất bảo thủ, nhất là quá xem trong chữ"tín".
Thiên Phủ hóa Khoa của tinh hệ này cũng chỉ có lợi khi ở địa vị"cấp phó". Thích hợp với những nghề mang tính chuyên nghiệp, trong lúc làm việc thường để lại uy tín và có thể còn được nhiều trợ lực.
Trọn lựa quyết định về địa vị đối với nhóm tinh hệ này là rất quan trọng, thường thường sẽ biểu hiện khi đến các cung hạn như"Từ vi Tham lang","Vũ khúc Phá quân","Liêm trinh Thất sát", những hành động thuộc hậu thiên ở vào thời điểm này có thể ảnh hưởng đến tình huống diễn biến thực tế.
Nhưng về phương diện hôn nhân tinh hệ này cũng có khuyết điểm, nhất là nữ mệnh, hoặc người phối ngẫu có những khiếm khuyết đáng tiếc, nên dốc tâm vào việc giáo dục con cái.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có những bản chất đã thuật ở trên, nhưng nên lưu ý đến cơ hội thăng chức, hoặc nguồn tiền tài thay đổi theo hướng tốt, cũng chủ về là vận thế thuận lợi toại ý nhưng vẫn rất bảo thủ.
Tinh hệ"Tử vi Thiên phủ"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên phủ hóa Khoa thì Tử vi ắt sẽ hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu, đối cung là Thất sát, tam phương hội cung với Vũ khúc hóa Kị độc tọa ở cung Tài bạch, và"Liêm trinh Thiên tướng"ở cung Sự nghiệp.
Khi Tử vi và Thiên phủ đồng độ, thì sức mạnh của Thiên Phủ thường khó phát huy, có lúc biến thành gây lụy. Nhưng trong kết cấu tinh hệ này, lực của Thiên Phủ khá mạnh, tức có sao Lộc mà còn hóa Khoa, sẽ ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và chí tiến thủ của Tử vi tuy bị giảm thấp nhưng lại có thể tiến bộ trong sự phát triển ổn định. Tinh hệ này có sở trường thích bàn luận về chính trị, binh pháp.
Nhưng tinh hệ này cũng bất lợi về hôn nhân, chủ về không hợp tính cách với người phối ngẫu, nhìn bề ngoài vẫn duy trì mối quan hệ hôn nhân, nhưng bên trong cấu thành nỗi đau khổ thầm kín.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, chủ về được tăng quyền lực một cách thầm kín, lợi ích cũng nhờ đó mà tăng lên.
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh hóa Khoa ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Sát tinh, đối cung là"Vũ khúc Thất sát"mà Vũ khúc hóa Kị, tam phương tương hội là Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn"Liêm trinh Tham lang"để nhập cung Tài bạch. Thiên Phủ ở cung Mão được gặp Lộc tồn.
Tinh hệ này tuy bất lợi khi đi xa, nhưng"Liêm trinh Tham lang"ở cung Phúc đức thường thường lại khiến mệnh tạo phải rời xa quê hương mới phát triển tốt, dễ gặp vận trình tốt có tính phát đột ngột. Nếu cố thủ ở nơi sinh ra, thì uy tín chỉ đạt được trong phạm vi hạn chế, sự nghiệp phát triển nhỏ hơn, có thể vì danh tiếng trong địa phương quá nhỏ hẹp, nên thường ở vào tình cảnh bị ép phải tham gia những cuộc thù tạc giao tế mà bản thân không thích, thậm chí còn phải hao tổn, do đó tạo thành những phiền phức khó xử trong lòng.
Cung Thiên Di có"Vũ khúc Thất sát"mà Thiên phủ hóa Khoa tương hội, cho nên sau khi trải qua gian khổ ở xứ người, thì có thể tạo dựng được sự nghiệp và được tin tưởng, cho nên có thể xoay chuyển được tình thế công việc đúng lúc cần thiết nhất. Ngoài ý vị thích hợp với những ngành nghề mang tính mạo hiểm có mức độ nguy hiểm cao, nếu mệnh tạo an phận thủ thường, ở lại quê nhà thì không nên tự kinh doanh làm ăn, chỉ thích hợp làm nhân viên hưởng lương.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, không nên mở rộng việc kinh doanh làm ăn, chỉ chủ về vận trình tăng thêm vẻ vang.
Tinh hệ"Liêm trinh Thiên phủ"thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Thiên phủ hóa Khoa, đối cung là Thất sát, (ở cung Thìn mệnh tạo được Lộc tồn hội chiếu), tam phương hội cung có Tử vi độc tọa ở cung Tài bạch, và"Vũ khúc Thiên tướng"ở cung Sự nghiệp mà Vũ khúc hóa Kị. Cung Mệnh gặp Sát tinh đồng độ hoặc vây chiếu.
Tinh hệ này, về sự nghiệp và hôn nhân đều có khuyết điểm.
Ở phương diện sự nghiệp, không nên tự sáng lập sự nghiệp, bất lợi nhất là các công việc hay nghề nghiệp có liên quan đến tiền tệ, nghiệp vụ ngân hàng, không được đầu cơ vì có đầu cơ thì cũng thất bại, nếu làm việc hưởng lương thì cũng không được quản lý tiền bạc.
Về phương diện hôn nhân, thường chủ về tái hôn, mà cũng dễ"ngó đứt mà tơ vương".
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, người kinh doanh làm ăn phải đề phòng vấn đề xoay chuyển tiền bạc khó khăn, trắc trở về sự nghiệp.
Thiên Phủ độc tọa thủ Mệnh, hóa Khoa ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là"Tử vi Thất sát"mà Tử vi hóa Quyền, tam phương tương hội với Thiên Tướng độc tọa ở cung Sự nghiệp, và mượn"Vũ khúc Tham lang"nhập cung Tài bạch có Vũ khúc hóa Kị.
Tinh hệ dạng này chủ về đời người khá thuận lợi toại ý, nhưng phần nhiều đều có thanh thế lớn bề ngoài, mà bên trong chi ra quá nhiều, may mà có tín dụng chống đỡ, vẫn có thể vững bước phát triển sự nghiệp.
Thiên Phủ hóa Khoa thì không sợ thiếu nguồn tiền tài, nhưng khuyết điểm lớn nhất của tinh hệ này là dễ xác định sai kế hoạch. Đạo"xu cát tị hung"là cần phải kinh doanh thiết thực và sống có tiết chế một cách thích đáng.
Ở lưu niên hoặc đại hạn mà gặp tinh hệ này, cũng phải lưu ý khuyết điểm đã thuật ở trên.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Văn xương và Văn khúc - Toàn thư
Văn Xương
Thuộc tính ngũ hành của Văn Xương là dương kim, là trợ tinh của chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là Văn Khôi chủ về khoa giáp. Sao Văn xương cùng với Văn khúc, Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt được gọi chung là 6 cát tinh. Sở dĩ chúng trở thành cát tinh, vì chúng đều có khả năng trợ giúp phò tá, nếu gặp được cách tốt hoặc chủ tinh miếu vượng, chẳng khác gì hổ thêm cánh, sẽ được tăng cường thêm khí thế và thêm phát triển. Nếu gặp phải các sao lạc hãm, 6 cát tinh này sẽ đem lại tác dụng trợ giúp đắc lực. Sáu Cát tinh có khả năng chống trọi với sáu Sát tinh Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp, có thể dung hòa được hung tính của sát tinh, thậm chí có thể dẫn dắt chúng được phát triển theo chiều hướng tốt.
Sao Văn xương chủ về khoa giáp, sẽ có thành tựu lớn về nghiệp văn, nhưng phải có công mài sắt mới có ngày nên kim, cần phải cần cù khổ luyện mới có được thành tựu. Sao Văn xương hợp nhất với sao Hóa Khoa (năm Bính Văn xương hóa Khoa), nếu gặp Hóa Khoa miếu vượng thì tài năng trong lĩnh vực văn nghệ và học thuật càng được bộc lộ rõ nét. Sao Văn xương nếu gặp gỡ các sao Thái dương, Thiên lương, Lộc tồn tại các cung vị tam phương tứ chính, sẽ tạo thành cách Dương Lương Xương Lộcchủ về tiền tài danh vọng song toàn, tham gia các kỳ thi quan trọng của nhà nước chắc chắn sẽ thi đỗ.
Sao Văn xương nhập cung miếu vượng sẽ có tài hoa trong lĩnh vực văn nghệ. Nếu văn xương lạc hãm thì tài hoa khó được bộc lộ. Nếu Văn xương lạc hãm lại gặp Hóa Kị (năm Tân văn xương hóa Kị) chủ về thành tích học tập không tốt, có chí cũng khó thành tựu, thường xuyên thi trượt, thậm chí còn thất học, khiến cho nảy sinh tâm lý bi quan và chán nản. Tiểu hạn, lưu niên nếu gặp phải sao Hóa Kị Văn xương lạc hãm, cần phải chú ý những sơ xuất về văn thư đơn từ, nếu không dễ vướng mắc vào kiện tụng. Học sinh cần chú ý đến thành tích học tập.
Sao Văn xương lạc hãm lại gặp 4 sát tinh Kình Đà Hỏa Linh, chủ về khôn vặt, thích tranh luận với người khác để khoe tài ăn nói, có thể kiếm sống bằng tài nghệ đặc thù này. Sao Văn xương là sao Văn, sao Vũ khúc là sao Võ, Văn xương gặp Vũ khúc là người văn võ song toàn.
Văn Xương chủ khoa giáp Văn xương chủ khoa giáp
Thìn Tị thị vượng địa Thìn Tị là vượng cung
Lợi Ngọ hiềm Mão Dậu Ưa Ngọ ghét Mão Dậu
Hỏa sinh nhân bất lợi Sinh năm Hỏa là hung
Mi mục định phân minh Mặt mũi chừng sáng sủa
Tướng mạo cực tuần lệ Dung mạo đẹp vô cùng
Hỷ vu kim thủy nhân Người kim thủy ưa gặp
Quan quý song toàn mỹ Giầu sang được trọn lành
Tiên nan nhi hậu dị Trước khổ sau thành tựu
Trung vãn hữu thanh danh Trung niên có công danh
Thái dương ấm phúc tập Thái dương nhiều phúc ấm
Truyền lô đệ nhất danh Đề danh tại bảng vàng.
Văn Khúc
Thuộc tính ngũ hành của Văn khúc là âm thủy, là trợ tinh của chòm Bắc đẩu, hóa khí là ăn nói hùng biện (thiệt biện), chủ về khoa giáp, thiên về các lĩnh vực tài ăn nói, triết học, tướng mệnh, ca hát văn nghệ, là một trong sáu Cát tinh. Sao Văn khúc nếu đóng ở cung Thân cung Mệnh chủ về đào hoa, trên thân người thường có dấu vết lạ, tính cách thông minh lanh lợi, có tài ăn nói hung biện, cá tính có phần cô độc, nhưng lại rất có tài nghệ trong lĩnh vực biểu diễn.
Sao Văn khúc tốt nhất nên đống ở những cung vị miếu vượng và nằm cùng với sao Lộc tồn. Nếu tại cung vị tam phương tứ chính có sao Văn xương hội và chiếu, sẽ hình thành cách Lộc Văn củng mệnhchủ về phú quý, được tài nhờ văn chương, có biểu hiện xuất sắc về mặt tài nghệ. Nếu không gặp sát tinh, sẽ trở thành người giầu có nổi tiếng.
Sao Văn khúc cũng hợp với Hóa Khoa, vì có thể tăng cường tài hùng biện và tài năng trong các lĩnh vực nghệ thuật như âm nhạc. Nhưng nếu Văn khúc lạc hãm, thì tài năng nghệ thuật sẽ rất khó được phát huy. Văn khúc thuộc âm thủy nên có mang tính đào hoa, lại là sao giờ (được xác định theo giờ sinh), nên mang đậm tính cách phong lưu đa tình, hay thay đổi không chung thủy. Nếu Văn khúc lạc hãm lại gặp Hóa Kị sẽ chủ về tài năng nghệ thuật khó phát huy, dễ gặp rắc rối trắc trở trên các phương diện tình cảm, tiền tài, ăn nói. Nếu lại gặp Liêm trinh, Hỏa tinh, Linh tinh dễ vì tiền của làm lỡ thời cơ. Nếu gặp các sao đào hoa như Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu thì đường tình duyên càng thêm bất lợi, thường gặp chuyện đau buồn bất hạnh.
Sao Văn khúc cũng ưa thích nằm đồng cung với Vũ khúc, nếu nằm đồng cung tại Hợi địa chủ về học vấn uyên bác. Nếu Văn khúc Vũ khúc đồng độ tại Tuất địa thì có thể giảm bớt tính cách cô độc và đào hoa của sao Văn khúc.
Sao Văn khúc là sao Văn chủ về tài hùng biện, bởi vậy không nên đồng cung với sao Cự môn vốn chủ về miệng lưỡi thị phi, nếu ở mệnh nữ lại càng bất lợi, chủ về trắc trở trong đường tình duyên. Nếu sao Văn khúc đứng một mình tại Tuất địa, tại tam phương hội với hai sao Thái dương và Cự môn, sẽ tạo thành cách Đào hoa cổn lãng(Hoa đào dào dạt), dù ở mệnh nam hay mệnh nữ đều chủ về đào hoa cực thịnh, như sóng biển hết cơn này đến cơn khác ập đến, nên đường tình duyên vô cùng trắc trở, phong ba dồn dập.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Lộc tồn và Thiên mã - Toàn thư
Lộc Tồn
Thuộc tính ngũ hành của sao Lộc tồn là âm thổ, là ngôi sao thứ ba trong chòm Bắc Đẩu, hóa khí là phú và quý chủ về lộc và thọ, có khả năng giải trừ tai ách, chế hóa Sát tinh. Tất cả các sao tại 12 cung lá số đều ưa thích đồng cung hoặc gia hội với Lộc tồn, gặp cát tinh sẽ thêm cát, gặp hung tinh sẽ giải hung, đặc biệt thích hợp với cung Mệnh, Thân, Tài, Điền, Di, vì Lộc tồn ở đây sẽ phát huy được khả năng một cách hiệu quả.
Lộc tồn còn có tên là sao Thiên lộc, trong lá số Lộc tồn không rơi vào Thìn Tuất Sửu Mùi, và luôn nằm giữa hai sát tinh Kình dương và Đà la, nên chủ về cô độc, dễ gặp rắc rối thường bị tảy chay nên dễ bị cô lập và vất vả. Do không bao giờ nằm đồng cung với hai sát tinh Kình dương và Đà la, bởi vậy không bị khống chế bởi Thiên la và Địa võng, nhưng khi gặp Lộc tồn vẫn nên hành sự thận trọng, không vì cuộc đời ít bị biến động mà gặp dịp may suôn sẻ. Đại hạn, tiểu hạn hay lưu niên gặp Lộc tồn, sẽ khiến cho các điều kiện vốn bất lợi lại trở nên tốt đẹp, đem lại khả năng hồi phục hoặc đổi mới.
Nếu Lộc tồn đứng một mình tại cung Mệnh, chủ về tính cách cực kỳ bảo thủ, không thích giao tiếp, chỉ chăm chăm bảo vệ bản thân, nên khó tránh khỏi cô độc. Hơn nữa, lại bị hai Sát tinh Kình Đà kèm hai bên, nên tuy chủ về giầu có, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan vất vả, sau khi giầu có lại dễ rước điều tiếng thị phi.
Sao Lộc tồn thích nằm đồng cung, hoặc hội chiếu với các Cát tinh. Nếu nằm đồng cung với Tử vi hoặc Thiên phủ, Thiên tướng, Thiên đồng, Thiên lương, Vũ khúc, Thái dương, Thái âm, có thể tăng cường độ sáng cho đối phương, nên chủ về phú quý. Nếu tại cung vị tam phương có Xương Khúc hội chiếu, sẽ trở thành người giầu có sang trọng, có học thức.
Sao Lộc tồn kị rơi vào cung không vong, gặp Địa không, Tiệt không là tối kỵ, thứ đến là Tuần không. Lộc tồn không ưa nằm đồng cung với Hóa Kị trấn mệnh, vì khi Lộc tồn trấn mệnh, ở hai cung bên cạnh chắc chắn sẽ có hai sao Kình dương và Đà la kìm kẹp, tạo thành cách Kình Đà giáp mệnh, là cục phá bại chủ về cô độc bần hàn, muôn sự bất lợi, vận hạn gặp phải sẽ có nhiều hung hại.
Lộc tồn đóng tại cung Mệnh cung Thân, không chỉ gặp Hóa Kị đồng cung mới hung, mà tại cung tam phương tứ chính nếu có 4 sát tinh Hỏa Linh Không Kiếp hoặc Hóa Kị xung phá, cũng chủ về trong cát có hung, nên đừng quá chú trọng đến vẻ tốt đẹp bề ngoài, mà cần lưu ý đến những nguy cơ tiềm ẩn phía sau nó, thường là sống nhờ kỹ nghệ, tay nghề khéo léo. Lộc tồn hay Hóa Lộc trấn mệnh, nếu gặp Địa không Địa kiếp là cách Lưỡng trùng Hoa cái(hai tầng lọng hoa), chủ về cao ngạo, cô độc, bần hàn, thường có duyên với đường tu hành.
Thiên Mã
Thuộc tính ngũ hành của sao Thiên mã là dương hỏa, là cát tinh trong chòm Trung Thiên Đẩu, hóa khí là dịch mã, là sao chưởng quản lộc, chủ về thiên động (dịch chuyển).
Trong 12 cung của lá số, sao Thiên mã chỉ rơi vào 4 cung Dần Thân Tị Hợi, bởi vậy 4 cung này còn được gọi là 4 cung Mã. Cũng bởi vì 4 cung này chính là cung vị của sao Trưởng sinh trong 12 sao thuộc cục ngũ hành, nên 4 cung Dần Thân Tị Hợi còn được gọi là 4 cung Sinh.
Do bản thân sao Thiên mã có hóa khí là Dịch Mã, chủ về di động, nên đây là sao mang tính cơ động giầu sức sống bẩm sinh, vốn rất giầu tiềm năng và có sức sống mạnh mẽ, nên có sự trợ giúp cực kỳ cơ động về danh lợi.
Thiên mã là một sao mang tính động, có câu Động thì cát lợi. Tĩnh thì vô công, do đó sao Thiên mã càng vất vả bôn ba, thu hoạch lại càng lớn, nên tượng trưng cho tiền tài vất vả. Nếu gặp các cát tinh Lộc tồn, Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm, Vũ khúc cùng sao Thất sát Tham lang miếu vượng, sẽ giúp cho Thiên mã phát huy được sở trường, chuyển động không ngừng nghỉ, phát đạt tại quê người để áo gấm về quê, chỉ có điều cần phải vất vả lao lực.
Thiên mã tốt nhất là nhập vào cung Phu thê, là nam mệnh sẽ được vợ giúp, nếu nằm đồng cung hoặc gia hội với các tài tinh như Lộc tồn, sẽ nhờ vợ mà trở nên giầu có. Mệnh nữ sẽ được hiển quý vì chồng, bản thân cũng có vận giúp chồng.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Quý - Cự Môn Hóa Quyền
Cự Môn là sao điều tiếng thị phi, sau khi hóa làm sao Quyền, sẽ khiến"điều tiếng thị phi"biến thành lời nói có sức thuyết phục. Cho nên Cự môn hóa Quyền ưu hơn Cự môn hóa Lộc. Hóa Lộc bất quá chỉ làm cho lời ngon tiếng ngọt, ngôn từ dễ nghe mà thôi. Cự môn không hóa Khoa cũng vì cái Lý này, bởi vì lời nói biện luận trước hay sau thì cũng như nhau, chẳng thể tin được.
Cự Môn hóa Quyền thích hợp với những nghề cần đến tài nói chuyện như luật sư, ngoại giao, giáo dục, bán hàng, chào hàng, đại lý bán lẻ, .v.v... cũng nên suy tính đến những nghề biểu trưng cho trạng thái xã hội như người điều khiển trương trình, ca sỹ, diễn viên, .v.v...
Nữ mệnh vốn không ưa Cự Môn, vì dễ xảy ra sóng gió, trắc trở trong tình cảm. Khi Cự môn hóa Lộc không thể cải thiện được đặc tính này, nhưng sau khi hóa làm sao Quyền thì lại có thể giảm bớt sóng gió trắc trở, bởi vì hóa thành sao Quyền có thể tự khống chế tâm trạng của mình.
Cự Môn là"ám tinh", thường có khuynh hướng biểu hiện"cái tôi"(ngã), nhưng sau khi hóa Quyền thì lối biểu hiện"cái tôi"sẽ dễ khiến cho người ta chấp nhận hơn. Hoặc có thể nói, dễ làm cho người ta tiếp nhận sự vẻ vang của mệnh tạo. Do duyên có này, Cự môn hóa Quyền có thể làm tăng sức ảnh hưởng đối với những người xung quanh và tăng sự ảnh hưởng địa vị xã hội của người này. Tùy theo mức độ của tầm ảnh hưởng mà thu vào tài phú nhiều hay ít, địa vị xã hội cũng theo đó mà được nang cao.
Cự môn hóa Quyền hội Thái dương chưa chắc chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) phù trợ, chỉ chủ về làm tăng mức độ tiếp nhận của mọi người bề những cái bộc lộ biểu hiện của mệnh tạo. Khác với Thái dương hóa Quyền hội Cự môn hóa Lộc.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là Thiên cơ, tam phương tương hội có Thái dương độc tọa ở cung Quan, và mượn"Thiên đồng Thiên lương"để nhập cung Tài.
Nhóm tinh hệ này đã cấu tạo thành cách"Thạch trung ẩn ngọc", nhất là khi Cự môn ở cung Tý được Lộc tồn đồng độ, có Thái dương ở cung Vượng hội hợp. Vì vậy tốt hơn Cự môn ở cung Ngọ. Ở cung Ngọ thường thường chủ về nên rời xa quê hương, phát phúc ở tha hương. Liên quan đến tính chất của tinh hệ này, đã thuật nhiều ở các mục nói về"Thạch trung ẩn ngọc cách", ở đây cần phải nhấn mạnh thêm một lần nữa, phàm là cách"Thạch trung ẩn ngọc", thì trong đời người không nên ngồi ở vị trí cao.
Lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về có cơ hội để thể hiện bản thân, mà còn được người ta dễ tiếp nhận, nhưng không được vì quá thỏa mãn mà dương dương đắc ý.
Tinh hệ"Thiên đồng Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung có Thiên cơ độc tọa ở cung Quan, và mượn"Thái dương Thiên lương"nhập cung Tài để hội hợp. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình dương, hoặc có Kình dương Đà là hội chiếu.
Nhóm tinh hệ này, chủ về tay trắng làm nên, phải trải qua gian khổ mới có thành tựu, mức độ thành công cũng tùy thuộc vào mực độ biểu hiện của bản thân mệnh tạo. Vì vậy, đang âm thầm lặng lẽ đột nhiên phát lộ ánh sáng rực rỡ, là đặc điểm của tinh hệ này.
Cần chú ý"Thiên đồng Cự môn"ở cung Sửu, thì cung Huynh đệ là Tham lang hóa Kị, còn bị Kình Đà giáp cung, dó đó còn chủ sau khi phát vượt lên, ắt sẽ chuốc lấy đố kị, dẫn đến bất hòa với đồng sự hoặc người hợp tác.
Nữ mệnh gặp nhóm sao này dễ bị người khác đoạt tình, nên cần phải lưu ý đến sinh hoạt hôn nhân.
Tinh hệ"Thái dương Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Cự môn hóa Quyền, tam phương hội cung mượn"Thiên đồng Thái âm"nhập cung mà Thái âm ắt hóa Khoa ở cung Quan, và mượn"Thiên cơ Thiên lương"nhập cung Tài, có kèm Lộc tồn đến hội chiếu.
Nhóm kết cấu tinh hệ này đặc biệt lợi về phát huy tài ăn nói. Nữ mệnh vốn bất lợi về hôn nhân, nhưng nhờ lực của Cự môn hóa Quyền khiến hôn nhân trở thành tốt đẹp, còn giảm bớt rắc rối về tình cảm, nhưng vẫn chủ về kết hôn muộn, không nên chọn lầm đối tượng lúc còn quá trẻ.
Nếu nam mệnh cung Phu thê gặp Văn xương Văn Khúc và Lộc tồn, sẽ chủ về nhờ vợ mà có tiền của, hoặc được nhạc gia nâng đỡ mà phát triển sự nghiệp.
"Thái dương Cự môn"trong nhóm tinh hệ này, ý nghĩa cơ bản là tài ăn nói, còn là người ngoại quốc (hay người ở phương xa). Tính chất của tinh hệ biến hóa rất lớn, nên rất thích hợp công việc ngoại giao, nếu gặp các sao đào hoa, thì có thể thích hợp với nghệ thuật biểu diễn, gặp các sao khoa văn thì thích hợp làm việc trong giới quảng bá.
Tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Cự môn hóa Quyền ắt sẽ gặp Kình dương hoặc Đà la. Tam phương hội hợp mượn"Thái dương Thái âm"nhập cung Quan mà Thái âm hóa Khoa, và Thiên đồng độc tọa ở cung Tài.
Nhóm tinh hệ có kết cấu đặc biệt lợi về thăng chức và cạnh tranh. Sau khi hóa Quyền, thậm chí có thể lấy cách"Dương Lương Xương Lộc"để so sánh, hoàn toàn thiếu bản chất nghiên cứu thâm trầm, vì vậy cũng không có ý vị cạnh tranh học thuật.
Cự môn hóa Quyền ở cung độ này, đối với nữ mệnh, cũng có thể khiến cho hôn nhân trở thành ổn định, nhưng vẫn bất lợi nếu kết hôn sớm.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường nhờ"ám lực"(lực ngầm) mà chuyển biến theo hướng tốt lành, vì vậy không nên truy cầu địa vị cao, nếu không sẽ không được lâu dài.
Cự môn độc tọa lạc hãm thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (Cự môn ở cung Thìn gặp Lộc tồn), có Thiên đồng ở đối cung, tam phương hội hợp Thái dương độc tọa ở cung Tài, và mượn"Thiên cơ Thái âm"có Thái âm hóa Khoa để nhập cung Quan.
Cự môn rất kị ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thường thường bản thân vất vả mà lại ít có người trợ lực. Sau khi hóa Quyền, có thể cải thiện tính chất lạc hãm ở"thiên la địa võng". Vì vậy sau khi trải qua gian khổ thì có thành tựu, mà vãn còn cần phải nỗ lực. Nếu chỉ trông chờ cơ hội phát đột ngột, thì cảnh tốt cũng không được lâu dài.
Điều đáng chú ý là"Thiên cơ Cự môn"đồng độ ở cung Phu Thê mà Thái âm hóa Khoa, có thể thành cách"Đan trì Quế trì", tức là trong cung gặp Văn xương Văn khúc, chủ về được nhạc gia nâng đỡ.
Cự môn độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tam phương hội hợp Thiên cơ độc tọa ở cung Tài và Thiên đồng độc tọa ở cung Quan. Cung Mệnh ắt sẽ gặp Kình Đà, hoặc Đà la cùng bay đến.
Kết cấu sao dạng này cũng chủ về phát huy tài ăn nói, nhưng không tốt bằng Cự Nhật đồng cung. Cự môn hóa Quyền chỉ cải thiện tính chất bất lợi đối với cha, khiến lúc nhỏ phần nhiều đều có đường đời gập gềnh, có lúc lại biểu trưng cho sinh ly tử biệt đối với cha, nhưng vẫn được tài sản của cha nuôi dưỡng.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Cự môn hóa Quyền ở cung Tị hoặc Hợi, thì không có cát lợi đặc biệt gì, có lúc chỉ là cơ hội biểu hiện bản thân.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Kỷ - Tham lang Hóa Quyền
Ý nghĩa cơ bản của Tham Lang hóa Quyền là làm tăng dục vọng của nó, bất kể là ham muốn vật chất hay ham muốn dục tình đều như vậy.
Trên đời, không thể không làm gì mà có được điều mình muốn. Do đó Tham lang hóa Quyền luôn có ý thức, cần phải cạnh tranh ở từng lĩnh vực một, ngay cả những sự việc nhỏ mọn, lặt vặt cũng vẫn mất nhiều thời gian để tranh chấp hơn thua. Hơn nữa, có thể còn có biểu hiện không từ một thủ đoạn nào, đương nhiên sẽ làm tăng khổ lụy cho thân tâm.
Tham lang có thiên hướng trong"giao tế thù tạc", sau khi hóa Quyền thì biến thành ưa lấy"giao tế thù tạc"làm thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh, môi trường giao tế thù tạc lại không thể tránh được tình cảnh"phong hoa tuyết nguyệt", do bản thân Tham lang cũng nặng về dục tình, nên dễ xảy ra sự cố.
Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền, nếu thiếu tu thân dưỡng mệnh, sẽ dễ hy sinh thân xác để theo đuổi mục đích. Nếu có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, mà cung Phúc đức không có các sao đào hoa, thì phần nhiều sẽ dốc toàn lực để theo đuổi sự nghiệp, càng gặp phải cạnh tranh càng tăng thêm sức mạnh, tới mức độ có thể quên cả chuyện gia đình vì không còn thời gian để chăm lo tới. Vì vậy, cung Điền trạch, cung Phu thê, và cung Tử tức không nên gặp Thiên cơ hóa Kị, cung nào gặp Thiên cơ hóa Kị sẽ là phương diện biểu hiện những khiếm khuyết trong cuộc đời. Nam mệnh tuy cũng có cùng một tính chất, nhưng do hoàn cảnh xã hội, biểu hiện cụ thể thường được hòa hoãn hơn.
Tham lang hóa Quyền đồng độ với Hỏa tinh Linh tinh, chủ về phát đột ngột, thường chỉ phát đột ngột về sự nghiệp mà không chủ về phát tài. Còn có nguy cơ phát lên một cách nhanh chóng và suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nhất là đối với người làm việc trong chính giới cần phải xử sự cẩn thận, rất dễ thân bại danh liệt.
Tham lang thủ Mệnh hóa quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, có Phá quân và Thất sát hội hợp, đối cung là Tử vi độc tọa, Tham lang còn được đồng độ với Lộc tồn hoặc được Lộc tồn chiếu xạ. Tham lang hóa Quyền ở cung Tý, thì ham muốn dục tình nặng hơn ham muốn vật chất, ở cung Ngọ thì ham muốn vật chất nặng hơn ham muốn dục tình. Do hóa Quyền mà còn gặp Lộc tồn, nên làm mạnh thêm tính chất theo đuổi dục vọng, vì vậy chỉ thích hợp làm ăn kinh doanh một cách độc lập, không nên hợp tác với người khác, càng không nên chủ về làm việc cho người khác. Tham lang hóa Quyền rất kị đồng độ với Văn khúc hóa Kị (can Kỷ tứ hóa = Vũ khúc - Tham lang - Thiên lương - Văn khúc), tuy xử lý rất ổn thỏa mà kết quả lại mất công vô ích, hao tổn tinh thần và tiền tài một cách uổng phí, mục tiêu theo đuổi không được như ý nguyện. Nếu cung Phúc đức hoặc cung Phu thê gặp các sao đào hoa, đồng thời còn gặp các Sát tinh, Hình tinh, Địa không, Địa kiếp, thì sẽ nhuyễn hóa thành cuộc đời bị lầm lẫn vì tình, cũng có thể bị lừa đảo vì tình, tiền bạc cũng vì vậy mà phá tán.
Tham lang thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt sẽ có Vũ khúc hóa Lộc đồng độ, xin tham khảo ở đoạn"Vũ khúc hóa Lộc".
Tham lang độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, đối nhau với Liêm trinh, hội hợp với Thất sát độc tọa cư Quan và Phá quân độc tọa cư Tài. Tham lang ở cung Dần còn được hội Lộc tồn. Đặc điểm của nhóm tinh hệ này là cung Phu thê có sao Lộc quá nặng,"Vũ khúc Thiên phủ"mà Vũ khúc hóa Lộc lại đồng thời còn gặp Lộc tồn, nên cuộc đời thường được biểu trưng ở người phối ngẫu. Nam mệnh Tham lang hóa Quyền tuy có sự nghiệp của riêng mình, nhưng ý vị"vợ đoạt quyền chồng"quá nặng. Lúc cung Thê đồng thời gặp sao Văn, tuy có khuynh hướng được tiền bạc của vợ, nhưng vẫn khó tránh bị vợ lấn át. Nữ mệnh Tham lang hóa Quyền chủ về dễ bị người giầu đã có vợ theo đuổi, thường vì vậy mà vận mệnh cuộc đời thay đổi.
Tinh hệ"Tử vi Tham lang"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tham lang hóa Quyền, hội"Vũ khúc Phá quân"cư Tài mà Vũ khúc hóa Lộc, và hội"Liêm trinh Thất sát"cư Quan, lại gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Đây là nhóm tinh hệ có ham muốn vật chất rất mạnh mẽ. Do cung Tài là"Vũ khúc Phá quân"mà Vũ khúc hóa Lộc, nên tài khí không yếu, nhưng thường có biểu hiện lãng phí và thích trang điểm bề ngoài, phấn son lòe loẹt, áo quân bảnh bao, mà nội tâm lại"trống rỗng". Tinh hệ Tử Tham đồng độ mà Tham lang hóa Quyền, còn là biểu trưng của tính thích dùng thủ đoạn, không cần làm việc trong chính giới, dù hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp cũng có khuynh hướng này. Nếu có Văn khúc hóa Kị đồng độ hoặc vậy chiếu, thì vì nguyên nhân lộng quyền thủ đoạn, nên bản thân phải chịu cảnh thất bại.
Tham lang độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối cung là Vũ khúc hóa Lộc, hội Thất sát độc tọa cư Quan, và hội Phá quân độc tọa cư Tài. Do sức mạnh của"Quyền Lộc tượng hội", khiến cho Tham lang ở"thiên la địa võng"có thể phá được cảnh khốn khó, đột nhiên có biểu hiện vượt bậc. Có thêm Hỏa tinh hoặc Linh tinh đồng độ, thì càng chủ về phát lên một cách nhanh chóng. Cũng chính vì vậy, mệnh tạo cần phải lưu ý đến vận thế nào thì có thể sụp đổ, để tìm cách"tìm cát tránh hung". Mỗi một vận hạn, cần phải lưu ý đến cát - hung của cung Phúc đức. Cung Phúc đức của nguyên cục là"Liêm trinh Thiên tướng"đối nhau với Phá quân, về kết cấu tinh hệ là đã có thiếu xót. Nếu cung Phúc đức của đại hạn hoặc lưu niên có các Sát tinh, Kị tinh, Hình tinh quấy nhiễu, gây khó khăn, thì đây là điềm dẫn đến suy sụp một cách nhanh chóng, mà sự cố suy sụp thì nguyên nhân thường do tình cảm gây ra.
Tinh hệ"Liên trinh Tham lang"thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham lang hóa Quyền, đồng thời hội"Vũ khúc Thất sát"mà Vũ khúc hóa Lộc ở cung Quan, và hội"Tử vi Phá quân"ở cung Tài bạch. Nhóm tinh hệ này có tính chất biến hóa thay đổi cực kỳ lớn, do có Kình dương Đà la hội hợp, hoặc có Đà La đồng cung. Nếu gặp thêm Địa không Địa kiếp, Thiên hình, Đại hao, Hóa Kị, sẽ dễ vì tham ô mà dẫn đến tai họa lao ngục. Nếu gặp các sao Văn và các sao đào hoa, là biểu trưng cho cho nghệ thuật, giải trí, vui chơi, tạo mẫu thiết kế, thì Tham lang hóa Quyền có thể làm tăng mức độ mỹ quan. Đây chỉ cử ra những ví dụ có tính cực đoan, ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu theo dạng này, sẽ chủ về đột nhiên xuất hiện cơ hội chuyển biến theo hướng tốt. Nhưng nếu có Văn khúc hóa Kị cùng đồng độ với cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên, thì nên đề phòng bị lừa, cũng chủ về vì sắc mà chuốc họa.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Canh - Vũ khúc Hóa Quyền
Vũ Khúc là sao tiền tài, sau khi hóa Quyền sẽ làm tăng sự hiển hách của thanh thế. Do Vũ Khúc chủ về hành động, tức là có biểu hiện cụ thể, nên sau khi hóa Quyền càng chủ về hành động quả cảm và quyết đoán.
Nhưng đồng thời Vũ khúc còn có biểu hiện bạc tình, nên sau khi hóa Quyền sẽ chủ về không từ một thủ đoạn nào. Khác với thủ đoạn của Tham Lang hóa Quyền, người Vũ khúc hóa Quyền về căn bản sẽ không cần biết phản ứng của người khác sẽ như thế nào, muốn làm thì làm, do đó không có thâm ý. Ở xã hội hiện đại, tính chất này thường thích hợp với người trong giới kinh doanh, có thể phát huy sức quyết đoán, mà ít nhiều thì cũng có người đố kị.
Do Vũ khúc mang theo tính"cô độc và hình khắc", nên nữ mệnh không ưa hóa Quyền, dễ gặp trở ngại về hôn nhân, hoặc không có duyên với con cái, biểu trưng cho mẫu người phụ nữ có sự nghiệp.
Tinh hệ"Vũ khúc Thiên phủ"thủ Mệnh ở hai cung cung Tý hoặc Ngọ, mà Vũ khúc hóa Quyền còn Thiên phủ hóa Khoa, ở cung Tý còn có Lộc tồn đồng cung, tam phương hội cung có Liêm trinh độc tọa cư Tài,"Tử vi Thiên tướng"cư Quan, đối cung là Thất sát độc tọa.
Vũ khúc ở Tý hoặc Ngọ, đây là hai cung độ khá đẹp khi Vũ khúc hóa Quyền, biểu trưng cho tài khí rất vượng, có năng lực khiếm tiền, mà bản thân còn có thể mượn tiền để vận dụng. Khuyết điểm của nó là Thiên đồng hóa Kị ở cung Huynh đệ, vì vậy thiếu trợ thủ đắc lực. Lúc giao cho trợ thủ sự lý việc, mệnh tạo thường không vừa ý, do đó trở thành không có người trợ giúp để giảm sự vất vả của bản thân.
Người gặp tinh hệ này, nên làm việc ở công ty lớn, tập đoàn lớn, thì danh dự, địa vị và quyền lực cùng thăng tiến, dễ được cấp trên trọng dụng.
Nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, quan hệ với chồng dễ biến thành"ngó đứt mà tơ vương", đồng thời còn dễ được người đã có gia đinh theo đuổi.
Tinh hệ"Vũ khúc Tham lang"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Vũ khúc hóa Quyền, ắt sẽ hội hợp với Kình dương, Đà la, hoặc đồng độ với Đà La, tam phương hội cung"Liêm trinh Phá quân"cư Tài, và hội"Tử vi Thất sát"cư Quan.
Vũ khúc hóa Quyền đồng độ với Tham lang, chủ về làm tăng dục vọng về tiền tài. Ở đây không chỉ nói về kiếm tiền, mà còn nói về dục vọng chi phối tiền bạc. Cho nên nắm quyền tài chính là nguyện vọng lớn nhất của người có kết cấu tinh hệ Vũ Tham thủ Mệnh, và đây cũng là thành tựu lớn nhất của họ.
Trải qua cạnh tranh và nỗ lực (bao gồm cả thủ đoạn), họ có thể nắm quyền tài chính, nhờ vào đó mà dần dần cải biến sự nghiệp của bản thân. Có lúc còn mượn sự trợ giúp của quyền lực tài chính để thay đổi chức nghiệp của mình, tức là lấy tiền của người khác để làm bàn đạp tiến thân.
Nữ mệnh nếu không có nghề nghiệp, thì"bà quản gia"được coi là"chức nghiệp".
Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này, cũng là điềm tiến thủ, chủ về nhờ tranh chấp mà tạo ra chuyển biến.
Tinh hệ"Vũ khúc Thiên tướng"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối nhau với Phá quân, tam phương hội cung có"Liêm trinh Thiên phủ"cư Tài mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội hợp Tử vi độc tọa cư Quan.
Nhóm tinh hệ này xem ra có vẻ như toàn mỹ,"Lộc Quyền Khoa"hội hợp, thanh thế hiển hách. Nhưng cần chú ý"Vũ khúc Thiên tướng"luôn luôn bị Thiên đồng hóa Kị và Thiên Lương giáp cung. Ở cung Thân còn bị thêm Kình dương và Đà la giáp cung, do đó cần phải nhẫn nhịn để cầu toàn, không tốt bằng Vũ Tướng ở cung Dần.
Nói"nhẫn nhịn để cầu toàn", có nghĩa là cần phải tình nguyện ở vị trí thứ hai, còn phải tránh để xảy ra tranh chấp thị phi với đồng sự. Đến đại hạn hoặc lưu niên có các sao Sát - Kị - Hình nặng, thì lại cần phải lưu ý đạo"tìm cát tránh hung".
Nữ mệnh tuy có sự nghiệp riêng, nhưng phần nhiều cũng chủ về làm nhị phòng, kế thất, nếu không sẽ dễ đổ vỡ.
Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, là điềm hợp tác với người khác để kiếm tiền, cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng có lợi.
Tinh hệ"Vũ khúc Thất sát"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Vũ khúc hóa Quyền, đồng độ với Kình dương, hoặc hội hợp với Kình dương, Đà la, đối cung là Thiên phủ đồng thời hóa Khoa, tam phương hội"Tử vi Phá quân"cư Quan và hội"Liêm trinh Tham lang"cư Tài.
Nhóm tinh hệ này nữ mệnh bất lợi về hôn nhân, cuộc đời gặp nhiều rắc rối về tình cảm, sau trung niên phần nhiều cảm thấy cuộc đời là hư ảo, buồn rầu, dễ đem lòng yêu thương người đã có gia thất mà không thể kết hợp, do đó càng có nhiều nỗi đau thầm kín, thế là phần nhiều đều dốc tâm vào sự nghiệp.
Nói về sự nghiệp thì đây là kết cấu có quyền lực quá mạnh mẽ, thường có thể phát triển thành lộng quyền hoặc lạm quyền, người dưới quyền cũng vì vậy mà li tán.
Có một đặc điểm khá rõ rệt, đó là phải nhờ cải biến sự nghiệp thì tài khí mới được tăng cao, ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị này.
Vũ khúc độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất (ở cung Thìn còn hội Lộc tồn), Tham lang độc tọa ở đối cung, tam phương có"Tử vi Thiên phủ"cư Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và"Liên trinh Thiên tướng"cư Tài.
Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là sau khi trải qua gian nan, tạo dựng dược uy tín và danh tiếng, thì mới có phát triển mang tính đột phá, nhờ đó bước vào vận tốt của cuộc đời. Nếu đối cung gặp"Hỏa Tham cách"hay"Linh Tham cách", thì càng phát triển một cách đột ngột. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này cũng chủ về phát đột ngột.
Nữ mệnh chủ về lấy chồng lớn tuổi, và kết hôn muộn, nếu không sẽ dễ sinh ly.
Tinh hệ"Vũ khúc Phá quân"thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Quyền, có Kình dương hoặc Đà là hội chiếu, đối cung là Thiên tướng, tam phương hội có"Tử vi Tham lang"cư Quan, và"Liêm trinh Thất sát"cư Tài.
Do có Phá quân đồng độ, nên Vũ khúc hóa Quyền thường vì xảy ra biến động quá đáng, mà gây ảnh hưởng đến năng lực quản lý tài tính. Vì vậy thích hợp với những nghề có tính tiêu dùng, hưởng thụ (nhất là ngành ẩm thực, giải trí, vui chơi). Nếu cung Quan cung Tài gặp Sát tinh, mà cung Mệnh không có Sát tinh thì thích hợp gia nhập quân đội hay cảnh sát. Nếu cung Mệnh có Sát tinh thì thích hợp với những nghề có liên quan đến dao kéo.
Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thì đây là hạn biến động thay đổi kịch liệt, thường có kết quản tốt.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Tân - Thái dương Hóa Quyền
Thái Dương hóa Quyền chủ về tăng năng lực sáng tạo và tài lãnh đạo, nhưng chỉ chủ về nâng cao địa vị, mà không chủ về chuyển biến có tính đột ngột về tài lộc, bởi vì tài lộc chỉ tăng theo địa vị.
Vấn đề"miếu vượng lạc hãm"có ảnh hưởng khá lớn đến Thái dương hóa Quyền. Thái dương ở cung lạc hãm, thường thường có chức mà không có thực quyền. Nếu cực lực tranh thủ quyền thế, không biết tiến thoái, thì dễ vì vậy mà dẫn đến thất bại.
Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền thường thường là biểu trưng cho tính độc đoán. Cho nên rất kị gặp Văn xương hóa Kị đồng độ, thường vì xử sự chủ quan mà gây ra tổn thất. Do người Thái dương thủ Mệnh tự tin một cách quá đáng, nên tổn thất có thể theo thời gian càng lúc càng lớn.
Người có Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, thì cần phải đồng thời quan sát cung Huynh đệ và cung Nô bộc để xem xét mối quan hệ với đồng sự và người dưới quyền. Đây là phương diện có ảnh hưởng khá lớn đối với đời người.
Lúc Thái dương hóa Quyền, có Cự môn hóa Lộc hội hợp, sẽ chủ về được người ngoại quốc (hay người ở phương xa) tin cậy và đề bạt, cũng chủ về nhờ tài ăn nói để kiếm tiền. Nếu có các sao hiển hách hội hợp đồng thời với các sao Sát Kị Hình, thì vẫn nên đề phòng đột nhiên xảy ra phá tán thất bại.
Nữ mệnh Thái dương thủ Mệnh hóa Quyền, nếu có Văn xương hóa Kị đồng độ, chủ về lấy chồng không có nghi lễ chính thức.
Thái dương độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung với Thiên lương. Tam phương hội Cự môn hóa Lộc cư Quan, và mượn"Thiên cơ Thái âm"nhập cung Tài.
Nhóm tinh hệ này ở cung Ngọ đẹp hơn, nhưng cần phải chú ý không được phô trương thanh thế quá đáng, nếu không sẽ dễ khiến cho người ta nhận thấy sự trống rỗng của bản thân. Nếu có hành động thiết thực, chuyên chú trong một phạm vi nhất định (ví dụ đang công tác về pháp luật, thì không được đổi thành làm việc trong chính giới), sẽ dễ được người ta biết đến danh tiếng hơn, vì vậy đời người cũng không bị quá vất vả.
Thái dương hóa Quyền ở cung Tý dễ trở thành"hữu hanh vô thực". Nếu có Văn khúc hóa Khoa đồng độ, hoặc ở đối cung thì thích hợp có một nghề, chỉ cần phát triển một cách thiết thực, thì thanh thế tuy không hiển hách, nhưng vẫn có thể thăng tiến về sự nghiệp và tiền bạc.
Ở đại hạn và lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, là điềm tượng người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt, cũng chủ về địa vị thăng tiến.
Tinh hệ"Thái âm Thái dương"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái dương hóa Quyền, tam phương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, mượn"Thiên cơ Cự môn"nhập cung Tài để hội hợp, mà Cự môn đồng thời hóa Lộc, và còn gặp Lộc tồn.
Do"Thiên cơ Cự môn"ở cung Phúc đức, lúc Cự môn hóa Lộc, thường có biểu hiện lời nói dễ nghe, khéo ăn khéo ở, xử sự uyển chuyển, là đặc trưng của mưu thần và thuyết khách. Vì vậy Thái dương hóa quyền chỉ biểu trưng cho địa vị (ở cung Sửu thì càng như vậy), tích cực làm việc sẽ có địa vị cao, nhưng không được tranh thủ địa vị lãnh đạo thực tế, nếu không ắt sẽ vì vậy mà sinh phá sản, thất bại.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tình hệ này, sẽ chủ về địa vị được thăng chuyển, không chủ về sáng lập sự nghiệp.
Tinh hệ"Thái dương Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái dương hóa Quyền ắt Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc, tham khảo ở đoạn Cự môn hóa Lộc.
Tinh hệ"Thái dương Thiên lương"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Thái dương hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn hội hợp, tam phương có Thái âm độc tọa cư Tài, và mượn"Thiên đồng Cự môn"nhập cung Quan mà Cự môn hóa Lộc.
Nhóm tinh hệ này rất ưa ham muốn về quyền lộc, quyền lộc rất nặng, nên thường thường ở địa vị lãnh đạo có tiếng thanh cao (ở cung Mão thì càng tốt). Nói"có tiếng thanh cao"là bao gồm lãnh vực học thuật, hoặc quan thanh liêm. Cần phải chú ý kết cấu này, Tài bạch sẽ tăng theo địa vị, khi địa vị tăng cao thì cần phải có cống hiến thực tế, từ đó sẽ xác định được phương hướng phát triển của đời người. Đây cũng là đạo"tìm cát tránh hung"vậy.
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp kết cấu tinh hệ này, thì nên chọn sách lược tạo dựng uy tín (bao gồm thương hiệu và tín nhiệm) là tốt nhất.
Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, đối nhau với Thái âm, tam phương hội có Cự môn hóa Lộc độc tọa ở cung Tài, và mượn"Thiên đồng Thiên lương"nhập cung Quan để hội cung, cung Mệnh còn đồng thời gặp Kình Đà, hoặc đồng độ với Kình dương.
Thái dương hóa Quyền ở hai cung độ này, tuy có năng lực đột phá"Thiên la Địa võng", nhưng lại thường vì vậy mà hy sinh hạnh phúc hôn nhân. Thái dương và Thái âm đối nhau, cũng ví như bình đẳng trong hôn nhân, nhưng một khi Thái dương hóa Quyền thì lập tức xảy ra xung đột. Nhất là nữ mệnh, cần lưu tâm ý vị này.
Thái dương hóa Quyền ở cung Thìn có nhiều"triêu khí"(khí ban ngày), nhân sinh quan khá cởi mở, tính tích cực cao, đồng thời cũng dễ thích ứng với xu thế phát triển của xã hội. Thái dương hóa Quyền ở cung Tuất, lại có nhiều"mộ khí"(khí ban đêm), biểu hiện tính chủ quan cực nặng, rất khó thích ứng theo sự chuyển biến của hoàn cảnh, cho nên lúc vận hạn không cát tường thì hay tự mình sinh ra cảm giác"không gặp thời", dễ biến thành tiêu cực.
Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp kết cấu sao kiểu này, trong xã hội hiện đại, thì nên mượn lực của người ở nơi xa (hay người ngoại quốc), nhờ vả mong họ ủng hộ giúp đỡ để tiến thủ. Nếu ở trong giới học thuật thì nên phát biểu chính kiến của mình, hay tạo cơ hội để diễn giảng để nâng cao địa vị.
Thái dương hóa Quyền độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung với Cự môn độc tọa hóa Lộc, tam phương hội cung có Thiên lương độc tọa ở cung Tài và Thái âm độc tọa ở cung Quan. Ở cung Tị còn gặp Lộc tồn, vì vậy ưu hơn ở cung Hợi là Thái dương lạc hãm.
Thái dương ở cung Tị mà hóa Quyền, chủ về có tài lãnh đạo rất mạnh, đồng thời mệnh lệnh ban phát ra cũng khiến cho mọi người vui vẻ tuân thủ nghe theo. Thái dương ở cung Hợi thì chỉ nên lợi dụng sức mạnh của Thiên Lương, lui về phòng thủ, hoặc bảo tồn giữ nguyên cục diện hiện có, không nên chủ động mở rộng, cũng không nên chủ động đứng đầu chịu trách nhiệm thực thi sự việc. Người kinh doanh làm ăn nên chú ý tạo dựng thương hiệu, người trong giới học thuật hoặc giới chuyên nghiệp thì nên chú ý cống hiến trong lãnh vực của mình. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có cùng một ý vị như vậy.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Nhâm - Tử vi Hóa Quyền
Tử Vi hóa Quyền, giống như Hoàng đế đích thân chủ trì xử lý chính sự, cho nên thường khiến cho bàng nhân không xử sự nghiêm cẩn là không thể được. Ở một góc độ khác, đó là khí thế bức người, bầu không khí thường căng thẳng, nặng nề, dễ tạo thành áp lực trong quan hệ. Đây là một đặc điểm lớn nhất của Tử vi hóa quyền.
Do có đặc điểm này, nên Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền rất vất vả, mà lại ít có duyên với người, bởi vì khi giao lưu quan hệ mà mọi người ở bên cạnh sẽ bị áp lực. Bất kể là thượng cấp hay người dưới quyền, đều cảm thấy không được thoải mái, chỉ có người ngoài cuộc mới có thể tán thưởng mà thôi. Người có Tử vi thủ Mệnh hóa Quyền thường hay oán trách sao mình quá vất vả mà chẳng được gì. Nguyên nhân là ở đây !
Hóa Quyền là chủ về quyền lực thực tế, cho nên khi Tử vi hóa Quyền sẽ gánh vác công việc rất cụ thể, tất nhiên mệnh tạo cũng có đủ năng lực một mình đảm trách công việc. Nhưng hễ cung Mệnh là Tử vi hóa Quyền, thì cung Tài bạch ắt sẽ là Vũ khúc hóa Kị, công việc bị ảnh hưởng vì Hóa Kị nên không thích hợp trong kinh doanh làm ăn, nhất là khi mình tự chủ. Đây là khuyết điểm lớn nhất của Tử vi hóa Quyền, bởi vì bản thân người Tử Vi khi hóa Quyền dám làm dám chịu. Trong hoàn cảnh không thể tự chủ, phải làm việc dưới quyền người khác, thì người Tử vi hóa Quyền lại phải chịu áp lực một cách miễn cưỡng, tâm lý lao động không nhiệt tình, mà không thể mang thông minh tài chí của mình ra mưu cầu lợi ích cho bản thân. Đây cũng là một nguyên nhân gây nên nhiều biến cố, để lại những hậu quả bất lợi một cách không cần thiết, nhất là trong môi trường giao lưu thù tạc.
Bản thân Tử Vi vốn đã có sắc thái độc đoán, yêu ghét đều có tính kích động, sau khi hóa Quyền thì tính dễ bị kích động càng tăng, do đó thường ảnh hưởng đến tính lãnh đạo của họ. Bởi vì người giỏi phát huy tài lãnh đạo thì không nên kích động và ương bướng.
Bản thân Tử vi vốn có đặc tính nổi bật nhất là bao dung chịu đựng, sau khi hóa Quyền thì đặc tính này càng được phát huy, cho nên dễ tha thứ cho đối phương, khiến người ta nhiều lúc cảm thấy bất ngờ.
Tử Vi độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, ắt sẽ gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương, có Tham Lang độc tọa ở đối cung, tam phương hội"Liêm trinh Thiên phủ"ở cung Quan mà Thiên phủ hóa Khoa, và hội"Vũ khúc Thiên tướng"ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.
Ngoài những đặc điểm của Tử Vi hóa Quyền, về phương diện sự nghiệp còn có sắc thái của Thiên Phủ hóa Khoa, đó là rất xem trọng uy tín, ở một mức độ nhất định nào đó, thì có thể biến thành người bảo thủ, nhờ vậy mà đã giảm bớt nguy hại do Vũ Khúc hóa Kị ở cung Tài mang lại. Chỉ có biểu hiện tiêu xài lãng phí.
Tử Vi hóa Quyền ở cung Ngọ còn có đặc điểm bất lợi về hôn nhân, đặc biệt là đối với nữ mệnh. Đây là vì bị ảnh hưởng bởi Tham Lang ở đối cung, trở thành cách"Phiếm thủy đào hoa"dễ có tình mà lại không có duyên, có duyên mà lại không có tình.
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, là biểu trưng cho sự phát triển quyền lực. Nhưng cần phải chú ý điều độ về mặt tài chính, nếu không dễ bị túng thiếu.
Tinh hệ"Tử vi Phá Quân"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tử vi hóa Quyền (ở cung Mùi còn gặp Lộc tồn), đối cung là Thiên tướng, tam phương hội cung có"Liên trinh Tham lang"ở cung Quan, và"Vũ khúc Thất sát"ở cung Tài mà Vũ khúc hóa Kị.
Do ảnh hưởng của Phá Quân đồng độ, nên so với Tử Vi hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì Tử vi hóa Quyền ở Sửu hoặc Mùi ít thận trọng hơn. Vì vậy mà do sự cải biến của người này có biên độ quá lớn, dẫn đến xảy ra khó khăn về mặt tài chính, nhưng họ lại vẫn cố tình chống đỡ, khiến cho tâm lực vất vả. Đạo"tìm cát tránh hung"chính là đừng tìm và không thể cầu"thể hiện sắc thái đặc tính của bản thân", khi bộc lộ sắc thái cá nhân hoặc đặc tính một cách thái quá thì sẽ bất lợi, duy chỉ có thể làm việc một cách thiết thực, thì mới được bàng nhân quan tâm ủng hộ và tán thưởng.
Do Tử vi có đặc tính"kích phát","kích động", nên khi gặp Tử phụ Hữu bật đồng cung, hoặc Tả Hữu giáp cung, sẽ mang lại ảnh hưởng rất lớn đối với kết cấu Mệnh cục này.
Ở lưu niên hay đại hạn thông thường có ý vị làm tăng chuyển biến về quyền lực, nhưng vẫn phải tự lượng sức mình. Nhất là phải chú ý tính chất của cung Huynh đệ và cung Giao hữu (cung Nô).
Tinh hệ"Tử vi Thiên phủ"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Tử vi hóa Quyền thì Thiên phủ ắt sẽ hóa Khoa, tam phương hội cung có"Liêm trinh Thiên tướng"ở cung Quan, và Vũ khúc độc tọa mà Hóa Kị ở cung Tài. Đối cung là Thất sát, cung Mệnh còn gặp Kình dương và Đà la.
Nhóm tinh hệ kết cấu này, tuy có ảnh hưởng của Thiên phủ hóa Khoa, nhưng đối cung là Thất sát, sẽ khiến cho quyền lực của Tử vi khi hóa Quyền thêm nạng, do đó dễ vì có quyền lực mà hành động một cách bất cẩn, làm cho sức mạnh của Thiên phủ hóa Khoa không thể phát huy.
Hơn nữa, Tử vi hóa Quyền mà đồng độ với Thiên phủ hóa Khoa, một"công"một"thủ"có mâu thuẫn quá lớn, cho nên có lúc phản ứng sai lầm, tiến thoái không hợp thời cơ, nên lại không được toàn mỹ.
Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp nhóm tinh hệ này, cũng thường bị tình cảnh do dự giữa tiến và thoái. Cần phải xem ở vận sau kế tiếp là"cát"hay"hung", để quyết định nên như thế nào, tiếp tục hành động hay là nên dừng lại.
Tinh hệ"Tử vi Tham lang"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, mà Tử vi hóa Quyền ở cung Mão sẽ gặp Lộc tồn, tam phương hội cung có"Vũ khúc Phá quân"ở cung Tài mà Vũ khúc đồng thời hóa Kị, và"Liêm trinh Thất sát"ở cung Quan.
Tử Tham gặp Quyền Lộc, chủ về cực lực theo đuổi ham muốn vật chất, cũng đồng thời theo đuổi ham muốn quyền lực, cho nên dễ khiến nhìn bề ngoài thì tích cực, nhưng trên thực tế lại cảm thấy trống rỗng. Nhất là tổ hợp"Vũ khúc Phá quân"hóa Kị, thường sẽ khiến cho lý tưởng của mệnh tạo không thực hiện được, cuộc sống vì tiền bạc khống chế, nên nội tâm càng buồn rầu lo lắng. Tuy bề ngoài vẫn duy trì vẻ tôn nghiêm, lạc quan, mà về mặt tinh thần thường luôn không ổn định (rắc rối).
Tinh hệ"Tử vi Thiên tướng"thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, mà Tử vi hóa Quyện bị Kình Đà hội chiếu, hoặc có Đà La đồng cung, đối cung có Phá quân, tam phương hội cung có"Vũ khúc Thiên phủ"ở cung Tài, phân ra một sao hóa Kị một sao hóa Khoa, và Liêm trinh độc tọa cư Quan.
Nhóm tinh hệ này bị"Vũ khúc Thiên phủ"gây ảnh hưởng rất lớn. Trong các tình huống thông thường, chủ về tính tự tôn cực nặng. Nhưng để giữ tính tự tôn, trên thực tế thường thường lại không cần thiết phải trả giá như vậy.
Gặp nhóm tinh hệ này trên vận trình, phần nhiều lại xảy ra trắc trở đột ngột. Sức mạnh ở của Tử vi hóa Quyền có thể chịu đựng trắc trở, nhưng nội tâm lại đau khổ. Vì vậy mệnh tạo càng có biểu hiện cực kỳ xung động, thường gây ra nhưng biến động thay đổi khiến người ta phải bất ngờ.
Ở đại hạn hoặc lưu niên còn cần lưu ý, trong vận hạn không được sống độc lập một cách quá đáng, hoặc quá lộ sự sắc xảo, nếu không sẽ xảy ra trắc trở.
Tinh hệ"Tử vi Thất sát"thủ Mệnh mà Tử vi hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, có Lộc tồn đồng độ hoặc vậy chiếu. Tam phương hội hợp có"Liêm trinh Phá quân"ở cung Quan, và"Vũ khúc Tham lang"có Vũ khúc hóa Kị ở cung Tài.
"Tử vi Thất sát"vốn đã có ý vị quyền lực, sau khi Tử vi hóa Quyền thì tính chất quyền lực càng nặng. Nhưng ở cung Tài do Vũ khúc hóa Kị khiến cho quyền lực bị khống chế, cung Quan lại thường hay đổi ý bất nhất, may mà đối cung là Thiên di có Thiên phủ hóa Khoa có thể điều hòa.
Do đó có thể biết, nhóm tinh hệ này đầy sắc thái mâu thuẫn, hành động thuộc Hậu thiên có ảnh hưởng rất lớn đối với mệnh tạo. Nếu có các sao Cát hội hợp, thì có thể làm những ngành nghề có thể bộc lộ sự sắc sảo để dễ có cảm giác thỏa mãn. Còn nếu các sao không hợp không cát tường, có thể phát triển thành"cọp mà ăn thức ăn của mèo"hoặc thậm chí tủ tiền trống rỗng.
Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, thường thường là cơ hội chuyển biến, nhưng không được triển khai cục diện lớn quá.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Mậu - Thái âm Hóa Quyền
Thông thường Thái Âm hóa Quyền có thể mang lại tính chất Cát Lợi. Ý nghĩa trực tiếp nhất là làm mạnh thêm quyền kiểm soát tài chính. Nhưng cần chú ý,"tài tinh"Thái âm khác với"tài tinh"Vũ khúc. Nếu so sánh, thì Thái âm mang ý nghĩa trìu tượng, nên"quyền tài chính"không phải là giầu có, mà là nói mệnh tạo có thể vận dụng tiền bạc (ở xã hội hiện đại, người trong giới làm ăn kinh doanh thường có tính chất này).
Đối với Thái âm lạc hãm, lúc hóa Quyền sẽ giúp cải thiện một số tính chất xấu. Ví dụ: vốn bất lợi đối với mẹ, chị em gái, hoặc vợ và con gái, nhưng khi hóa Quyền thì giảm nhẹ tình huống bất lợi, như"sinh ly"thì biến thành"gặp nhau ít mà xa nhau nhiều", .v.v... Cần phải xem tình hình cụ thể của từng vận hạn mà định. Có điều, nếu Thái âm lạc hãm bị hóa thành sao Kị ở nguyên cục, mà lúc ở đại hạn hoặc lưu niên lại hóa thành sao Quyền, thì thường sẽ biến thành lực"kích phát"rất bất lợi.
Nam mệnh Thái âm hóa Quyền sẽ có sức hút đặc biệt đối với người khác giới. Nhưng tình cảm dành cho người khác giới vẫn có lý trí, không giống như Thái âm hóa Lộc quá thiên nạng về tình cảm.
Nữ mệnh Thái âm hóa Quyền, chủ về có"thuật"chế ngự chồng, tuy chế ngự chồng, nhưng người ngoài khác không nhận thấy đó là chế ngự chồng, mà vẫn chỉ thấy họ là người phụ nữ hiền thục. Nữ mệnh mà cung Phúc đức là Thái âm hóa Quyền thì có tính chất khác, đó là tình cảm dành cho chồng thường kém mặn nồng (lạnh nhạt), khác với Thái âm hóa Quyền ở cung Mệnh có tình cảm vợ chồng tốt đẹp hơn.
Tinh hệ"Thiên đồng Thái âm"đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thái âm hóa Quyền hội với"Thiên cơ Thiên lương"cư Quan mà Thiên cơ hóa Kị, và mượn"Thái dương Cự môn"nhập cung Tài để hội hợp có Thái dương hóa Khoa. Cung Mệnh gặp Kình dương Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Nhóm tinh hệ này, Thái âm hóa Quyền có Thái dương hóa Khoa hội chiếu, thông thường đều có biểu hiện tốt lành. Cung Quan Thiên cơ hóa Kị, chủ về sự nghiệp có nhiều biến động thay đổi, dù ở cùng một nơi làm việc cũng chủ về liên tiếp bị điều động sang nhiều cương vị công tác khác nhau. Hơn nữa trong nhiều tình huống, mệnh tạo sẽ không chuyên một nghề, cũng chính vì bị thay đổi quá nhiều lần, nên dù có khéo thay đổi thì thu nhập thực tế cũng không nhiều. Chỉ trong tình hình có các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp có tác động tích cực thì sự nghiệp mới hơi ổn định, thu nhập cũng khá hơn, những vẫn thuộc tính chất"danh lớn hơn lợi". Ở lưu niên hay đại hạn gặp nhóm tinh hệ này, thường thường chuyển biến thành vận trình có tính sáng tạo. Có lúc còn tốt hơn so với gặp nhóm tinh hệ này ở nguyên cục.
Tinh hệ"Thái dương Thái âm"đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Thái âm hóa Quyền còn Thái dương hóa Khoa, tương hội Thiên lương độc tọa cư Quan, và mượn"Thiên cơ Cự môn"nhập cung Tài để hội hợp, mà thiên cơ hóa Kị. Trường hợp ở cung Sửu thì"Thái dương Thái âm"có thể gặp Lộc tồn. Nhật Nguyệt đồng độ với đã có ý nghĩa"chợt âm chợt dương", có ý vị mâu thuẫn, lúc thì tích cực, lúc thì tiêu cực. Thái âm hóa Quyền làm tăng thu hoạch, Thái dương hóa Khoa làm tăng sự phát tán, hai tính chất này dễ gây ra xung đột mâu thuẫn về tâm trạng. Do cung Quan là Thiên lương, vì vậy cũng dễ xuất hiện biến động thay đổi và bị quấy nhiễu, gây khó khăn về phương diện sự nghiệp. Cung Tài là Thiên cơ hóa Kị đồng độ với Cự môn, chủ về lao tâm tổn thần cực độ, cho dù ở đại hạn hay lưu niên cũng thường có hiện tượng đồng dạng.
Tinh hệ"Thiên cơ Thái âm"đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên cơ hóa Kị, Thái âm hóa Quyền, gặp Đà La, các sao hội hợp là Thiên lương độc tọa cư Quan và Thiên đồng độc tọa cư Tài. Do hai sao Hóa của Cơ Âm có tính chất xung đột nhau, Thái âm hóa Quyền chủ về ổn định, Thiên cơ hóa Kị lại chủ về biến thiên, do vậy thường diễn hóa thành bất ổn trong công việc bình thường, thích đi đường tắc để tìm sự thay đổi, nhất là dễ theo đuổi hư danh, làm ảnh hưởng đến sự thành tựu của bản thân. Tinh hệ này còn bất lợi về tình cảm, nhất là nữ mệnh, tuy giỏi"chế ngự"chồng, nhưng tình cảm vợ chồng lại rất ngăn cách. Có điều, người ngoài lại vẫn cứ tưởng hai vợ chồng rất ân ái, tính chất này càng nặng nếu"Thiên cơ Thái âm"ở cung Thân. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tổ hợp tinh hệ này, thường thường là mất cơ hội thay đổi.
Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Mão hoặc Dậu (ở Dậu thì Thái âm có thể hội Lộc tồn ở cung Tị), Thiên đồng ở đối cung, có Thái dương hóa Khoa cư Tài và Thiên lương độc tọa cư Quan. Thái dương và Thái âm ở riêng hai cung, sự xung đột ít hơn, do đó tính chất không ổn định cũng ít hơn. Nhưng lại dễ biến thành an phận trong hiện trạng, kế hoạch của bản thân không thông suốt, nên ảnh hưởng đến sự thành tựu. Muốn luận đoán thực tế mệnh cách là cao hay thấp, cần phải xem xét kỹ các đại hạn mà định, từ đó có thể nắm được"tiên cơ"để tiến hành phép"tìm cát tránh hung". Thông thường tinh hệ này bất lợi về tình cảm và hôn nhân, thường có khuynh hướng tái hôn. Người vợ nguyên phối dễ bị tình trạng tính cách không hợp nhau. Kết hôn muộn cũng là phép"tìm cát tránh hung"nên tính đến. Ở đại hạn hay lưu niên mà gặp tinh hệ này, nên nắm chắc cơ hội phát triển.
Thái âm độc tọa thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thái dương hóa Khoa ở đối cung, gặp Kình Đà, hoặc có Đà La hội chiếu, hội hợp với"Thiên đồng thiên lương"cư Quan và Thiên cơ hóa Kị cư Tài. Thái âm ở hai cung độ này là rơi vào"thiên la địa võng", còn có bản chất không điều hòa với Thái dương, gây ra ý vị xung đột, hơi giống tình trạng hai sao này đồng cung ở Sửu Mùi, chỉ khác nhau là không xung đột trực tiếp. Vì vậy người Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có thể bỗng nhiên lập ra một kế hoạch, rồi cũng bỗng nhiên hủy bỏ kế hoạch đó. Nhưng ở hai cung Thìn hoặc Tuất, thì lại hay trì hoãn, kéo dài, không thực hiện ngay kế hoạch, mà cũng không hủy bỏ kế hoạch. Trì hoãn ở đây còn mang hàm nghĩa"đầu voi đuôi chuột". Thêm vào đó cung Tài là Thiên cơ hóa Kị, chủ về có được đồng tiền thì rất hao tâm tổn lực, khác với Thái âm hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi."Thiên đồng Thiên lương"ở cung Quan chủ về phải rất vất vả về ăn nói, thuyết phục, giải trình. Đây là đặc điểm của Thái âm hóa Quyền ở"Thiên la Địa võng". Trong vận hạn mà gặp tinh hệ này, thì không có bản chất như đã thuật ở trên, cần phải xét kỹ các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, hội hợp thực tế để định cát - hung.
Thái âm hóa Quyền thủ Mệnh, độc tọa ở hai cung Tị hoặc Hợi, ắt sẽ gặp Lộc tồn và đối nhau với Thiên cơ hóa Kị. Mượn"Thiên đồng Cự môn"nhập cung Tài để hội hợp, cùng hội hợp"Thái dương Thiên lương"ở cung Quan mà Thái dương hóa Khoa. Trong hai cung, Thái âm ở cung Hợi tốt hơn nhiều so với ở cung Tị. Có điều bất kể là cung Tị hay cung Hợi, đều là cách"Lộc gặp Thái âm", chủ về gặp nhiều rắc rối về tình cảm, nhưng giỏi quản lý tài chính. Sau khi sự nghiệp ổn định thì tình cảm và sự nghiệp lại đều không ổn định, nhưng nguồn tiền tài lại cực kỳ thịnh vượng. Sự nghiệp không ổn định ở đây cũng chưa hẳn là khuyết điểm, bởi vì khi Thái âm hóa Quyền thì chủ động tìm sự thay đổi, thường có thể phát triển tốt hơn. Ở đại hạn hay lưu niên cũng có ý vị thay đổi theo hướng tốt.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Đinh - Thiên đồng Hóa Quyền
Rất khó xác định tính chất cơ bản của Thiên Đồng hóa Quyền, nên cần phải quan sát các sao mà Thiên đồng hội hợp, xem nó là Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, hay Tạp diệu để luận đoán cụ thể. Dưới đây là trinh bày các nguyên tắc thông thường.
Bản thân Thiên đồng thiếu năng lực khai sáng, khi hóa Quyền có thể làm tăng sức mạnh của nó, nhưng tình hình"phá tổ thành gia"(phá tổ nghiệp phải tự lập),"ly tổ tự hưng"(rời quê hương tự làm nên) thì vẫn khó tránh.
Thiên đồng có sắc thái hưởng lạc, lúc hóa Quyền có thể biến thành năng lực theo đuổi sự hưởng lạc, suốt ngày chìm đắm trong dục lạc, không còn thời gian nghĩ đến sự tiến thủ.
Thiên đồng hóa Quyền, có lúc sẽ phát triển thành tính dựa vào quyền thế, đi đường tắt để cầu thành tựu.
Nữ mệnh Thiên đồng hóa Quyền cũng khó luận đoán, bởi vì lúc có các sao ác sát giao hội, tụ tập, thì Hóa Quyền sẽ dễ khiến mệnh tạo bị cuốn vào cuộc sống hưởng thụ trụy lạc nhiều. Hơn nữa đây không phải là bị hoàn cảnh khách quan gây ảnh hưởng, mà thường là do bản thân quyết định. Nhưng lúc các sao Cát tường hội hợp, thì đây là mạng được hưởng phước thanh nhàn, nhưng lại dễ bị tình trạng suốt ngày không có việc gì làm, nên phải tìm cách tiêu khiển để giết thời gian. Chỉ trong tình hình có hai sao Sát tinh và Cát tinh phối hợp thích đáng, thì mới bắt đầu tạo dựng sự nghiệp của riêng mình, lúc này đời người mới có mục đích.
Tinh hệ"Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, mà Thiên đồng hóa Quyền thì Thái âm đồng thời hóa Lộc. Xin tham khảo ở đoạn"Thái âm hóa Lộc".
Tinh hệ"Thiên đồng Cự môn"đồng độ thủ mệnh ở cung Mùi (hoặc Sửu), mà Thiên đồng hóa Quyền thì Cự môn sẽ đồng thời hóa Lộc. Cung Quan hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa. Cung Tài mượn"Thái dương Thiên lương"nhập cung để hội hợp, đồng thời có Kình Đà hội hợp, hoặc đồng cung với Kình dương. Sắc thái đặc biệt của nhóm tinh hệ này là Thái âm hóa Lộc ở cung Phu thê. Thái âm hóa Lộc ở cung Hợi là cát, còn cách tứ hóa"Lộc Quyền Khoa Kị"đều gặp đủ, cho nên tuy chủ về có ngoại tình, nhưng về phương diện hôn nhân lại có khuynh hướng lấy vợ đẹp, được vợ trợ lực. Nữ mệnh thì chủ về chồng có sự nghiệp tốt, nhưng cũng dễ có tình nhân bên ngoài. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ này, sẽ chủ về dễ xảy ra tình huống ngầm có rắc rối về tình cảm. Thiên đồng hóa Quyền còn làm mạnh thêm sự xung động trong bản thân.
Tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên đồng hóa Quyền (ở cung Dần còn đồng độ Lộc tồn), ắt sẽ đồng thời hội Thái âm độc tọa hóa Lộc ở cung Tài, và hội Thiên cơ độc tọa hóa Khoa ở cung Quan, thành cách"Lộc Quyền Khoa hội", thông thường đều là cách cục tốt lành. Nhưng nhóm tinh hệ này lại hoàn toàn có khuynh hướng làm mạnh thêm đặc tính của Thiên lương. Cho nên thông thường đều chủ về nhiệt tâm đối với việc công ích, hoặc thích giúp đỡ người khác mà không ngại vất vả, đồng thời bản thân cũng có sinh hoạt hưởng thụ lành mạnh. Khuyết điểm của tinh hệ này là Cự môn hóa Kị ở cung Phu thê, nên thường xảy ra tranh cãi ồn ào không càn thiết, có thể dẫn đến có tình cảm với người bên ngoài, nhưng không vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Ở đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ này thì không mang ý nghĩa ngoại tình và vợ chồng tranh cãi ồn ào như gặp ở nguyên cục. Mà chủ về sáng lập sự nghiệp và có công trạng, chí ít cũng chủ về xảy ra chuyển biến theo hướng tốt lành.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, gặp Kình dương hoặc Đà la, có Thái dương ở đối cung hóa Lộc, có Thiên cơ hóa Khoa và Cự môn hóa Kị hội hợp. Đây là cách tứ hóa"Lộc Quyền Khoa Kị"đều gặp đủ, chủ về làm những nghề mang tính phục vụ, cần đến tài ăn nói để kiếm tiền, đây là phương hướng phát triển tốt nhất. Thiên đồng hóa Quyền ở cung Mệnh không chủ về phát đột ngột, chỉ chủ về sự nghiệp phát triển vững chắc, thông thường cuộc sống cũng nhàn hạ. Ở thời hiện đại, tinh hệ này cũng thích hợp với nghề bán lẻ. Thông thường"Cơ Nguyệt Đồng Lương"không thích hợp tự kinh doanh làm ăn, nhưng gặp tinh hệ kết cấu kiểu này thì cũng có thể suy tính đến việc kinh doanh bán lẻ. Có điều không nên đầu cơ, không nên hợp tác với người khác.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ưa Cự môn hóa Kị ở đối cung"kích phát", hội hợp Thiên lương và"Thái âm Thiên cơ"hóa Lộc hóa Khoa. Thiên đồng ở cung Tuất rất ưa gặp Lộc tồn bay đến cung Ngọ, gọi là"phản bối", chủ về"qua cơn mưa trời lại sáng". Dù Thiên đồng ở cung Thìn cũng chủ về phát vượt lên. Vì vậy, trong các tình huống thông thường, có thể nói Thiên đồng rất ưa cung hạn Hóa Quyền. Đặc biệt cần phải chú ý cung Phúc đức, Thái dương độc tọa tương hội Thiên lương, chủ về thích hợp nghiên cứu học thuật, ý nghĩa sâu hơn nữa là, thích hợp với những công việc đòi hỏi lao tâm nhiều hơn lao lực. Nhưng ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có dạng kết cấu này, thì không có những tính chất như đã thuật ở trên. Còn rất ngại Cự môn hóa Kị, mang lại quấy nhiễu, gây khó khăn, thường chủ về gặp những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm.
Thiên đồng độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, gặp Kình Đà hoặc đồng độ với Đà La, Thiên lương độc tọa ở đối cung. Mượn"Thái dương Thái âm"mà Thái âm hóa Lộc để hội hợp, và hai sao hội hợp khác là"Thiên cơ Cự môn"hóa Khao hóa Kị. Đây cũng thành cách"Lộc Quyền Khoa Kị"đều gặp đủ, nhưng do vị trí hội hợp có khác nhau nên tính chất cũng khác nhau. Nếu so sánh thì đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân,"Thiên cơ Cự môn"ở cung Phu thê, mà Cự môn hóa Kị làm mạnh thêm ý vị"phá sạch". Nói về sự nghiệp thì vẫn có thể luận đoán là tốt lành, nhưng muốn trong sự nghiệp không bị đố kị, thị phi, oán trách, thì nên trọn những ngành nghề cần tài ăn nói để kiếm tiền, sẽ có hiệu quả với đạo"tìm cát tránh hung". Ưa đi đường tắt, vốn là biểu hiện rất cụ thể của nhóm tinh hệ này, đây cũng là nhân tố dẫn đến oán trách thị phi.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Giáp - Phá Quân Hóa Quyền
Phá Quân hóa Quyền không bằng hóa Lộc. Hóa Lộc có thể khiến cho quá trình thay đổi thuận lợi, có kết quả tốt đẹp, nhưng lúc hóa Quyền thì không thể đảm bảo một cách chắc chắn rằng sẽ tránh được thất bại.
Sắc thái đặc biệt của Phá quân hóa Quyền là ở phương diện phô trương thanh thế. Nhưng thanh thế lớn có lúc chỉ có thể khiến cho người khác dễ có khuynh hướng nghe theo ý kiến của bản thân mệnh tạo, vẫn không thể tránh được các tình huống trắc trở, rắc rối. Thâm chí nhiều khi còn xuất hiện tình huống này, người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có ý muốn thay đổi hoàn cảnh khách quan (ví dụ như muốn kinh doanh thêm một ngành khác), mà bản thân mệnh tạo không nắm chắc tình hình thực tế, nhưng sau khi mang suy nghĩ của mình nói cho người khác nghe, người khác lại cho rằng bản thân họ đã có thành tựu và không ngừng thúc dục, thậm chí còn trợ giúp cụ thể, rốt cuộc thành thế cưỡi lưng cọp, không tiến hành không xong.
Cho nên trong đại hạn gặp Phá quân hóa Quyền thủ cung Mệnh, cung Quan hay cung Tài thì cần phải lưu ý, lúc gặp lưu niên không tốt thì không được mạo muội đưa ra chủ ý của mình, để tránh âm dương không phối hợp, rốt cuộc bị buộc phải thay đổi trong hoàn cảnh đầy trắc trở.
Hễ Phá quân hóa Quyền thì Liêm trinh ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Lộc của Liêm trinh có tài khí không lớn, không đủ để ỷ lại. Chỉ khi nào có kết cấu sao Cát tường, thanh thế của Phá quân hóa Quyền mới có lợi để tiến hành sự việc.
Phá quân thủ Mệnh hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là"Liêm trinh Thiên tướng"mà Liêm trinh hóa Lộc. Cung Quan là Tham lang độc tọa. Cung Tài là Thất sát cũng độc tọa có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, ở tam phương tứ chính đều không gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ có kết cấu dạng này khá tốt lành, có lợi về khai triển sự nghiệp, tài lộc cũng theo đó mà tăng lên, nhưng không được có Địa không Địa kiếp Hỏa tinh Linh tinh hội chiếu Phá quân. Tinh hệ kết cấu dạng này ở tinh bàn nguyên cục có thể nói là cách cục đẹp, dù đại hạn hoặc lưu niên gặp kết cấu này, cũng chủ về biến động thay đổi theo hướng cát tường. Nhưng nhóm tinh hệ này, cổ nhân lại cho rằng không thích hợp với nữ mệnh, chủ yếu là về phương diện hôn nhân. Cung Phu thê là Vũ khúc hóa Khoa hội"Tử vi Thiên phủ", lại hội"Liêm trinh Thiên tướng"mà Liêm trinh hóa Lộc (Phá quân ở cung Tý thì Vũ khúc còn hội Lộc tồn), kết cấu dạng này thường dễ xảy ra tình huống thay lòng đổi dạ, bất mãn chồng, do đó ảnh hưởng đến đời sống hôn nhân.
Tinh hệ"Tử vi Phá quân"thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Phá quân hóa Quyền (đồng độ với Đà La, hoặc hội Kình Đà). Cung Quan là"Liêm trinh Tham lang"có Liêm trinh hóa Lộc. Cung Tài là"Vũ khúc Thất sát"có Vũ khúc hóa Khoa. Ở tam phương đều gặp Sát tinh. Tuy gặp Kình Đà nhưng ở cung Mệnh mà gặp nhóm tinh hệ này, vẫn có thể xem là thượng cách. Nếu tam phương là Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa tụ hội, phối trí quân bình, thì Kình Đà chỉ chủ về tình huống căng thẳng mà thôi. Đời người không thể thập toàn thập mỹ, không thể việc gì cũng thuận lợi, vì vậy không thể xem đây là khuyết điểm trọng đại. Nhóm tinh hệ này có biểu hiện chủ động, còn có sở trường giao tế, có thể lợi dụng quan hệ giao du để trợ giúp cho công việc làm ăn, cũng thường thích đầu tư vốn lớn vào sự nghiệp mới, đầu óc linh hoạt và tinh tế sắc sảo. Chỉ có một khuyết điểm lớn, đó là người dưới quyền không đắc lực, nên khó tránh khỏi phải vất vả, mà còn bất lợi nếu phát triển ở tha hương.
Phá quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đối cung là"Vũ khúc Thiên tướng"mà Vũ khúc hóa Khoa. Cung Tài là Thất sát. Cung Quan là Tham lang. Phá quân có sao Lộc được hóa Quyền, cho nên lực"xung kích"cực kỳ mạnh, thanh thế cũng lớn, có thể nói là đời người nhiều biến đổi, nhiều đột phá, thường không giữ một nghề. Cung Di là"Vũ khúc Thiên tướng", mà Vũ khúc hóa Khoa, còn có Lộc tồn hội hợp, thành cách"Lộc Quyền Khoa hội cách", do đó rất có lợi đối với người Phá quân hóa Quyền thủ Mệnh, có thể rời khỏi quê hương để phát triển, hoặc có khả năng chủ động sửa đổi hoàn cảnh khách quan, thường thường có kết quả tốt hơn ban đầu. Chỉ có một điều tệ hại là Thất sát hội sao Lộc ở cung Tài, tài lộc vượng mà không giỏi quản lý, thêm vào đó cung Huynh và cung Nô đều không ổn định, về phương diện quản lý tài chính lại không thể ủy thác cho người khác, nên dễ có hiện tượng tài chính vượt khỏi tầm kiểm soát. Tinh hệ"Liêm trinh Phá quân"thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Liêm trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền. Xin tham khảo ở đoạn"Liêm trinh hóa Lộc".
Phá Quân độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Thìn hoặc Tuất. Cung Quan là Tham lang độc tọa, có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, đồng thời ắt cũng có Liêm trinh hóa Lộc vây chiếu. Cung Tài là Thất sát độc tọa (chỉ có Thất sát tọa cung Ngọ mới hội Lộc tồn). Cung Quan có sao Lộc nặng, cung Tài có sao Lộc nhẹ, cho nên ý nghĩa của Phá quân hóa Quyền có thể biến thành nắm quyền tài chính, mà không thể tích lũy tiền của. Nếu kinh doanh làm ăn, thì thường giỏi"công"mà không giỏi"thủ", thậm chí vượt quá tầm kiểm soát. Cần phải tích lũy cho đến lúc có tài lực kha khá, mới phát động đột phá một lần, như vậy sẽ tốt hơn là cứ hay thay đổi lặt vặt. Đây là đạo"tìm cát tránh hung"cải thiện vận mệnh đời người. Đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ có kết cấu kiểu này, cần phải tham khảo thêm vận hạn sau để tính toán phương cách hành động. Tinh hệ này sở trường về ra quyết sách, cho nên làm việc trong lĩnh vực tài chính kinh tế là tốt nhất. Cung Di có Lộc Quyền Khoa tụ hội, cho nên cũng có lợi về chuyển đi xa. Chỉ có một khuyết điểm là không giỏi xử lý theo chế độ công ty, nên tâm chí thường có cảm giác bị rối loạn.
Tinh hệ"Vũ khúc Phá quân"thủ Mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Vũ khúc hóa Khoa còn Phá quân hóa Quyền. Cung Quan là"Tử vi Tham lang"ắt sẽ có Kình Đà hội chiếu hoặc Kình dương đồng độ. Cung Tài là"Liêm trinh Thất sát"mà Liêm trinh hóa Lộc ắt cũng có Kình Đà hội chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Nhóm tinh hệ này, người đời Thanh có thuyết:"Vũ khúc Phá quân Hóa Khoa Hóa Quyền, nhậm chức về quân nhu", do đó có thể thấy sắc thái đặc biệt của nó. Giỏi quản lý tài chính, giỏi kiếm tiền, là hai đặc điểm lớn nhất của tinh hệ này. Nếu kinh doanh làm ăn, thì khó tránh vì tham vọng quá lớn mà làm tăng vất vả khổ lụy, nhưng lại dễ khiến cho người khác phải giật mình vì thành tích của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này đồng thời cũng có một nguy cơ, đó là do làm việc quá vất vả nên dễ ảnh hưởng đến sức khỏe. Thích hợp với những ngành nghề kinh doanh phục vụ, có tính chất tiêu dùng. Nếu nhậm chức làm công hưởng lương, thì nên đề phòng có quan hệ không tốt đối với thượng cấp. Vì Thái dương hóa Kị ở cung Phụ mẫu, cũng dễ xảy ra tình huống soi bói, bới móc."Vũ khúc Phá quân"ở cung Hợi thì càng nặng.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Ất - Thiên lương Hóa Quyền
Thiên Lương tính chất có sang quý thanh cao, khi Hóa Lộc sẽ hình thành sự mâu thuẫn về bản chất, nhưng Hóa Quyền thì không có ảnh hưởng, trái lại còn làm mạnh thêm mức độ sang quý thanh cao.
Ví dụ như thiên Lương đủ sức đảm nhiệm chức vụ quản đốc, giám đốc quản lý công tác, nếu hóa Quyền thì có thể có địa vị của một chuyên viên như chuyên viên kiểm toán, chuyên viên khảo sát, cho đến luật sư, .v.v...
Thiên Lương hóa Quyền mà có nhiều sao phụ tá hội chiếu hoặc đồng độ, không những là tượng trưng cho quyền lực, mà còn tượng trưng cho địa vị."Địa vị"nói ở đây không phải nói về"địa vị"do sự giầu có (xã hội ngày nay có phong khí xem trọng"phú"mà không xem trọng"quý", do đó mới xảy ra hiện tượng phân biệt như vậy), mà là nói"địa vị"của người được tôn trọng, được tôn sùng. Ví dụ như giáo sư, nhà văn, nhà nghiên cứu học thuật, hoặc các chuyên viên cao cấp được xem trọng trong các lĩnh vực, .v.v...
Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên Lương hóa Quyền, thì không mang ý nghĩa đã thuật ở trên. Bởi vì không chỉ ở trong một đại hạn hoặc một lưu niên, mà bỗng nhiên trở thành một giáo sư, một chuyên viên cao cấp, .v.v... nhưng vẫn chủ về uy tín trong một lĩnh vực nào đó. Ví dụ như một thương nhân, đại hạn gặp Thiên Lương hóa Quyền, có thể trong 10 năm đó sẽ làm cho thương hiệu của mệnh tạo có tiếng tăm hơn. Ở lưu niên cũng chủ về đây là năm có thanh danh hơn.
Nhưng tính chất của Thiên lương cũng mang lại những tình huống rắc rối khó xử, chẳng vì có hóa Quyền mà hết được. Có hóa Quyền chỉ chủ về lúc hóa giải sẽ gặp ít trở lực hơn một chút, hoặc là lúc gặp nhiều phiền phức thì mệnh tạo lập tức biết được phương hướng giải quyết, đồng thời còn được trợ lực rất hữu dụng.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Thái dương, hội"Thiên cơ Thái âm"mà Thiên cơ hóa Lộc còn Thái âm hóa Kị, lại hội Thiên đồng độc tọa; hai nhóm sao này ắt sẽ gặp Kình dương Đà la. Nếu nguyên cục gặp kết cấu dạng này, có thể nhờ nghiệp dư để kiếm tiền, hoặc đương số nên làm những nghề có tính"cô khắc và hình kị"(như khoa dược, khoa y, trật đả, tư pháp, .v.v...), đồng thời tài lộc của người này cũng sẽ có ý vị hao tổn tinh thần, hơn nữa dù thừa kế sự nghiệp của bậc trưởng bối, ắt cũng sẽ trải qua sự biến động thay đổi triệt để, biến đổi thành cục mới hoàn toàn, giống như tay trắng sáng lập sự nghiệp. Thời cổ đại không ưa nữ mệnh gặp kết cấu dạng này, bởi vì dễ vì áp lực của hoàn cảnh khách quan mà thành trụy lạc. Nếu ở lưu niên hay đại hạn mà gặp tổ hợp tinh hệ này thì ý nghĩa sẽ khác, gặp Cát tinh là tượng trưng cho cạnh tranh trong sự nghiệp, gặp các Sát tinh tụ tập thì có thể vướng vào kiện tụng, cũng có thể bị người ta gây trở ngại về phương diện nguồn tiền bạc, khiến phải hao tổn tinh thần để ứng phó, rốt cuộc cũng có thể hóa giải phiền phức. Trong các tình huống thông thường, Thiên lương hóa Quyền ở cung Tý sẽ ưu hơn ở cung Ngọ.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (ở cung Mùi thì Thiên lương có thể hội Lộc tồn), đối cung là Thiên cơ đồng thời cũng hóa Lộc, hội hợp với Thái dương độc tọa và Thái âm hóa Kị độc tọa. Tính chất của nhóm tinh hệ này bất lợi về"tài bạch", về cơ bản có thể định nghĩa là"danh lớn hơn lợi". Bởi vì Thái âm hóa Kị ở cung Tài, nhẹ nhất thì"tài bạch"cũng khó mà tích lũy được. Nhưng hai sao Thiên cơ và Thiên lương hóa thành Lộc và Quyền, nên không ảnh hưởng đến thành tựu và địa vị của mệnh tạo. Trong tình hình gặp Cát tinh và Sát tinh lẫn lộn, thường lại chủ về tính chất đặc thù như sau: phải có liên quan đến tình hình rối ren về tài chính. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp thực tế, người này có địa vị trong nghề nghiệp, nhưng chỉ thu nhập bình thường, về sau phải bán hạ giá để tuyên bố phá sản. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp mà gặp nhóm tinh hệ này, không tuyệt đối chủ về tiền của. Nếu Sát tinh nặng, thường cũng bất lợi về sức khỏe. Tính chất cơ bản bất lợi về"tài bạch"là do nhìn quá cao, hoặc tự tin quá đáng, vì vậy mà bị dẫn dụ đầu tư rồi thất bại, về sức khỏe là do quá lo nghĩ về sự nghiệp và tiền tài mà mắc bệnh liên quan đến hệ thần kinh.
Tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"thủ Mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thiên lương hóa Quyền. Cung Quan là Thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Cung Tài là Thái âm đồng thời cũng hóa Kị. Ba nhóm tinh hệ này tất phải gặp Kình dương và Đà la. Tinh hệ"Thiên đồng Thiên lương"vốn là những sao tâm trạng hóa cực nặng. Sau khi Thiên lương hóa Quyền thì tâm trạng có thể ổn định hơn, nhưng lại dễ chuốc rắc rối khó xử về tình cảm, khiến ảnh hưởng đến sự thành tựu trong sự nghiệp. Nhưng phần nhiều đương số lại thích thú trong những tình huống rắc rối khó xử về tình cảm này, và quy về triết lý coi cuộc đời là hư ảo. Nếu chúng gặp những sao hiếu động, trôi nổi, như các sao Thiên hư, Thiên không, Thiên mã, Hỏa tinh, thì sẽ chủ về lãng đãng giang hồ. Ở lưu niên hay đại hạn mà gặp các tổ hợp sao này, thì sự nghiệp và tiền bạc đều không ổn định.
Tinh hệ"Thái dương Thiên lương"thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, có Lộc tồn đồng độ vây chiếu. Thiên lương hóa Quyền thì sao hội hợp là Thái âm ắt sẽ đồng thời hóa Kị (Hóa Kị ở cung Hợi thì tốt), hai sao hội hợp khác là mượn"Thiên đồng Cự môn"nhập cung. Nếu thành cách"Dương Lương Xương Khúc"thì lợi về thi cử và cạnh tranh, đồng thời cũng thích hợp tạo dựng tiếng tăm hoặc thương hiệu. Nhưng nếu gặp các sao Sát - Hình, thì nhóm tinh hệ này sẽ ngầm mang lại những tình huống rắc rối khó xử. Ví dụ như vốn đang có một kế hoạch có lợi, nhưng vì nguyên nhân nào đó mà quyết định hủy bỏ, hủy bỏ rồi vẫn chưa biết là có tổn thất, một thời gian khá lâu sau mới biết đó là thất sách. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp nhóm tinh hệ có kết cấu kiểu này, thì tính chất đã thuật ở trên càng rõ nét. Nếu các Sát tinh - Hình tinh nặng, lại gặp thêm Đại hao, Âm sát ở niên hạn thì gặp kiện tụng, phạm pháp. Thiên lương hóa Quyền chỉ chủ về rốt cuộc cũng hóa giải được tai nạn.
Tinh hệ"Thiên cơ Thiên lương"thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Thiên lương hóa Quyền thì đồng thời thiên cơ ắt cũng hóa Lộc. Xin tham khảo đoạn"Thiên cơ hóa Lộc"đã thuật ở trên.
Thiên lương độc tọa thủ Mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thiên đồng, cung tam hợp mượn"Thiên cơ Cự môn"mà Thiên cơ hóa Lộc gặp Lộc tồn, hai sao hội hợp khác là"Thái dương Thái âm"mà Thái âm hóa Kị. Thiên lương hóa Quyền ở cung độ này, tuy có năng lực tiêu giải tai nạn, nhưng đồng thời cũng làm tăng tai nạn trong cuộc đời. Nhất là Mệnh an tại cung Tị thì tính chất hung hiểm càng lớn. Thiên lương hóa Quyền bất quá chỉ khiến lúc xảy ra hoạn nạn, thì mệnh tạo sẽ biết cách hóa giải mà thôi. Đối với nữ mệnh thì phần nhiều gặp rắc rối về tình cảm, còn có sắc thái độc đoán, vì vậy các tình huống rắc rối khó xử là do bản thân mệnh tạo gây ra. Thiên lương hóa Quyền ở cung Tị, cũng làm mạnh thêm sắc thái thần bí của công việc.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Can Bính - Thiên cơ Hóa Quyền
Thiên Cơ bản chất là hiếu động, trôi nổi, sau khi hóa Quyền sẽ biến nó thành khá ổn định. Thiên cơ có bản chất linh động, sau khi hóa Quyền khiến bản chất linh động của nó càng có hiệu suất. Nhưng tăng hiệu suất, không nhất định sẽ cải thiện hoàn toàn hiệu quả lối xử sự.
Trong các tình huống thông thường, Thiên cơ thích hóa Quyền. Khi hóa Quyền ở cung Mệnh của nguyên cục, thường sẽ khiến mệnh tạo trở nên uyển chuyển, khéo ăn khéo ở, có chí tiến thủ, sống có mục đích.
Thiên cơ vốn không chủ về quyền lực, chỉ trong tình huống hóa Quyền mới có biểu hiện quyền lực một cách vừa phải, nhưng vẫn không chủ về có thực quyền. Ví dụ như ý kiến của bản thân mệnh tạo được người ta xem trọng, tạo nên hiệu quả trong công việc, nhưng mệnh lệnh thực hiện trong thực tế lại không phải là do mệnh tạo đưa ra.
Thiên Cơ mang lại sự biến đông thay đổi, thoạt nhìn thì giống như được quyền chủ động, nhưng trên thực tế lại là bị động. Sau khi Thiên Cơ hóa làm sao Quyền, lực chủ động sẽ được tăng lên nhiều. Vì vậy cũng có khả năng khống chế được sự phát triển của tình thế. Giả dụ như Thiên cơ vốn là hóa Kị ở nguyên cục, rồi sau lại hóa làm sao Quyền, đây là tổ hợp sao có tính chất khá xấu. Trong lưu niên hoặc đại hạn, thường bị chủ động dẫn đến những thay đổi không cần thiết, hoặc chủ về lạm quyền, lộng quyền mà chuốc lấy sự phiền phức, thường muốn tiến thì lại thành thoái, cầu vinh thì lại bị nhục.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tý hoặc Ngọ. Cung Tài là"Thiên đồng Thiên lương"mà Thiên đồng ắt cũng hóa Lộc. Hội hợp cung Quan là Thái âm độc tọa, đối cung với Thiên cơ là Cự môn cũng độc tọa, tất sẽ hội Kình dương và Đà la, hoặc đồng độ với Kình dương. Thiên cơ hóa Quyền trong nhóm tinh hệ này có tính chất khá tốt lành, có thể làm mạnh thêm ý vị"quyền bính và giầu có", nhất là lúc Thiên cơ thủ Mệnh ở cung Ngọ, càng quyền cao lộc càng trọng, thuộc cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương". Nhưng Thiên cơ hóa Quyền đồng thời làm tăng tính trôi nổi, không thiết thực của Thiên cơ, chủ về người có thể trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng, giỏi chi phối người khác, hoặc mượn lực của người khác mà thành việc. Ở đại hạn hoặc lưu niên mà gặp tinh hệ này, thì không có tính chất thuật như ở trên, thông thường chỉ chủ về có biến động theo chiều hướng tốt đẹp.
Thiên cơ độc tọa thủ mệnh, hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi (Thiên cơ ở cung Sửu còn đồng thời hội Lộc tồn), có Thiên Lương ở đối cung. Cung Quan có Cự môn độc tọa. Cung Tài có Thiên đồng cũng độc tọa hóa Lộc hội hợp cung Mệnh. Nhóm tinh hệ này chủ về dễ xảy ra biến động thay đổi trong cuộc đời, thường sau khi xảy ra biến động thay đổi, cục diện sẽ thay đổi hoàn toàn, không như dự liệu ban đầu. Cho nên cần phải xem xét từng đại hạn một cách tỉ mỉ, mới có thể luận đoán tốt xấu, cát hung. Thông thường, Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Sửu hoặc Mùi có tính chất bôn ba vất vả, khổ lụy, nhưng vất vả khổ lụy chỉ là vì mục tiêu tạm thời của đời người mà thôi.
Tinh hệ"Thái âm Thiên cơ"thủ mệnh, mà Thiên cơ hóa Quyền ở hai cung Dần hoặc Thân. Cung Quan có Thiên lương. Cung Tài có Thiên đồng hóa Lộc."Cơ Nguyệt Đồng Lương cách"của nguyên cục vốn không đủ lực tiến thủ, lúc Thiên cơ hóa Quyền và Thiên đồng hóa Lộc tương hội, sẽ cải thiện tính chất này, không những làm mạnh thêm lực tiến thủ, đồng thời còn làm mạnh thêm năng lực vạch kế sách và hiệu suất của công việc. Khi có Văn xương hóa Khoa đến hội, sẽ tạo thành tính chất khá tốt cho"Cơ Nguyệt Đồng Lương cách"của tinh hệ Thiên cơ hóa Quyền, có thể tay trắng thành sự nghiệp, tuy vẫn không thoát khỏi tính chất phải làm việc cho người khác, cũng không nên tự kinh doanh làm ăn, nhưng vẫn thuộc cách cục rất phú quý.. Nếu đại hạn hoặc lưu niên gặp nhóm tinh hệ này, cũng chủ về tiến thủ trong sự nghiệp.
Tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"thủ Mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội hợp với Thiên đồng cư Tài và mượn"Thái Dương Thái Âm"nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì ắt Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Nếu Thiên cơ ở cung Dậu hội Thiên đồng thì có Lộc tồn đồng độ, hoặc có cách"Lộc trùng điệp". Nhưng bất kể Thiên cơ hóa quyền thuộc loại"Quyền Lộc"trùng điệp, hay"Cơ Cự đồng lâm", thông thường đều thiếu lực tiến thủ, cho nên Thiên cơ Hóa Quyền cũng chỉ có thể phát huy mưu trí và quyền biến, tính cơ động, làm tăng hiệu suất hoạt động của nó. Muốn luận đoán đánh giá cách cục của nhóm tinh hệ này, cần phải đồng thời xem xét Thiên lương của cung Phúc mà định. Nếu Thiên lương hội hợp với các sao không tốt, thì đời người thiếu mục tiêu. Hơn nữa còn phải xem xét cung có Thái dương đồng độ. Nếu đó là cung ưu thì có thể vinh thân, nếu không tuy chủ về dư giả, thì cũng khá trôi nổi và không thiết thực.
Tinh hệ"Thiên cơ Thiên lương"đồng độ thủ Mệnh ở hai cung Thìn hoặc Tuất, tương hội"Thiên đồng Thái âm"thủ cung Tài, và mượn"Cự môn Thái dương"nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền thì Thiên đồng ắt sẽ hóa Lộc, nhưng Thiên cơ cũng dẽ hội hợp với Sát tinh. Nhóm sao có kết cấu kiểu này thích Thiên cơ hóa Quyền, thường có thể nhờ các quyết định chính xác mà giảm được bớt áp lực của những biến đông thay đổi trong cuộc đời, đồng thời còn làm tăng năng lực vạch kế sách và năng lực lãnh đạo của bản thân mệnh tạo. Nếu có Văn xương hóa Khoa đồng thời đến hội, thì đây lại là cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương"có tính chất tốt nhất. Ban đầu vốn có bản chất phú quý không lâu bền, đến đây thì coi như đã được giải quyết. Bản chất"phú quý không lâu bền"phần nhiều nguyên nhân vì có những biến động thay đổi không thực sự cần thiết. Nhưng lúc Thiên cơ hóa Quyền mà còn thành"Lộc Quyền Khoa hội cách", thì những biến động thay đổi không cần thiết sẽ bị triệt tiêu, mà chỉ có những biến đông thay đổi với biên độ lớn dẫn đến thành công.
Thiên cơ độc tọa thủ Mệnh, hóa Quyền ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thái dương, tương hội"Thiên đồng Cự môn"thủ cung Tài và mượn"Thái dương Thiên lương"nhập cung Quan để hội hợp. Thiên cơ hóa Quyền ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung Tài là Thiên đồng sẽ đồng thời hóa Lộc. Những nhóm sao này, do bản thân Thiên cơ ở hai cung Tị hoặc Hợi là hai cung thiếu lực tiến thủ, cho nên tuy Quyền Lộc giao nhau, cũng không thể tích cực tiến thủ, bất quá đời người chỉ khá ổn định, đồng thời có địa vị mà thôi. Hơn nữa khi đạt tới một địa vị nào đó, thì mệnh tạo có thể chìm đắm trong thành tựu, nếu có Hỏa Linh Không Kiếp đồng độ với Thiên cơ, gặp hai sao Hỏa Linh có thể phát triển thành lộng quyền, gặp hai sao Không Kiếp thì dễ xảy ra trắc trở một cách cô cớ. Nhưng đại hạn và lưu niên mà gặp nhóm sao này thì không có tính chất như đã thuật ở trên, vẫn chủ về biến đông thay đổi theo hướng cát lợi.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa Khoa luận - Vương Đình Chi
Hóa Khoa thuộc dương thủy, chủ về"trí","lưu truyền", nên là"tiếng tăm, danh dự".
Các sách Đẩu Số thông thường cho rằng Hóa Khoa không nên gặp Hóa Kị. Ở thời cổ đại, hóa Khoa chủ về khoa cử công danh, sĩ tử cần phải xuất thân từ khoa cử thì mới dễ hiển đạt, cho nên không ưa Hóa Kị xung hội Hóa Khoa.
Ở thời hiện đại, không còn chuyên về khoa cử mới công danh hiển quý, cho nên lúc hóa Khoa và hóa Kị xung hội, thường thường chủ về nổi tiếng mà chuốc đố kị, có lúc lại chủ về nhiều người biết tiếng. Vương Đình Chi kể, ông từng đoán mệnh cho một vị luật sư, Cự môn hóa Kị ở cung mệnh, bị Thiên cơ hóa Khoa xung hội, vị luật sư nổi tiếng do tài ăn nói và cơ trí ứng biến lúc biện hộ cho thân chủ.
Nhưng thông thường, Khoa Kị tương xung dễ bị nói xấu, chê bai, dị nghị, phỉ báng, cần phải xem bản chất các sao mà định tốt hay xấu. Nếu Thái dương của cung mệnh nguyên cục Hóa Khoa, lại nhập miếu, chủ về người này ắt sẽ có danh tiếng lớn, đến Đại hạn hoặc Lưu niên không thích gặp Thái dương hóa Kị, chủ về vì có danh tiếng lớn mà chuốc điều tiếng thị phi.
Nếu gặp Thiên đồng hóa Kị, thì vì tiếng tăm mà hay gặp phiền phức và bận rộn, nên ít hưởng thụ, dễ sinh bệnh mà thôi.
Phái Trung châu có một bí truyền về Hóa Khoa, như sau:
Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh ban ngày, đến cung hạn Thái dương nhập miếu được cát hóa, bất kể là Lưu niên hay Đại hạn, đều chủ về có thanh danh lớn. Nếu đến cung hạn có Thái dương lạc hãm, lại gặp các sao Sát Kị, thì thanh danh bị tổn thương. Cung mệnh Hóa Khoa, người sinh vào ban đêm, đến cung hạn Thái âm nhập miếu được cát hóa, cũng chủ về có danh tiếng lớn. Nếu đến cung hạn có Thái âm lạc hãm, mà gặp các sao Sát Kị, thì chủ về thanh danh bị tổn thương.
Thông thường, hai trường hợp trên, có thể xem các sao hội hợp thực tế mà định chi tiết.
Hóa Khoa thủ cung mệnh, ở cung độ lục hợp, gặp Hóa Lộc (ví dụ như hóa Khoa ở cung Tý, hóa Lộc ở cung Sửu), gọi là"Khoa minh Lộc ám", chủ về nhờ khoa cử công danh, có tiếng tăm mà được quan lộc, hoặc được nâng cao địa vị xã hội. Đây là nhờ danh mà đắc lợi. (có thể so sánh với cách"minh lộc ám lộc", Lộc tồn và hóa Lộc ở cung lục hợp, cũng chủ về quý hiển, đây là nhờ phú mà được quý, khác với cách"khoa minh lộc ám"là nhờ danh mà được quý).
Hóa Khoa không ưa đồng cung với Địa không Địa kiếp, chủ về khuynh gia bại sản, chỉ có hư danh, hoặc có danh vọng trong phạm vi cực nhỏ, cũng chủ về nghiên cứu triết học tôn giáo.
Hóa Khoa đồng độ với Lộc tồn, mà rơi vào cung có Địa không, Địa kiếp, nhất định sẽ bị Kình dương và Đà la giáp cung, vì vậy tuy tốt nhưng không có danh vọng. Đây gọi là"mạ không trổ bông, sao Khoa hãm ở cung hung". Cho nên, các sao hóa thành sao Khoa, mà danh vọng chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ là do nguyên cớ này, lúc luận đoán phải chú ý.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Sao Vũ khúc - Vương Đình Chi
Sao Vũ khúc miếu ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hãm ở Mão.
Vũ Khúc là sao thứ sáu của Bắc Đẩu, thuộc âm kim, hóa khí làm"tài"(tiền tài).
Về tính cách, Vũ khúc chủ về quyết đoán mau lẹ, khuyết điểm của Vũ khúc là suy nghĩ nông cạn. Người có Vũ khúc thủ mệnh có thể phát nhanh mà cũng có thể bại nhanh.
Vũ khúc tính cương, vì vậy không nên có thêm Hỏa tinh, Linh tinh đồng độ, nếu gặp Hỏa Linh ắt dễ vì xung động nhất thời mà xảy ra tai ách, khi hóa giải tai nạn sẽ phải trả giá rất đắt.
Do tính cương, Vũ khúc cũng không nên gặp các sao Văn (Văn xương, Văn khúc, Hóa Khoa), nếu không sẽ chủ về do dự thiếu quyết đoán, nhưng bề ngoài thì giống như rất có chủ kiến, dẫn đến xử sự tiến thoái không hợp lý, giống như người có văn tài mà làm công việc quản lí về quân sự, đương nhiên không thích hợp.
Trong Đẩu Số, sao Vũ khúc tuy không phải là chiến tướng giống như Thất sát và Phá quân giong ruỗi nơi sa trường, nhưng xét ở góc độ tính cương thì cũng được liệt vào hàng quan võ. Cho nên, nói chung cũng có chút tính cô độc và hình khắc, không nhu hòa như các sao văn. Võ cương Văn nhu là đặc tính cơ bản.
Vũ khúc không ưa Hóa Kị, nếu hóa Kị sẽ chủ sự nghiệp thất bại, tiền tài hao tán, gặp sát tinh thì nên bình tĩnh nhẫn nại, nếu cố bạo động ắt sẽ sụp đổ. Nhưng Vũ khúc lại ưa Hóa Lộc, chủ về nguồn tiền tài không bị đứt đoạn, nếu lại gặp thêm Lộc tồn, Thiên mã thì chủ về phát tài lộc ở nơi xa hoặc ở tha hương.
Do tính cương, cô độc và hình khắc, nên Vũ khúc cũng gặp trở ngại về hôn nhân, chủ về gặp bất lợi nên kết hôn muộn hoặc sinh ly tử biệt. Nhẹ thì vợ chồng gần nhau thì ít, xa nhau thì nhiều, hoặc vợ chồng không hòa thuận, nặng thì phu thê ly tán. Nếu gặp Hóa Kị, Hỏa tinh, Cô thần, Quả tú thì phải xem tới sao hung là nhiều hay ít, kết hợp với Vũ khúc ở cung vị nào, để phán đoán mức độ hôn nhân bất lợi.
Nữ mệnh Vũ khúc, chủ về vợ đoạt quyền chồng, nhưng cũng chủ về người có khí khái của bậc trượng phu. Nếu có những sao Tả phụ, Hữu bật, Tam thai, Bát tọa hội chiếu sẽ là người phụ nữ tài giỏi, gặp thêm tam hóa Khoa, Quyền, Lộc và Thiên hình hội chiếu, thì quyền hành bổng lộc danh tiếng đều lớn, ắt là người có địa vị cao trong xã hội, nhưng bất lợi về hôn nhân. Nữ mệnh mà Vũ khúc rơi vào hãm địa, gặp tứ sát thì chủ về hình khắc cô độc, gặp thêm Hóa Kị thì có nguy cơ hung vong.
Bất kể nam hay nữ, Vũ khúc thủ mệnh, có Thiên khôi, Thiên việt mà không gặp Lục sát xung hội hoặc đồng độ, đều chủ về có thể nắm đại quyền về kinh tế, nên làm việc trong giới làm ăn kinh doanh.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa Khoa luận - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của Hóa Khoa là dương thủy, hóa khí là thanh danh, chưởng quản văn chương, chủ về thanh danh. Sao Hóa Khoa dẫn thân là tâm tính vui vẻ, hiển lộ là nổi tiếng, tức cụ thể hóa thanh danh, khả năng học tập và thi cử.
Sao Hóa Khoa nếu đóng tại cung Thân cung Mệnh, chủ về thông minh mẫn tiệp, tài hoa khác thường, tính tình hòa nhã dễ gần, có thanh danh. Nếu gặp sao Hóa Lộc, Hóa Quyền sẽ là người hiển quý có địa vị cao. Nếu gặp hung tinh, tuy khong được hiển quý, nhưng cũng có tài năng văn học. Nếu là Văn Xương hóa Khoa sẽ trở thành bậc thầy mẫu mực.
Tương tự như sao Hóa Lộc, sao Hóa Khoa không có khả năng đề kháng trước sao Hóa Kị, nếu như không được cát tinh trợ giúp, thì chủ về vất vả gian lao mà không có thành tựu. Nếu được cát tinh trợ giúp mới có được thành tựu, nhưng vẫn khó tránh khỏi gian nan lao lực. Sao Hóa Khoa cũng kị gặp phải các sao Không vong như Tiệt không, Tuần không, Địa không, Địa kiếp, chủ về có tài năng mà không gặp cơ hội, lại thường rơi vào tình cảnh cô đơn khổ cực không nơi nương tựa.
Khi Văn xương, Văn Khúc gặp Hóa Khoa, lại thêm Thiên khôi, Thiên việt, sẽ có lợi về đường thi cử, thăng quan tiến chức thuận lợi mà trở thành hiển quý.
Sao Hóa Khoa tốt nhất nằm cùng với các sao Thất sát, Phá quân, Tham lang, Tử vi, Thiên cơ, Cự môn, Thiên đồng, Thái âm, Vũ khúc, chủ về sáng nghiệp, nhưng mệnh nữ cần đề phòng ảnh hưởng đến hôn nhân.
Sao Hóa Khoa nhập miếu tại Sửu địa (không sợ hung sát), vượng tại Ngọ địa, Thân địa (không sợ hung sát), đắc địa tại Thìn, Tuất, Mão (là phúc, kị hung sát), được lợi tại Dần, Tị, Mùi (phúc đến chậm, kị hung sát), bình thường tại Hợi, Tý, không đắc tại Dậu địa. Nếu nằm cùng cung hãm với Tiệt không, Tuần không, Địa kiếp, Địa không, Kình dương, Đà la, Thái dương, Thái âm là lạc hãm.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Địa không và Địa kiếp - Tam Hợp phái
Hợi thượng khởi Tý thuận an Kiếp
Nghịch khứ tiện thị Địa không hương.
Địa Không thuộc âm hỏa, Địa Kiếp thuộc dương hỏa.
Cổ nhân nói:"Địa không thủ mệnh, chủ về làm việc không tưởng, thành bại đa đoan"(Tác sự hư không, thành bại đa đoan). Địa Kiếp thủ mệnh, chủ về làm việc qua loa, sơ sài, không theo chính đạo. Thực ra có các thuyết này, là vì người có Địa Không thủ mệnh ưa ảo tưởng, cách suy nghĩ của họ, người khác không hiểu được; người có Địa Kiếp thủ mệnh thì thích làm trái với truyền thống, trái với xu thế phát triển của xã hội, hành vi của họ người ta cũng không hiểu được.
Địa Không chủ về tinh thần. Địa Kiếp chủ về vật chất. Cho nên, trắc trở do Địa không mang lại, sẽ đả kích về mặt tinh thần nhiều hơn là tổn thất vật chất. Còn trắc trở do Địa kiếp mang lại sẽ tổn thất về vật chất lớn hơn, đối với sự đả kích về tinh thần.
Địa Không thủ mệnh, ưa gặp tinh hệ chính diệu có sắc thái hành động, như tinh hệ"Vũ khúc Thất sát", hay Tham Lang ở cung vượng, hay Phá quân hóa Lộc, hoặc tinh hệ"Tử vi Thất sát", còn được gặp Cát tinh, tức là chủ về biến những điều không tưởng thành hành động, nhờ vậy có thể tiêu trừ khuyết điểm do Địa Không mang lại.
Nếu Địa Không cùng ở một cung với tinh hệ"Thiên cơ Cự môn", phần nhiều là người không tưởng, hoặc lý tưởng quá cao, mà không thể biến thành hành động thực tế, thế là có biểu hiện"làm việc trồi sụt thất thường", hoặc"làm việc giả dối".
Hỏa trống (không) thì phát, kim rỗng (không) thì kêu, cho nên Địa Không ưa gặp Hỏa tinh ở hai cung Tị hoặc Ngọ, chủ về phát đột ngột, cũng ưa gặp các sao thuộc kim ở hai cung Thân hoặc Dậu chủ về danh vọng. Tuy nhiên, không nên gặp thêm các Sát tinh còn lại và chính diệu hóa thành sao Kị.
Cung Tật Ách có Địa Không bay đến, phần nhiều chủ về mắc bệnh hiếm gặp. Vương Đình Chi từng gặp một trường hợp Thiên Lương thủ cung Tật Ách, gặp Hỏa Linh và Địa Không đồng độ, bị mắc bệnh viêm não.
Địa Kiếp tuy chủ về tổn thất vật chất, nhưng di chứng nhẹ hơn Địa Không. Ví dụ như thất bại của Địa Kiếp giống như mua được một món đồ cỏ quý giá, nhưng khi đến tay thì bị vỡ, tuy có thể sửa chữa, nhưng bản thân thấy không còn thích nữa, còn thất bại của Địa Không thì giống như muốn mua một món đồ cổ, thì lại bị người ta nhanh chân mua trước, cứ tiếc mãi.
Xét từ góc độ tinh thần, thì sự đả kích của Địa Không là khá nặng. Còn nhìn từ góc độ vật chất, thì sự tổn thất của Địa Kiếp là khá lớn. Do đó có thể biết, Địa Không thì không nên ở cung Phúc đức, cung Phu thê, cung Tử tức, đối với Địa Kiếp thì không nên ở cung Mệnh, cung Quan lộc, cung Tài bạch.
Địa Kiếp thủ mệnh, thích hợp với hành động thiết thực, nên khởi nghiệp trong ngành công nghệ, từ đó có thể sáng lập sự nghiệp mới, cũng chủ về có thể phát đạt. Địa Kiếp ưa hai cung Thìn hoặc Tuất, do nhập"Thiên la Địa võng"nên có khuynh hướng khá thực tế.
Không Kiếp giáp mệnh, chủ về cuộc đời gặp nhiều trắc trở, gập ghềnh, bất đắc chí
Không Kiếp đồng độ thủ mệnh, hoặc đối xung, phần nhiều chủ về lúc còn nhỏ tuổi bất lợi, không được cha mẹ che trở, hay đau yếu, nghèo khó, hoặc nhiều tai ách. Cần xem xét các tổ hợp sao của các cung mà định tính chất.
Không Kiếp thủ mệnh, hoặc giáp mệnh, cổ nhân cho rằng lợi về xuất gia. Ở thời hiện đại, có thể là người thích nghiên cứu các môn học ít người lưu tâm.
Địa không Địa kiếp chia ra ở cung Phu Thê và cung Mệnh, chủ về vợ chồng có tính cách không hợp nhau, hôn nhân có nỗi khổ khó nói, phần nhiều đều đau khổ trong lòng.
Địa không là Hung thì chủ về nhiều tai họa, là Cát thì chủ về độ lượng. Địa không ưa các sao Cát, ưa hai hành Kim Hỏa, miếu ở hai cung Hỏa Kim. Kị các sao Hung, chỉ không kị Hỏa tinh, Linh tinh, hãm ở cung Thủy Mộc.
Địa kiếp chủ phá tán, thất bại. Địa kiếp ưa nhất ở hai cung Thìn Tuất, ở các cung còn lại đều không Cát.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Phúc đức - Đăng Hạ thuật
1- CUNG PHÚC ĐỨC XEM TUỔI THỌ
- Cung Phúc đức có Kình dương, người này một đời luôn nhiều âu lo.
- Cung Phúc đức hóa Kị, một đời vất vả ít vui, khó nở mặt nở mày.
- Cung Phúc đức có Thiên diêu, phạm Đào hoa, thân mỏi mệt mà tâm trí loạn, người một nơi mà tâm trí một nẻo.
- Cung Phúc đức hóa Kị ở cung Phu thê, thiên can Phu thê hóa Kị nhập vào cung Mệnh, chủ về vợ chồng không có lòng độ lượng, thường mâu thuận và không thông cảm cho nhau, dễ ly hôn.
- Cung Phúc đức hóa Lộc có Thái dương hóa Lộc nhập cung Mệnh, chủ về người có thái độ khoan dung độ lượng, nhưng không có phúc khí.
- Cung Phúc đức hóa Khoa chủ về người không cầu hưởng thụ.
- Cung Phúc đức không nên có Kình dương - Đà la, chủ về người ham mê chốn phồn hoa tửu sắc, thích vui thú, hưởng lạc.
- Cung Phúc đức có thể ảnh hưởng đến tuổi thọ, con người cần làm nhiều việc đầu tư công quả, thì tuổi thọ càng được tăng lên.
- Cung Phúc đức có sao tốt, như: Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Tử vi, Thiên phủ, Hồng loan, ... chủ về người này hay tích đức hành thiện, có tấm lòng khoan dung độ lượng.
- Cung Phúc đức gặp lưu niên Thái tuế hóa Kị, phải chú ý tới thân thể:
+ Thái dương hóa Kị, chú ý tới mắt - năm Giáp
+ Liêm trinh hóa Kị chú ý tới miệng, thêm Sát chú ý tới vòm họng - năm Bính
+ Cự môn hóa Kị chú ý tới dạ dày, đường ruột - năm Đinh
+ Tham lang hóa Kị chú ý tới thận - năm Quý
+ Thiên lương hóa Kị chú ý tới tim -
+ Thiên cơ hóa Kị chú ý tới da - năm Mậu
+ Thái âm hóa Kị chú ý tới gan, tuyến dịch - năm Ất
+ Thiên tướng hóa Kị chú ý tới tuyến vú - năm Canh
+ Phá quân hóa Kị chú ý tới phổi -
Nhiều trường hợp, sau khi kết hôn, người chồng hoặc người vợ vẫn còn mối quan hệ ngoài hôn nhân. Việc này, ít nhiều có gây ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình. Những trường hợp này, đương số có Thiên diêu cư Phúc đức, chủ về người có đào hoa sau hôn nhân, thân tâm thường hoảng loạn, người ở đây mà tâm lại dành cho người khác. Cung Phu thê có Tử vi + Thất sát cũng có thể luận tương tự như vậy.
+ Tại sao biết hôn nhân của đương số nhiều sóng gió?
- Chồng của đương số có tình nhân? Thiên can cung Phúc đức hóa Lộc nhập cung Tử tức.
- Phàm nữ mệnh, có Văn Khúc ở Dần tọa thủ cung Phúc đức, tất ly hôn.
- Cung Phúc đức có Thiên cơ ngộ Sát ở Tị Hợi Sửu Mùi - người này một đời vất vả, cuối cùng thường vào chốn thiền môn.
- Tử vi + Tham lang cư Phúc đức, chủ về 1- đứng núi này trông núi khác, 2- tình cảm vợ chồng không có đầu cuối, 3- khi chọn đối tượng kết giao cần chú ý, cung Phúc có Tử Tham là người sống không có đầu cuối.
- Tham lang ở Tý tọa thủ cung Phúc đức, gặp năm Mậu thì Tham lang hóa Lộc, đương số chủ động mê hoặc lòng người bằng tiền.
- Tham lang ở 12 cung, gặp Đại hạn, tiểu hạn hay lưu niên Thái tuế, thì đương số thường có tình cảm trắc trở với người khác giới, sách cổ viết là"Phạm đào hoa cách". Ngộ thêm Kình dương hay Đà la, thì càng cần phải tránh.
- Liêm Tham hoặc Liêm Tướng (Tị Hợi Tý Ngọ) cư Phúc đức, cần đề phòng việc liên quan đến pháp luật, danh tiếng bị hủy hoại. Đại hạn hoặc tiểu hạn dẫn đến phái Tài, hoặc gặp hỏa hoạn, ...
+ Tại sao biết Mệnh này có thể gây thương tích cho người khác?
1)- Tuổi Giáp Kỷ
- Mệnh tọa ở Nhâm Thân, cung Điền trạch tọa ở Ất hợi có Liêm Tham (Bính hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Quý Dậu, cung Điền trạch tọa ở Bính Tý có Cự môn (Đinh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Giáp Tuất, cung Điền trạch tọa ở Đinh Sửu có Thiên cơ (Mậu hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Ất Hợi, cung Điền trạch tọa ở Bính Dần có Văn Khúc (Kỷ hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Bính Tý, cung Điền trạch tọa ở Đinh Mão có Thiên tướng (Canh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Đinh Sửu, cung Điền trạch tọa ở Mậu Thìn có Văn Xương (Tân hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Mậu Dần, cung Điền trạch ở Kỷ Tị có Vũ khúc (Nhâm hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Kỷ Mão, cung Điền trạch tọa ở Canh Ngọ có Tham lang (Quý hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Canh Thìn, cung Điền trạch tọa ở Tân Mùi có Nhật Nguyệt (Giáp hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Tân Tị, cung Điền trạch tọa ở Nhâm Thân có Cơ Âm (Ất hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Nhâm Ngọ, cung Điền trạch tọa ở Quý Dậu có Liêm Phá (Bính hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Quý Mùi, cung Điền trạch tọa ở Giáp Tuất có Cự môn (Đinh hóa Kị)
2)- Tuổi Ất Canh
- Mệnh tọa ở Tý, cung Điền trạch tọa ở Kỷ Mão, có Vũ khúc + Thất sát (Nhâm hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Sửu, cung Điền trạch tọa ở Canh Thìn có Tham lang (Quý hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Dần, cung Điền trạch tọa ở Tân Tị có Thái dương (Giáp hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Mão, cung Điền trạch tọa ở Nhâm Ngọ có Thiên đồng + Thái âm (Ất hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Thìn, cung Điền trạch tọa ở Quý Mùi có Liêm trinh + Thất sát (Bính hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Tị, cung Điền trạch tọa ở Giáp Thân có Thái dương + Cự môn (Đinh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Ngọ, cung Điền trạch tọa ở Ất Dậu có Thiên cơ + Cự môn (Mậu hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Mùi, cung Điền trạch tọa ở Bính Tuất có Văn khúc (Kỷ hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Thân, cung Điền trạch tọa ở Đinh Hợi có Thiên cơ (Mậu hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Dậu, cung Điền trạch tọa ở Mậu Tý có Văn khúc (Kỷ hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Tuất, cung Điền trạch tọa ở Kỷ Sửu có Thiên tướng (Canh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Hợi, cung Điền trạch tọa ở Mậu Dần có Văn Xương (Tân hóa Kị)
3)- Tuổi Bính Tân
- Mệnh tọa ở Tuất, cung Điền trạch tọa ở Tân Sửu có Vũ khúc Tham lang
- Mệnh tọa ở Dậu, cung Điền trạch tọa ở Canh Tý có Văn Xương ngộ Thổ cục
- Mệnh tọa ở Bính Thân, cung Điền trạch tọa ở Kỷ Hợi có Thiên tướng
- Mệnh tọa ở Ất Mùi, cung Điền trạch tọa ở Mậu Tuất có Văn Xương (Tân hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Ngọ, cung Điền trạch tọa ở Đinh Dậu có Thiên tướng
- Mệnh tọa ở Quý Tị, cung Điền trạch tọa ở Bính Thân có Văn Khúc (Kỷ hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Nhâm Thìn, cung Điền trạch tọa ở Ất Mùi có Thiên cơ (Mậu hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Tân Mão, cung Điền trạch tọa ở Giáp Ngọ có Cự môn (Đinh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Canh Dần, cung Điền trạch tọa ở Quý Tị có Liêm Tham
- Mệnh tọa ở Tân Sửu, cung Điền trạch tọa ở Nhâm Thìn có Thái âm (Ất hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Canh Tý, cung Điền trạch tọa ở Tân Mão có Thái dương ngộ Thiên sát
- Mệnh tọa ở Kỷ Hợi, cung Điền trạch tọa ở Canh Dần có Tham lang (Quý hóa Kị)
4)- Tuổi Đinh Nhâm
- Mệnh tọa ở Quý Mão, cung Điền trạch tọa ở Bính Ngọ có Văn khúc (Kỷ hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Giáp Thìn, cung Điền tọa ở Đinh Mùi có Thiên tướng (Canh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Ất Tị, cung Điền tọa ở Mậu Thân có Văn xương (Tân hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Bính Ngọ, cung Điền tọa ở Kỷ Dậu có Vũ khúc Thất sát (Nhâm hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Đinh Mùi, cung Điền tọa ở Canh Tuất có Tham lang (Quý hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Mậu Thân, cung Điền tọa ở Tân Hợi có Vũ khúc Phá quân (Nhâm hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Kỷ Dậu, cung Điền tọa ở Nhâm Tý có Tham lang (Quý hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Canh Tuất, cung Điền tọa ở Quý Sửu có Nhật Nguyệt (Giáp hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Tân Hợi, cung Điền tọa ở Nhâm Dần có Thiên cơ Thái âm (Ất hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Nhâm Tý, cung Điền tọa ở Quý Mão có Liêm trinh Phá quân (Bính hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Quý Sửu, cung Điền tọa ở Giáp Thìn có Cự môn (Đinh hóa Kị)
- Mệnh tọa ở Nhâm Dần, cung Điền tọa ở Ất Tị có Thiên cơ (Mậu hóa Kị)
5)- Tuổi Mậu Quý
-
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa Quyền luận - Toàn thư
Thuộc tính ngũ hành của sao Hóa Quyền là dương mộc, hóa khí là quyền và thế, chưởng quản sinh sát chủ về quyền và thế, tháo vát. Hóa Quyền dẫn thân là kiên định, hiển lộ là quan quý, khiến cho quyền và thế được cụ thể hóa.
Sao Hóa Quyền thuộc Mộc, ưa thích Cự môn, Vũ khúc, chủ hiển đạt về nghiệp võ, nắm giữ binh quyền. Sao Hóa Quyền trấn tại cung Mệnh, cung Thân cũng tương tự như khi gặp sao Hóa Lộc sẽ làm quan to. Nếu gặp sao Hóa Khoa sẽ có tài văn chương xuất chúng, nếu lại gặp các sao Văn xương, Văn khúc thì thi cử sẽ đỗ đạt cao.
Trong ba sao Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, chỉ có sao Hóa Quyền là không sợ bị sao Hóa Kị xung phạm, gặp Hóa Kị chỉ làm tăng thêm phần cản trở và vất vả, nhưng sau vẫn có khả năng khắc phục được, đặc biệt là khi chủ tinh miếu vượng hóa Quyền lại càng không dễ bị sao Hóa Kị gây ảnh hưởng.
Mệnh nam mà vận hạn gặp ba sao Lộc Quyền Khoa sẽ có phát triển và tiến bộ. Mệnh nữ do giỏi giang tháo vát quá mức, lấn lướt cả đàn ông, nên sẽ ảnh hưởng đến đường tình duyên và đời sống hôn nhân.
Sao Hóa Quyền nhập miếu tại Sửu địa (thuần hậu không sợ sát tinh), đắc tại Mão Thìn (là phúc, kị gặp sát tinh), được lợi tại Dần Mùi (phúc đến chậm, kị sát tinh), bình thường tại Thìn, Ngọ, Tị, Hợi, không đắc địa tại Thân, Dậu, Tý.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Khái luận về Thái tuế - Phan Tử Ngư
Căn cứ ghi chép trong sách cổ"Thái tuế có 3 loại, một là Thái tuế năm, vận hành sang trái 28 vì tinh tú, 12 năm một chu thiên, bắt đầu thấy ở phía Nam ngoài biển; tháng 1 là Thái tuế tháng, tháng 2 khởi từ ngày Mão, tháng 3 khởi từ ngày Tý, tháng 4 khởi từ ngày Dậu, tháng 5 khởi từ ngày Ngọ, tháng 6 lại quay về Mão".
Thái tuế trong sách Tử vi Đẩu Số là Thái tuế năm, cũng gọi là Thái tuế âm, Tinh long, Thiên nhất.
Thái tuế mỗi năm chuyển động một cung, ví dụ như năm Dân quốc thứ 72 là năm Quý Hợi, Thái tuế tại Hợi, sang năm sau Thái tuế tại Tý, sang năm sau nữa Thái tuế tại Sửu.
Ba công dụng của Thái tuế là:
1)- Căn cứ vào tính toán chuyển động của mặt Trăng, tuy năm nay Thái tuế của mỗi người đều ở Hợi, nhưng lưu nguyệt của mỗi người lại không giống nhau. Ví dụ như Phan Tử Ngư sinh vào tháng 2, lấy cung Hợi làm khởi điểm, ngược chiều kim đồng hồ lấy Hợi địa làm tháng 1, Tuất địa làm tháng 2 (sinh tháng 3 lại theo đó suy tiếp 1 cung, sinh tháng 4 suy tiếp tương tự) tại cung Tuất làm khởi điểm, lại theo chiều kim đồng hồ đoán ngược giờ sinh. Phan Tử Ngư sinh vào giờ Dần, lấy Tuất địa làm giờ Tý, Hợi địa làm giờ Sửu, Tý địa làm giờ Dần. Như vậy Phan Tử Ngư năm nay Đẩu quân tại Tý, cũng tức là lất Tý địa làm chính nguyệt, Sửu địa làm tháng 2, Dần địa làm tháng 3 ... Sự biến hóa cát hung của vận khí mỗi tháng đều xem dựa trên vị trí tọa của các Sao.
Vận khí mỗi ngày như thế nào, thì lấy Lưu nguyệt làm ngày mồng 1, mỗi ngày vận hành một cung
Lưu thời lấy Đẩu Nhật làm giờ Tý, tính toán như lưu Nhật.
2)- Thái tuế của mỗi ngươi đều ở Hợi địa, nhưng cung nhập Hợi địa mỗi người không giống nhau, ví như có người Hợi địa ở cung Phụ mẫu, có người ở cung Phu thê, có người ở cung Tử nữ, lại có người cung Tài bạch nhập Hợi địa ... Như vậy, Thái tuế và cung Hợi có quan hệ mật thiết, ví như cung Phu thê tọa Hợi địa thì luận về tình cảm vợ chông trong năm Quý Hợi là trọng yếu. Nếu sao ở cung Phu thê là cát tinh thì vợ chồng hòa thuận, nếu là hung tinh thì vợ chồng bất hòa, hoặc gặp tai nạn, thậm chí là xung khắc nhau. Nếu nha Thái tuế năm nay ở cung Tài bạch, gặp cát tinh tất phát tài, gặp hung tinh e khó tránh họa phá tài.
3)- Xem vận khí mỗi năm, lấy Tiểu hạn làm chủ, Thái tuế làm phụ trợ. Ví dụ Thái tuế năm nay ở Hợi địa, thì lấy Hợi địa làm cung Mệnh, cung Phu thê ở Dậu, sao tọa Dậu địa là cát tinh thì vợ chồng hòa hợp, sao tọa là hung tinh thì vợ chồng bất hòa.
Cung Tài bạch ở Mùi địa, sao tọa là cát tinh thì năm Quý Hợi tài vận tốt đẹp, là hung tinh thì e khó tránh họa phá tài.
Tuy nhiên, nên chú ý phần phê mệnh, lại tham khảo các phương tiện Đại hạn, Tiểu hạn, Thái tuế, cùng Tứ hóa (bao gồm tứ Hóa năm sinh. Tứ Hóa đại hạn. Tứ hóa tiểu hạn. Tứ hóa Thái tuế...) tổng hợp để nghiên cứu.
Thái tuế rất kị gặp năm mệnh, nếu sao ở cung Mệnh là cát tinh thì không đáng lo ngại, nếu là hung tinh thì năm đoa khó tránh họa tai nạn.
Thái tuế kị gặp Thiên thương - Thiên sứ (như Thiên thương tại Tị, Thiên sứ tại Mùi, Thái tuế tại Ngọ), kị hành Địa không, Địa kiếp, Kình dương, Đà la, cũng kị Kình Đà xung phá Thái tuế, thường gặp hung hạn.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa diệu luận - Vương Đình Chi
Hóa diệu trong Tử Vi Đẩu Số, là các sao biến hóa then chốt liên thông các tinh bàn (Thiên bàn và Nhân bàn), nhất là Lưu niên và Đại vận, có các"Lưu hóa diệu"giao hội hỗ tương với hóa diệu của nguyên cục, khiến cho tính chất của tinh hệ hữu quan biến thành phức tạp, cũng chính nhờ như vậy mới luận đoán được cảnh ngộ của đời người khá cụ thể.
Hóa Lộc thông thường có ý nghĩa là"tài lộc"; Hóa Quyền thông thường có ý nghĩa là"quyền thế"; Hóa Khoa thông thường có ý nghĩa là"danh tiếng"; Hóa Kị thông thường có ý nghĩa là"trở ngại". Nhưng mỗi một tinh diệu biến hóa vẫn có ý nghĩa đặc biệt của nó, những ý nghĩa đặc biệt này thường thường là căn cứ để luận đoán.
Lúc luận đoán mệnh cục, chỉ có Tứ hóa của năm sinh, nên khá đơn giản, dễ quan sát. Luận đoán những điểm quan trọng, chỉ cần xem bản thân các sao Tứ hóa có hội hợp hay không? hội hợp ở cung độ nào? thì có thể biết được đại thể.
Lúc luận đoán Đại hạn, chỉ có Tứ hóa của Đại hạn và Tứ hóa của năm sinh, cũng chưa phức tạp mấy, xem các sao hội hợp với chúng cũng không đến mức hoa mắt.
Nhưng khi luận đoán Lưu niên, tổng cộng có 3 nhóm Tứ hóa, có thể cung độ nào cũng có hóa diệu hội chiếu hoặc đồng độ, thường khiến cho người nghiên cứu Đẩu Số hoa cả mắt.
Thực ra, thông thường chỉ cần xem hai nhóm hóa diệu của Đại hạn và Lưu niên; lúc nào tứ hóa của năm sinh bị xung khởi mới cần chú ý, không xung khởi thì tác dụng rất nhỏ.
Tứ hóa của năm sinh cấu tạo thành bản chất thuộc các cung viên, còn Tứ hóa của Đại vận và Lưu niên là hình thành hoàn cảnh của các thời kỳ trong cuộc đời. Do đó tứ hóa năm sinh có ảnh hưởng không lớn đối với hoàn cảnh của các thời kỳ. Điểm này bạn đọc cần hiểu rõ cái lý của nó.
Chỉ khi nào Tứ hóa của năm sinh bị tứ hóa của Đại vận xung hội, hoặc tứ hóa của Lưu niên xung hội, thì tứ hóa của năm sinh mới có tác dụng.
Dưới đây xin đề cử vài ví dụ cụ thể để thuyết minh:
Nếu"Thái dương Thái âm"thủ mệnh tại cung Mùi, người sinh năm Canh thì Thái dương hóa Lộc. Đến Đại hạn Ất Dậu, cung mệnh của Đại hạn là"Thiên cơ Cự môn"mà Thiên cơ hóa Lộc, hội hợp với"Thái dương Thái âm"(mượn sao cung Mùi an cung Sửu) mà Thái âm hóa Kị.
Lúc này, Thiên cơ hóa Lộc xung khởi Thái dương hóa Lộc, càng khiến cho Thiên cơ hóa Lộc có sắc thái"vì phục vụ mọi người mà được lợi ích". Thêm vào Thái âm hóa Kị, là bất lợi về kinh doanh riêng, cho nên lúc này chỉ có thể làm việc cho công ty để kiếm tiền, cá nhân thì không nên đầu tư.
Hóa Lộc ở nguyên cục lại hóa Kị ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là"sao hóa Lộc biến thành sao hóa Kị"(thí dụ như Vũ khúc hóa Lộc của nguyên cục biến thành hóa Kị), cho nên có thể vì tiền mà chuốc họa, hoặc sức kiếm tiền ban đầu giảm nhiều.
Hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa Lộc ở Đại vận hoặc Lưu niên, ý là"sao hóa Kị của nguyên cục biến thành sao hóa Lộc"(ví dụ như Cự môn hóa Kị của nguyên cục biến thành hóa Lộc của Đại vận hay Lưu niên). Cho nên, nhân tố bất lợi ban đầu, vào hạn này có thể nhuyễn hóa thành nhân tố có lợi, nhờ đó mà được tài phú.
Hai ví dụ trên cho thấy sự biến hóa thay đổi có ý nghĩa khi hóa diệu giao hội.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa Kị luận - Vương Đình Chi
Hóa Kị thuộc dương thủy, giống Hóa Khoa, vì lời khen và lời nói xấu có cùng một dạng năng lực là quảng bá.
Hóa Kị chủ về sóng gió, trắc trở, tổn thất, thị phi, đố kị; xem các sao hội hợp thực tế mà định tình hình cụ thể.
Hóa Kị ở các cung, phần nhiều đều là hãm địa. Như các cung Dần, Tị, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi là lạc hãm, chỉ có cung Sửu là nhập miếu.
Nhưng Thái dương và Thái âm của nguyên cục nhập miếu mà hóa Kị, thì lại chủ về cát lợi, giống như"mây trôi che nhật nguyệt", bất quá chỉ bị lu mờ một chút mà thôi. Thái âm hóa Kị ở cung Hợi, Thái dương hóa Kị ở cung Mão, theo phái Trung châu gọi là"biến cảnh", càng chói mắt người ta, nhưng Thái dương không bằng Thái âm.
Thái dương Thái âm ở hãm địa hóa Kị thì không cát tường, làm mạnh thêm sắc thái thị phi tổn thất.
Các sao có tính chất tinh thần ở cung mệnh mà hóa Kị, cũng chủ về đầu óc trầm tĩnh, lạnh lùng. Thiên đồng hóa Kị ở cung Tuất, Cự môn hóa Kị ở cung Thìn, đều có cách"phản bối"(trở mặt).
Vì vậy không được luận đoán đại khái, hễ gặp hóa Kị lập tức cho là Hung. Mệnh cục gặp hóa Kị phải biết xem trọng sự tu dưỡng tinh thần.
Tử vi Đẩu Số luận đoán Lưu niên vận thế, điều then chốt nhất là giỏi vận dụng hóa diệu.
Như đã biết, thông thường hóa Lộc chủ về kiếm được tiền, hóa Quyền chủ về được thế, hóa Khoa chủ về danh dự địa vị, hóa Kị chủ về bị các tình huống khó xử. Người đời không thể thập toàn thập mỹ, cho nên ngoài vị thế, lợi lộc, danh tiếng ra, ắt phải có sao Kị để điểm xuyết hương vị cuộc đời. Người có kiến giải thông đạt, trong lòng sẽ không buồn phiền khi gặp Hóa Kị.
Tình hình gặp Hóa Kị ở rất nhiều loại, tình hình thường gặp nhất là"chuốc đố kị", nhưng"không chuốc đố kị thì phần nhiều là người tầm thường", cho nên gặp Hóa Kị cũng đừng sợ. Một tình hình khác là, xảy ra hiểu lầm không cần thiết với người khác. Hiểu lầm nhau, có lúc chưa chắc là không tốt, nếu người hiểu lầm quá xấu, thì dù có hiểu lầm, ít đi một người bạn xấu cũng hay.
Hóa Kị dễ khiến cho người ta gặp các tình huống khó xử, bị phỉ báng, nói xấu, bêu rếu. Nhưng thị phi tốt xấu rồi cũng có ngày rõ ràng.
Có lúc Khóa Kị chủ về buồn rầu lo lắng. Như cung Phụ Mẫu hóa Kị, thì có thể phải lo lắng cho sức khỏe của cha mẹ, sinh lão bệnh tử là quá trình tất nhiên của đời người, nên trong tình huống này, nên có kiến giải thông đạt một chút.
Hóa Kị cũng chủ về mắc bệnh, tuy nói là phải có kiến giải thông đạt, nhưng rốt cuộc cũng khiến cho người ta đau khổ, vì vậy trước khi sự việc xảy ra, chúng ta nên gìn giữ sức khỏe là hay nhất.
Tình hình nghiêm trọng nhất củ hóa Kị là phạm pháp, hoặc bị tai họa tới tấp, nhiều khi nhìn thấy tinh hệ này, người ta thường lo láng cho tương lai. Nhưng giả dụ như biết trước được vận thế, cũng không cần phải quá bất an. nhà Phật cho rằng nghiệp lực có thể nhuyễn hóa, trọng nghiệp vẫn có thể có quả báo nhẹ, chỉ cần giữ cho lòng trung hậu, lấy lòng thành để đối đãi với người, lập thân hành sự không hổ thẹn với lòng, thì có thể xoay chuyển được vận thế.
Cho nên, gặp Hóa Kị, phải xem xét cẩn thận tính chất của hóa Kị, và phải xem trọng tu dưỡng tinh thần, giả dụ như có tính tình phóng túng, bất chấp mọi người nghĩ gì, mà không nghĩ đến việc tu dưỡng để bổ cứu, lúc những trắc trở ập đến, không được nói là"do số mạng".
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Hóa Quyền luận - Tam Hợp phái
Hóa Quyền thuộc dương mộc, nên phải đề phòng"cây to thì hứng gió". Cũng chính vì vậy, Đẩu Số ưa"Lộc trùng điệp"mà không ưa"Quyền trùng điệp", lúc hóa Quyền gặp hóa Quyền trùng điệp, sẽ dễ chuốc lực áp chế vào thân.
Nếu Hóa Quyền mà không có Hóa Lộc và Hóa Khoa sánh vai, chủ về dễ bị khuynh đảo, bài xích, chèn ép; nếu lại gặp sát tinh, nhất định sẽ xảy ra nhiều tình huống khó xử.
Hóa Quyền được Hóa Lộc sánh vai, chủ về nhờ quyền lực mà đắc lộc, hoặc nhờ"lộc"mà đắc"quyền", nhưng đừng vì thấy"Lộc Quyền gặp nhau"mà xem thường bản chất của Hóa Quyền.
Cổ nhân hay nhấn mạnh Hóa Quyền không sợ Hóa Kị, ý nói lúc Hóa Kị đến xâm phạm, Hóa Quyền dư sức áp chế. Nhưng theo phái Trung châu Vương Đình chi thì có khác, họ cho rằng ý kiến này hơi phiến diện.
Ví dụ như tinh diệu hóa Quyền ở nguyên cục lại bị Hóa Kị ở vận hạn tương xung, tức là"cây lớn thì hứng gió","địa vị cao thì thế nguy", nhất là lúc"Quyền trùng điệp", bị sao Kị xung phá, chủ về tranh giành quyền lực, nhất là khi nắm được đại quyền, sẽ dễ phạm lỗi lộng quyền.
Nếu Hóa Kị ở nguyên cục hóa làm sao quyền ở vận hạn, thì phải đề phòng lực áp chế, không phải là hỉ sự. Cần phải xem xét kỹ tính chất phối hợp của toàn cục mà định.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Tả Phụ và Hữu bật - Vương Đình Chi
Tả Phụ thuộc dương thổ, Hữu Bật thuộc dương thủy.
Tính chất cơ bản của chúng là trợ lực đến từ những người ngang vai hoặc vãn bối: như đồng sự, người dưới quyền, bạn hợp tác, bạn học, môn sinh đệ tử. Khác với tính chất của Thiên khôi và Thiên việt chủ về trợ lực đến từ bậc trưởng bối, hoặc cấp chủ quản.
Tả Phụ và Hữu Bật cũng ưa hình thức"sao đôi"hội nhập một cung, nhất là ở cung viên lục thân. Nếu là"sao lẻ"thì chủ về cha con dòng thứ, hoặc cha mẹ"lưỡng trùng", anh em khác dòng, con cái khác dòng, hai lần hôn nhân, nhưng phải có các sao"đào hoa", hoặc tứ sát tinh hội hợp mới đúng.
Tả Phụ mạnh hơn Hữu Bật. Cho nên Hữu bật ở cung mệnh hội hợp với Tả phụ, thường thường không bằng Tả phụ ở cung mệnh hội hợp với Hữu bật, trợ lực kém hơn.
Tả Phụ và Hữu bật đều chủ về"lạc quan","khoan dung","đôn hậu". Cho nên dù chính diệu của cung mệnh có sắc thái lạnh lùng, hà khắc, hoặc bi quan tiêu cực, nếu có Tả Hữu hội hợp, thì cũng giảm nhẹ nhược điểm này.
Tả phụ và Hữu bật rất ưa giáp các chủ tinh, như Tử vi, Thiên phủ, Thái dương, Thái âm. Hội hợp ở tam phương cũng Cát, có thể phát huy trợ lực của nó.
Tả phụ và Hữu bật rất ghét như Thiên đồng, Thiên lương, Thiên cơ, Cự môn, Vũ khúc. Với Thiên lương thì không kiềm chế, với Thiên đồng thì hưởng thụ, với Thiên cơ thì giỏi quyền biến, với Cự môn thì thị phi, với Vũ khúc thì dức khoát, những tính chất này đều không hợp với bản chất của Tả Phụ và Hữu Bật. Tuy nhờ hội hợp với Tả Hữu sẽ giảm nhẹ nhược điểm của chúng, nhưng trợ lực cũng vì vậy mà yếu đi.
Lúc tính chất của tinh hệ xung đột quá nặng với bản chất"chất phác","khoan dung","đôn hậu"của Tả Hữu, thì sẽ chủ về nội tâm xảy ra mâu thuẫn xung đột, sẽ nổi lên sóng gió, trắc trở, và các áp lực tình huống khó xử trong cuộc đời.
Tả phụ và Hữu bật chủ về trợ lực"tiên thiên", như dễ kết giao bạn bè, dễ được người dưới quyền giúp sức, mà không cần có ý đi tìm. Nhưng nếu chỉ có"sao lẻ"hội hợp hoặc đồng độ, thì dù có nhiều người dưới quyền cũng chủ về thiếu trợ lực.
Lợi dụng tính chất này, nhiều lúc có thể giúp cho việc luận giải cung mệnh. Như Thất sát an mệnh ở cung Dần hoặc cung Thân, thành cách"Thất sát triều đẩu","Thất sát ngưỡng đẩu", nếu gặp Tả phụ Hữu bật, sẽ chủ về có nhiều người dưới quyền, mà còn có tài lãnh đạo. Nhưng nếu chỉ gặp"sao lẻ"hoặc là Tả phụ hoặc là Hữu bật, thì có thể chỉ là người quản lý đại diện.
Cung Phu Thê gặp Tả Hữu, cần phải định đó là trợ lực cho hôn nhân, hay là có người thứ ba xen vào. Tình hình thông thường là, gặp"sao lẻ"(nhất là Hữu bật) thì chủ về có người thứ ba.
Nếu gặp Hỏa tinh, Kình dương, thì đoán trong hôn nhân có xảy ra thay đổi, hoặc trước hay sau hôn nhân có tình huống sa chân lỡ bước. Nếu chính diệu là các tinh hệ:"Liêm trinh lạc hãm","Thiên lương Thiên đồng","Thiên cơ Cự môn","Vũ khúc", thì lại chủ về"bi kịch tình yêu", gặp nhiều sóng gió, trắc trở, hay nhiều nỗi khổ tâm đau khổ trong lòng. Nếu lại gặp Văn xương Văn khúc thì cũng chủ về"bi kịch tình yêu", nhưng có thi vị lãng mạn.
Nếu cung Mệnh và cung Phu Thê chia ra có Tả phụ và Hữu bật, mà còn gặp sát tinh, thì hôn nhân không tốt đẹp, phần nhiều thành oán hận nhau. Nếu cung Thân là cung Phu Thê, không gặp sát tinh, sẽ chủ về được vợ trợ giúp.
Cung Huynh đệ gặp Tả Hữu, có lúc chủ về số anh em tăng lên. Như tinh hệ"Tử vi Tham lang"đồng độ, chủ về có 3 anh em, khi gặp thêm Tả Hữu thì sẽ chủ về 5 người, nếu lại có thêm Thiên khôi Thiên việt là 7 người.
Muốn biết cụ thể tăng hay giảm, cần phải xem Tả phụ Hữu bật là miếu, bình, hãm, như thế nào để điều tiết, khi nhập miếu thì tăng lên nhiều, khi lạc hãm thì giảm bớt nhiều.
Cung Tử Tức chỉ gặp Tả phụ hoặc Hữu bật, chủ về sinh gái trước hay sinh trai trước. Tả phụ thuộc dương, tính chất rõ ràng.
Cung Tử tức gặp Tả Hữu, rất khó định là được con cái hay người dưới quyền trợ lực, mà chỉ chủ về có nhiều con cái. Trong các tình hình thông thường, lấy tinh hệ chính diệu của cung viên làm chuẩn. Như cung Tử tức có tinh hệ"Thiên cơ Cự môn", phần nhiều chỉ chủ về có nhiều thuộc hạ, nhưng lại thường hay thay đổi người. Xem con cái thì Tả Hữu sẽ chủ về tăng nhiều con, mà không chủ về trợ lực, vì vậy mà bản thân tinh hệ"Thiên cơ Cự môn"sẽ không có trợ lực.
Tả Phụ và Hữu Bật có Hỏa tinh, Kình dương hội hợp, thì sẽ tiêu trừ khuyết điểm của nhau, cũng giống như lửa nóng luyện kim để thành vật dụng. Nhưng nếu chỉ gặp"sao lẻ"một là Tả phụ hoặc một là Hữu bật, thì âm dương mất điều hòa, cũng giống như lò nấu vàng bị vỡ, xảy ra trở ngại.
Linh tinh và Đà la cung hội hợp với Tả Hữu, phần khuyết điểm cũng có thể được tiêu trừ, mà trở nên đắc dụng. Nhưng nếu chỉ gặp"sao lẻ"như Hữu bật, thì quá âm nhu, âm dương mất điều hòa, sẽ khiến đời người nhiều sóng gió trắc trở.
Dưới đây là một số tính chất của kết cấu Tả Phụ và Hữu Bật:
1)- Tả phụ và Hữu bật giáp hai cung Sửu hoặc Mùi. Tinh hệ chính diệu được giáp cung nhờ vậy mà có trợ lực khá lớn. Dù các sao sát - kị được giáp cung, cũng sẽ nhuyễn hóa các nhân tố bất lợi thành nhân tố có lợi. Như tinh hệ"Vũ khúc tham lang"ở cung Sửu, Tham lang hóa Kị, chủ về dễ dẫn đến tranh đoạt lợi ích, nhưng khi có Tả phụ hữu bật giáp cung, thì có thể nhuyễn hóa thành lợi ích được chia mỏng ra cho hai bên, tính chất khác nhau rất lớn.
Các tinh hệ như"Tử vi Tham lang", Thiên phủ,"Thái âm Thái dương", rất ưa Tử phụ và Hữu bật giáp cung, chủ về tăng cao địa vị xã hội, cũng làm tăng sự ổn định của đời người. Rất ưa có Long trì, Phượng các đồng thời giáp cung, sức mạnh càng tăng, còn chủ về là người có tài nghệ.
2)- Tả phụ và Hữu bật cùng đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, tinh hệ chính diệu cũng được tăng mạnh sự trợ lực.
3)- Tả phụ và Hữu bật vây chiếu ở hai cung Thìn hoặc Tuất, cũng thành kết cấu có trợ lực khá lớn. Trong các tình hình thông thường, các sao ở cung Thìn hoặc Tuất là rơi vào"thiên la địa võng", nhưng có Tả phụ và Hữu bật vậy chiếu, sẽ chủ về có trợ lực thúc đảy thành đột phá. Nếu có thêm Long trì Phương các vây chiếu, cũng chủ về là người có tài nghệ, hoặc tăng cao địa vị xã hội.
4)- Khi chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, nếu ở cung mệnh lại là tinh hệ vô chính diệu,"mượn sao an cung"là các tinh hệ"Thiên đồng Cự môn","Thái dương Thiên lương","Thiên cơ Thái âm","Thiên cơ Cự môn","Thiên đồng Thái âm", sẽ chủ về còn nhỏ đã chia ly với gia đình, xa cha mẹ, làm con nuôi của người khác, hoặc là con dòng thứ.
Nếu Liêm trinh hóa Kị, có Kình dương đồng độ, mà chỉ gặp Tả phụ, hoặc chỉ gặp Hữu bật, sẽ chủ về có khuynh hướng đạo tặc, bất kể giầu có hay nghèo nàn, đều như vậy.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Phụ diệu và Tá diệu - Vương Đình Chi
Trong Tử Vi Đẩu Số, tác dụng của các sao Phụ diệu, Tá diệu, Sát diệu, Hóa diệu, và Tạp diệu sẽ khiến 60 tinh hệ do 14 chính diệu cấu tạo thành có thể biểu hiện các tính chất phức tạp, để phản ánh sự phức tạp của đời người. Chúng có thể nhuyễn hóa, hoặc làm mạnh thêm, hoặc làm yếu đi bản chất của tinh hệ gốc. Trong khi vận dụng phối hợp, 12 tinh bàn đơn giản ban đầu sẽ trở nên sôi động, thành các tổ hợp thiên biến vạn hóa (một chính và một phản, thành 6 nhóm kết cấu tinh hệ).
Điều tối quan trong của Tử Vi Đẩu Số là chứng nghiệm, sở dĩ có tinh hệ và tính chất của các sao, thực ra cũng là do người xưa chứng nghiệm rồi ghi chép lại. Ta nên căn cứ vào tình hình sinh hoạt của xã hội hiện đại, để bổ xung chứng nghiệm của người xưa, thì chứng nghiệm của"Đẩu Số"mới giữ được sự chính xác theo thời gian.
Theo sự lưu truyền của phái Trung Châu, các sao không phân chia theo cấp (cấp 1, cấp 2, .v.v...) mà được phân chia thành Chính diệu, Phụ diệu, Tá diệu, Sát tinh, Hóa diệu, Tạp diệu và Lưu diệu.
Phụ diệu là 4 sao Tả phụ, Hữu Bật, Thiên khôi, Thiên việt, thông thường người ta cộng thêm Văn xương, Văn khúc, và gọi là"Lục cát tinh".
Trong các Phụ diệu, thì Thiên Khôi và Thiên Việt được gọi là"quý nhân", còn Tả Phụ và Hữu bật được gọi là"trợ thủ".
Lợi ích do Phụ diệu mang lại thuộc về"tha lực"(do các nhân tố khách quan tác động), không phải do cá nhân nỗ lực mà được. Những người được vận tốt, hoàn toàn chỉ là do nắm được thời cơ, mà không phải có người đặc biệt cố tình mang lại lợi ích cho họ. Nếu không có thời cơ thích đáng, những người này dù có nỗ lực theo đuổi cũng không thể có được.
Còn lợi ích do Tá diệu mang lại, thì thuộc về"Tự lực", cần phải trải qua nỗ lực tranh thủ mới có được. Có Văn xương, Văn khúc chiếu mệnh, thông thường chủ về học hành thông minh, nhưng bản thân phải chịu khó học tập mới được. Có Lộc tồn Thiên mã thì có thể làm ăn kinh doanh phát tài, nhưng bản thân cũng phải chịu đi kinh doanh mới được. Cho nên, 4 sao Tá diệu Văn xương - Văn khúc - Lộc tồn - Thiên mã có thể được phát huy, là do"tự lực".
Lợi ích do Tá diệu mang lại, thì nhất định bản thân phải nỗ lực tranh thủ, trái ngược với tính chất của Phụ diệu. Ví dụ như Lộc tồn Thiên mã thông thường chủ về xuất ngoại kinh doanh làm ăn và trở nên giầu có. Nếu cung Mệnh, hoặc cung Di gặp nhóm Tá diệu này, nhưng bản thân Mệnh tạo lại không đi kinh doanh làm ăn, thì nhất định không có được tài phú.
Như đã nói, Văn xương và Văn Khúc chủ về khoa cử và công danh, giả dụ cung Mệnh hoặc cung Phúc gặp nhóm sao này, nhưng bản thân Mệnh tạo lại không đi học, thì nhất định không thể có học vị.
Cần phải hiểu rõ sự khác biệt giữa Phụ diệu và Tá diệu, để lúc luận đoán mới phân biệt được tính chất khác nhau của cùng một tinh hệ.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Tính chất các sao ở cung Mệnh và cung Thân - Vương Đình Chi
Trong Đẩu Số, dùng cung mệnh để luận đoán mệnh cách của người đó là cao hay thấp, nó chủ về thực chất của vận thế. Nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục cao, thì khó gặp đại hạn và lưu niên quá xấu. Trái lại, nếu cung mệnh trong tinh bàn hiển thị cách cục thấp, thì sẽ khó gặp đại hạn và lưu niên quá tốt, bất quá chỉ thuận lợi nhất thời mà thôi. Do đó có thể thấy sự quan trọng của cung mệnh.
Cung mệnh đối nhau với cung Di ở tứ chính, và tương hội với cung Quan với cung Tài ở tam phương. Cũng chính là nói, chúng có thể ảnh hưởng đến thực chất của vạn trình, những tao ngộ như xuất ngoại, và mối quan hệ với người ở nơi xa hay người ngoại quốc, và các yếu tố như sự nghiệp phát triển có thuận lợi toại ý hay không (quan), tài phú có được như ý hay không, .v.v...
Do đó cung mệnh trong tinh bàn Đẩu Số là then chốt chủ yếu để luận đoán. Xem xét tổ hợp các sao của cung mệnh, hầu như đã có thể định được đại khái vận thế của một đời người.
Còn cung thân, theo thuyết thông thường, là dùng để luận đoán sự phát triển hậu thiên của người đó. Nếu cung mệnh cát, cung thân cũng cát, đương nhiên cuộc đời nhiều thuận lợi toại ý. Nếu cung mệnh cát, nhưng cung thân không cát, thì giống như khối ngọc đẹp, nhưng lúc điêu khắc đã xảy ra sai sót, do đó làm giảm đẹp. Nếu cung mệnh không cát, cung thân cũng không cát, thì cũng giống như gỗ xấu không được điêu khắc, đời người đương nhiên giảm sắc, chỉ có thể khéo vận dụng đại hạn và lưu niên (nhân mệnh), lấy nỗ lực hậu thiên để bổ cứu. Đại hạn có cung mệnh của đại hạn. Lưu niên có cung mệnh của lưu niên.
TỬ VI
1)- Tử vi độc tọa ở cung Tý hoặc Ngọ thủ cung Mệnh hay Thân.
Tử vi độc tọa, ở cung Tý không bằng ở cung Ngọ, bởi vì khi ở cung Ngọ là nhập miếu, tài lãnh đạo và lực điều hòa với lực chế hóa đều lớn hơn khi độc tọa ở cung Tý, vì vậy địa vị và tài phú cũng đều hơn hẳn.
Tử vi độc tọa, ngoài việc ưa"bách quan triều củng"ra, còn ưa Tả phụ, Hữu bật giáp mệnh, Văn xương Văn khúc giáp mệnh, Long trì Phượng các giáp mệnh, thảy đều có thể làm tăng khí thế và giảm bớt vất vả.
Nếu là"tại dã cô quân", còn gặp các sao"không"như Thiên không, Địa không, thì thích hợp làm người truy tìm chân lý, thành nhân vật tôn giáo, cũng có thể thành nhân vật lãnh đạo. Gặp Hoa cái, khuynh hướng tôn giáo tín ngưỡng càng sâu, hơn nữa còn thích tìm hiểu về việc thần bí.
Tử vi độc tọa, mà gặp các sao Phụ - Tá - Sát - Hóa, thì cần phải xét xem các sao cát hung nhiều ít thế nào, sức mạnh của chúng ra sao, để định tốt xấu. Thông thường phần lớn trường hợp đều chủ về có lý tưởng cao nhưng sức mạnh hành động không đủ, cần phải dùng hậu thiên để bổ cứu (nhân mệnh), để nỗ lực thực hiện lý tưởng.
Nếu như không có sao Cát hội hợp, mà chỉ gặp Sát tinh, thì rất dễ cảm thấy có tài mà không gặp thời, nên làm việc ở lĩnh vực kinh doanh thương mại. Chỉ cần Sát tinh nhập miếu, mà Sát tinh không nhiều, thì vẫn có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà trở nên giầu có. Tốt nhất là được Hóa Lộc hoặc Lộc tồn hội hợp, dễ giầu có mà còn có địa vị trong xã hội, nhất là càng dễ phát triển trong giới thương nghiệp. Nếu theo lĩnh vực chính trị, văn hóa, giáo dục, thì trái lại, sẽ gặp nhiều trắc trở, bất đắc chí.
Sát tinh nặng, thông thường đều chủ về bất hòa, tranh chấp thị phi. Nhất là gặp phải Kình dương lạc hãm, càng chủ về kiện tụng, hoặc phẫu thuật ngoại khoa
Tử vi độc tọa, cũng ưa hóa Quyền (can Nhâm) hóa Khoa (can Ất), khi hóa Quyền thì làm tăng tài lãnh đạo và có sức cạnh tranh, khi hóa Khoa thì có tiếng tăm, hơn nữa theo ngành nghiên cứu học thuật thì có thể dung hợp được các thuyết mà sáng tạo ra cái mới. Nhưng đều khiến cho mệnh tạo tăng mạnh tính chủ quan, nên khó tiếp thu ý kiến của người khác. Đây là đặc thù khi gặp hóa diệu Khoa Quyền.
Trường hợp Tử vi chỉ gặp một hai sao Sát - Kị, thì lại chủ về dễ nghe lời nói xấu, dèm pha, thị phi.
Phàm Tử vi độc tọa, đối cung ắt sẽ gặp Tham lang, chủ về hiếu sắc, có các sao đào hoa hội hợp thì càng nặng. Nếu chỉ hội hợp Thiên hình, thì chủ về tự bản thân biết kiềm chế, gặp Đà la cũng có thể tự kiềm chế.
Trong đại hạn hoặc lưu niên, Tử vi độc tọa tại cung hạn, cần phải xét kỹ các sao hội hợp để định cát - hung. Gặp cát tinh thì chức vị thăng tiến, thượng vụ phát triển, phúc lộc đều hậu hỉ, nếu gặp Địa không, Địa kiếp, sao Hao, thì chủ về nguồn kinh tế khó khăn hoặc phá tài, có Sát tinh tương hội thì chủ về bất hòa tranh chấp, trong làm ăn có thể dẫn đến đình trệ, trong chức vụ có thể bị giáng chức, hoặc bị truất phế.
2)-"Tử vi Phá quân"thủ cung Mệnh hay Thân
Tử vi ở hai cung Sửu hoặc Mùi, luôn có Phá quân đồng độ, đây là kết cấu tinh hệ rất có khí lực khai sáng. Phá quân vốn là chiến tướng tiên phong, được Tử vi cầm cương điều khiển (là đặc thù của Phá quân cần phải có người cầm cương nảy mực), lực phá hoại của Phá quân nhờ vậy mà được giảm thiểu, sắc sáng tạo trái lại sẽ tăng. Tuy đời người không tránh được vất vả, nhưng nhờ có tài lãnh đạo, có tính quyết đoán, nên cũng chủ về trải qua vất vả mà có được thành tựu.
Nhưng lúc Phá quân hóa Quyền (can Giáp), sẽ làm tăng tính chất biến động của Phá quân, vì vậy mà đời người cành thêm thay đổi. Nếu có Tả Hữu đủ"cặp đôi"hội hợp, có thể giảm thiểu vất vả. Nếu gặp tứ Sát, thì chỉ thích hợp làm việc trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, và cần phải chú ý tính chất sáng tạo cái mới trong kinh doanh.
Nếu Phá quân hóa Lộc (can Quý), đồng thời với sự khai sáng là cơ hội kiếm tiền, khiến cho sinh hoạt vật chất của người này được sung túc, bù đắp cho những vát vả đã trải qua. Nhưng như vậy, đồng thời cũng chủ về tình cảm gặp nhiều tình huống rắc rối khó xử, hơn nữa, sẽ khiến cho mệnh tạo thiên về hưởng thụ nhục dục. Bởi vì lúc này sẽ gặp tinh hệ"Liêm trinh Tham lang"ở cung Tị, do hội hợp với Phá quân hóa Lộc mà phát huy tác dụng.
Bất kể Phá quân hóa Quyền hay hóa Lộc, cũng đều có thể khiến cho mệnh tạo trở thành phú quý. Nhưng nếu đồng thời hội hợp với các sao Sát - Hình - Kị, thì tuy giầu có sung túc nhưng lại dễ chuốc điều tiếng thị phi. Gặp Kình dương, Thiên hình, Hóa Kị, còn dễ vướng vào tranh chấp kiện tụng, thích hợp theo binh nghiệp hoặc ngành pháp luật.
Tinh hệ"Tử vi Phá quân"chủ về biến động, cho nên trong kinh doanh làm ăn cần phải chú ý cơ hội đến bất ngờ, hơn nữa, có khả năng đồng thời kinh doanh hai ba lĩnh vực có liên quan với nhau. Nếu là nhân làm thuê, thì chủ về khiêm thêm ngành nghề, kiêm thêm chức vụ, hoặc làm tăng ca, nhưng nhất định sẽ một mình đảm trách công việc.
Tinh hệ"Tử vi Phá quân"đóng cung mệnh là người thẳng thắn. Nhưng nếu gặp Hoa cái, thì thích hợp nghiên cứu Tôn giáo hoặc triết học.
Có điều, do mệnh tạo hay lo toan nghĩ ngợi về nhiều biến động, vả lại Thiên phủ ở cung Phúc chủ về lo toan chu đáo, nên khi gặp các sao Sát, sao"không"có lúc sẽ bộc lộ tính cách tư lự, ích kỷ. Cổ nhân nói:"Tử Phá làm tôi thần bất trung, làm con bất hiếu"(Tử vi Phá quân, vi thần bất trung, vi tử bất hiếu), cổ nhân còn nói:"Tử Phá đồng cung, mà không có Tả Hữu, không có cát tinh, là phường quan lại hung ác"(Tử Phá đồng cung vô Tả Hữu, vô cát diệu, hung ác tư lại chi đồ), tức là đã chỉ ra bản tính tự kỷ, ích kỷ, và khuynh hướng hay lo toan nghĩ ngợi của mệnh tạo. Nhưng chỉ cần có Cát tinh hội hợp, thì những tính cách không lành này sẽ giảm nhẹ, thậm chí tiêu trừ.
Đại hạn hoặc lưu niên gặp tinh hệ"Tử vi Phá quân", chủ về"Khứ cựu canh tân"(bỏ cũ để đổi mới), được sao Cát hội hợp, đương nhiên biến động sẽ cát lợi. Nếu gặp Sát tinh, thì nên suy nghĩ kỹ, không được vội vã thay đổi. Nếu Cát tinh và Sát tinh đều có, thì phải xem đến vận hạn sau, soát xét xem có Cát hay không để quyết định làm hay dừng.
3)-"Tử vi Thiên phủ"thủ cung Mệnh hay Thân
Hai sao Tử vi và Thiên phủ đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân. Tử vi là chủ tinh của Bắc Đẩu, tính thích hợp khai sáng. Thiên phủ là chủ tinh của Nam Đẩu, tính lợi về bảo thủ. Cho nên khi hai chủ tinh gặp nhau, không những xung đột"một núi không thể có hai cọp", mà tính chất còn kiềm chế nhau, sẽ khó phát huy.
Thông thường, chỉ chủ về thanh cao, thậm chí có khả năng phát triển thành tự sùng bái mình. Kết cấu tinh hệ kiểu này, rất nên theo sự nghiệp giáo dục, làm công chức cũng được, không thể theo nghiệp kinh doanh, nếu không sẽ có phản ứng sai lầm, hành động không mang lại hiệu quả tốt cho bản thân, thường đánh mất cơ hội, hoặc"khéo quá thì biến thành vụng".
Khi Tử Phủ đồng cung, nếu Tử vi hóa Quyền (can Nhâm) hoặc hóa Khoa (can Ất), thì vầng hào quan của Tử vi càng lớn, khí quý phái cũng lớn. Nếu Thiên phủ hóa Khoa (can Nhâm) thì chỉ có khuynh hướng giữ uy tín, xem trong lời hứa, nhưng sẽ quá khiêm cung hiền lành, thiếu năng lực lãnh đạo và khai sáng mọi thứ từ thực tế.
Kết cấu tinh hệ Tử Phủ rất nên có cách"Lộc Mã giao trì cách"đến hội hợp, chủ về phú quý song toàn, kế đến là"Lộc Văn củng mệnh cách", tức là Lộc tồn hoặc Hóa Lộc và Văn xương Văn khúc hội hợp, cũng chủ về phú quý, kế đó nữa là các sao Phụ diệu, Tá diệu hội hợp, chủ về quý mà không chủ về giầu có.
Nếu các sao Phụ diệu và Tá diệu không hội hợp, mà có đủ tứ Sát: Hỏa tinh, Linh tinh, Kình dương, Đà la, thì trái lại, thì sẽ chủ về bề ngoài trung thành mà bên trong gian trá, phần nhiều hay tráo trở thị phi, nếu gặp sao"không", hoặc Không Vong, thì chủ về là người cô độc, tầm thường, kiếm sống qua ngày.
Nữ mệnh gặp tinh hệ Tử Phủ, nếu Tham lang của cung Phúc hội hợp với các sao đào hoa Hồng loan, Thiên hỷ, Hàm trì, Thiên diêu, thì nên xem trọng sinh hoạt tình cảm, nếu cung Mệnh có các sao Sát - Hình tụ tập đủ, thì có thể làm kế thất, hoặc do quá tự sùng bái mình mà suốt đời không kết hôn.
Cung Mệnh của đại hạn, hoặc lưu niên gặp Tử Phủ, thì cát lợi hơn so với gặp ở cung Mệnh nguyên cục, chủ về được quý nhân trợ lực, dễ phát đột ngột. Nếu gặp Khôi Việt, hoặc lưu Khôi lưu Việt, thì có thể nhờ thay đổi mệnh lệnh, hoặc Cty thay đổi quy tắc mà được lợi. Trong làm ăn phần nhiều không cầu mà bỗng nhiên gặp may.
4)-"Tử vi Tham lang"thủ cung Mệnh hay Thân
Tử vi và Tham lang đồng độ ở hai cung Mão Dậu, cổ nhân gọi cách này là"Đào hoa phạm chủ", cho rằng chủ về dâm loạn, cho nên gặp"Tử vi Tham lang"đồng cung, rất kị gặp thêm các sao đào hoa Hồng loạn, Thiên hỷ, Hàm trì, Đại hao, Thiên diêu, Mộc dục, nếu không sẽ chủ về mất kiềm chế trước sức hấp dẫn của người khác giới, nếu còn gặp thêm Sát tinh, thì vì sắc đẹp mà gặp họa. Dù không gặp Sát tinh thì cũng ảnh hưởng đến sự nghiệp tương đối sâu sắc.
Nếu Tử vi hóa Quyền (can Nhâm) được"bách quan triều củng", thì giống như thiên tử phong lưu ở thời thái bình, chủ về phú quý đa tình. Khi Tử vi hóa Khoa (can Ất) gặp sao Cát, tuy có tiếng tăm và học có thành tựu, nhưng vẫn thiên nặng về dục tình và ham muôn vật chất.
Nếu Tham lang hóa Lộc (can Mậu) thì chủ về một năm giao tế thù tạc nhiều, thên nặng về ham muôn vật chất, nhưng lại có tài vận hanh thông. Khi Tham lang hóa Quyền, ham muốn vật chất cũng nặng, nhưng phải trải qua cạnh tranh mới thành tựu. Khi Tham lang hóa Kị, tuy có giảm sắc thái đào hoa, nhưng về tài nghệ thì lại khó phát triển, nhiều ham muốn vật chất nhưng cũng khó mà toại nguyện.
Tinh hệ"Tử vi Tham lang"ưa gặp Tả phụ Hữu bật đồng cung, mà không ưa Văn xương Văn khúc. Nếu Xương Khúc đồng cung, thì khuynh hướng hấp dẫn người khác giới càng lớn, mà lại còn quá chú trọng trang điểm, chải chuốt, biểu hiện bề ngoài hoàn mỹ, cho nên hành sự"giả"nhiều mà"thực"ít. Nếu Tả phụ và Văn xương, hoặc Phụ bật và Văn khúc giáp cung Mệnh, thì trái lại, sẽ dễ phát huy tài chí, sự nghiệp có thành tựu. Cổ nhân nói"Tả Hữu Xương Khúc giáp chế", theo bí truyền của Trung Châu phái, đây là nói về cách"giao thoa nhau mà giáp cung mệnh", bởi vì Tử Tham vĩnh viễn không có khả năng được"Tả Hữu giáp mệnh"hay"Xương Khúc giáp mệnh".
Tử Tham gặp Sát tinh, chỉ nên hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, nhưng Sát tinh nặng thì có thị phi tranh chấp. Nếu lại gặp sao"không"và Hoa cái thì trái lại, sẽ sinh nhai bằng hoạt động tôn giáo.
Nữ mệnh gặp Tử Tham, gặp đào hoa và Sát tinh, dễ rơi vào chốn phong trần, kị nhất là gặp Kình Dương. Nếu có các sao đào hoa tụ tập, nguy cơ rơi vào chốn phong trần càng lớn, đồng thời cũng vì vậy mà ham muôn vật chất có khuynh hướng trụy lạc. Nếu cung Mệnh ở Dậu, mượn Tử Tham của cung Mão để nhập cung, thì càng phải nên chú ý.
Cung Mệnh của lưu niên hay đại hạn mà gặp Tử Tham, thì tính đào hoa sẽ nhẹ hơn khi gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Thông thường, nếu hội hợp với sao Cát, thì chủ về ít có sự biến động thay đổi, ít tiến bộ. Nhưng nếu các Sát tinh cùng tụ tập, mà không gặp các sao Hình - Kị, thì lại có thể tiến bộ. Còn nếu các Sát tinh cùng tụ tập, lại gặp thêm các sao Hình - Kị, thì có thể vì sắc mà phá tài, chuốc họa, hoặc vì thù tạc mà chuốc lấy điều tiếng thị phi.
5)-"Tử vi Thiên tướng"thủ cung Mệnh (Thân)
Tử vi Thiên tướng đồng độ ở hai cung Thìn hoặc Tuất, Tử vi là đế diệu, Thiên tướng là sao"ấn", thoạt nhìn thì có vẻ là một kết cấu rất lý tưởng, nhưng khi hai sao này đồng cung, thì lại vì Phá quân ở đối cung mà thay đổi tính chất. Phái Trung Châu xem trọng đặc tính của toàn bộ kết cấu của các tinh hệ, đây là một ví dụ.
Tinh hệ Tử Tướng rất ưa được Lộc tồn hội chiếu, có thể giầu có, nhưng thành kiến chủ quan cực sâu, mà còn thích tranh quyền, nên dễ bị người ta dạt bỏ, chèn ép. Nếu không có Lộc tồn, mà Tử vi hóa Quyền (can Nhâm), thì tính thích tranh quyền càng kịch liệt, còn nếu Tử vi hóa Khoa (can Ất), tính thích tranh quyền tuy có hơi giảm, nhưng lòng tự tôn và trọng danh dự càng nặng, dễ bị người ta úy kị.
Nếu không gặp Lộc Quyền Khoa, thì tinh hệ này ưa được"bách quan triều củng", mà không ưa các sao Sát Kị hội hợp. Nếu được Tả phụ Hữu bật Văn xương Văn Khúc hội chiếu thì sự nghiệp có thể thành tựu, là nhân vật lãnh đạo, tính tình ôn hòa đôn hậu. Nhưng vì ảnh hưởng của Phá quân ở đối cung, nên trong đời ắt phải trải qua một lần sóng gió trắc trở.
Nếu không gặp Cát tinh, mà có tứ Sát hội hợp, thì lấy trường hợp Kình Đà là khá tốt, thích hợp hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Nếu gặp Hỏa Linh, do gặp Hỏa Linh phải hao phí sức lực hóa giải nên tăng thêm vất vả gian khổ. Giả dụ như gặp Hỏa Linh mà còn gặp thêm Không Kiếp, hay Thiên hình, thì có thể gặp bất hạnh, tinh thần hay bị kích thích, hoặc mắc bệnh tim. Phàm Tử Phủ thủ Mệnh, dù không gặp Sát tinh, cũng nên chú ý sức khỏe tim mạch và tu dưỡng tinh thần.
Nếu có nhiều Sát tinh hội hợp, chủ về phát lên một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng, mà còn dễ có biểu hiện vô tình vô nghĩa. Nếu có sao Cát tương hội, thì chủ về đời người trải qua nhiều sóng gió, trắc trở, hoặc cuộc đời có sự thay đổi đặc biệt, hoặc gặp bất hạnh bất ngờ, hoặc là gặp cơ hội tốt. Nhưng trong ngẫu nhiên vô tình vẫn có biểu hiện tình nghĩa lạnh nhạt.
Nữ mệnh gặp tinh hệ"Tử vi Thiên tướng", cần chú ý sinh hoạt tình cảm, đồng thời cũng lưu ý đặc tính vô tình vô nghĩa của tinh hệ này, mà biết tự kiềm chế thì mới tốt lành, nhưng trong tình yêu ắt thường nổi sóng.
Cung Mệnh của lưu niên hay đại hạn có"Tử vi Thiên phủ", nếu gặp các sao Sát Kị, ắt sẽ bị gặp nhiều trở ngại, rồi sinh lòng thay đổi, như mong muốn thay đổi việc làm nhưng lại không được, gặp Cát tinh thì vận hạn thuận lợi toại ý, sự nghiệp có thành tựu.
6)-"Tử vi Thất sát"thủ cung Mệnh hay cung Thân
"Tử vi Thất sát"đồng độ ở hai cung Tị hoặc Hợi. Tử vi là đế diệu, Thất sát là tướng tinh, hai sao này mà đồng cung sẽ có uy không ai so bì được. Cho nên, Tử Sát chủ về giầu tính khai sáng, hơn nữa còn có tư tưởng độc đáo.
Thông thường, Tử Sát có thể xem là tượng trưng của quyền lực, cho nên Tử vi không nên Hóa quyền, vì như vậy sẽ"kích phát"về lòng ham muốn quyền lực lên quá cao, có biểu hiện khí"bá đạo"mà những người khi tiếp xúc khó mà nhịn được. Điều này gây ảnh hưởng đến mối quan hệ bền vững và để lại hậu quả lâu dài rất sâu sắc.
Tử Sát rát nên được các sao Cát hội chiếu. Như Tả phụ, Hữu bật, Văn xương, Văn khúc, Lộc tồn, Thiên mã hội hợp, thì tính"cương dũng"của Thất sát có đất dụng võ. Cái gọi là"hóa sát làm quyền"là cách cục này. Nhưng giả dụ không có sao Cát hội chiếu, thì giống như anh hùng thảo dã làm giặc cướp, khó tránh có biểu hiện tàn nhẫn bá đạo, chủ về phát lên một cách nhanh chóng rồi suy sụp cũng rất nhanh chóng. Nếu như không có sao Cát, mà còn có Sát tinh hội hợp, thì khó tránh"hình thương, khắc hại".
Nữ mệnh gặp Tử Sát, về phương diện sinh hoạt hôn nhân, sẽ không có trở ngại gì lớn, nhưng nếu gặp Sát tinh hội chiếu, thì chủ về cô độc.
Đại hạn hoặc lưu niên gặp Tử Sát, nếu còn gặp Sát tinh, thì tuy có cơ hội thay đổi, nhưng lại khó được như nguyện. Nếu có Cát tinh tụ hội, thì chủ về trải qua thay đổi mà được cát lợi.
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Thiên cơ tọa thủ cung Mệnh - Vương Đình Chi
1)- Thiên Cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ
Thiên cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ là nhập miếu, là cung vị có thể phát huy đặc tính của nó một cách cao nhất. Do xung chiếu với Cự môn ở đối cung, chỉ cần Cự môn không hóa Kị, thì sẽ không bị ảnh hưởng bởi điều tiếng thị phi gây nên, mà thiên Cơ còn phát huy được tài ăn nói, mưu trí và quyền biến.
Thông thường, Thiên cơ và Cự môn đối nhau, nếu được Tả Hữu Xương Khúc, Hóa lộc, Hóa quyền, Khôi Việt hội chiếu, thì có thể nắm giữ uy quyền, trở thành người lãnh đạo công ty lớn, hoặc thủ trưởng một bộ môn của chính phủ. Nếu có thêm Lộc tồn Thiên mã vây chiếu, thì nguồn tiền tài càng dồi dào. Nếu Xương Khúc giáp Mệnh, thì chủ về thông minh ưu tú, có thể theo đuổi sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, cũng thích làm cồn việc quảng bá, môi giới. Nếu có sao Cát đến hội, mà gặp thêm Sát tinh, làm việc trong lĩnh vực chính trị hoặc thương nghiệp tuy có thể phú quý, nhưng không được lâu dài, không bằng lợi dụng tính chất của Sát tinh để"tìm cát tránh hung". Thông thường gặp hóa Kị thì thích hợp công việc quảng bá. Gặp Kình dương thì có thể theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật, gặp thêm Thiên hình thì có thể làm bác sỹ ngoại khoa. Gặp Hỏa Linh hoặc Kình Đà thì nên có nghề chuyên môn để mưu sinh.
Nữ mệnh Thiên cơ thủ Mệnh độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, chủ về khéo léo, thông minh cơ trí, nhưng tính rất ham quyền bính, cũng chủ về biết chăm lo gia đình. Rất ngại Thiên cơ hóa Kị, có thể vì bị kích thích mà đùa giỡn với tình cảm, nếu Cự môn của đối cung hóa Kị, gặp Sát tinh thì nên kết hôn muộn, nếu không sẽ"hình phu khắc tử".
Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp Thiên cơ độc tọa ở hai cung Tý hoặc Ngọ, thì sự nghiệp có xu thế biến thiên, cần xem các sao mà nó hội hợp để định cát - hung.
2)- Thiên cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi
Thiên cơ độc tọa ở hai cung Sửu hoặc Mùi là lạc hãm, đặc điểm của nó là đối chiếu với Thiên lương ở đối cung. Cổ nhân nói:"Cơ Lương hội hợp thì giỏi bàn việc binh"(Cơ Lương hội hợp thiện đàm binh), thực ra câu nói này chẳng biểu thị người này có tài năng quân sự, mà chỉ biểu thị người này thích bàn luận đề tài mà người bình thường không rành, hơn nữa còn biểu hiện phong thái hùng tài vĩ lược, tất nhiên là giỏi biện luận, nhạy bén mưu trí và quyền biến. Thông thường không nên làm công việc kinh doanh buôn bán, có thể trở thành nhân tài tham mưu cố vấn.
Thiên cơ hóa Lộc không những chủ về tiền đến tiền lại đi, mà còn rất khó tích lũy căn cơ, nhưng lại dễ có vận may kiếm tiền một cách đột ngột bất ngờ. Nếu Thiên cơ hóa Quyền có thể làm tăng quyền thế, hoặc có cơ hội quen biết được với những người có quyền thế, quyền lực, tạo nguồn trợ giúp cho sự nghiệp phát triển và nâng cao địa vị của bản thân. Thiên cơ hóa Khoa (can Đinh) ở hai cung Sửu hoặc Mùi, ắt phải được Văn tinh giáp cung, hoặc vây chiếu mới có biểu hiện tốt, chủ về thông minh xuất chúng, ăn nói biện giải trong giao tế có tính thuyết phục một cách chắc chắn, phản ứng nhạy bén.
Thiên cơ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, rất ngại gặp Sát tinh, Kị tinh, cổ nhân nói:"Thiên cơ mà thêm ác sát đồng cung, thì như chó trộm chuột cắp"(Thiên cơ gia ác sát đồng cung, cẩu thâu thử thiết), tức là nói trường hợp ở hai cung Sửu hoặc Mùi. Tất nhiên phải có Sát - Hình - Kị hội chiếu, mà không có Cát tinh hội hợp, mà còn gặp Ânm sát, Thiên hư thì mới đúng. Nhưng cũng chỉ chủ về nhân phẩm con người thấp, vẫn có thể dùng nỗ lực tu dưỡng hậu thiên để bổ cứu.
Nữ mệnh Thiên cơ hóa Kị thủ Mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, thì đặc biệt rất nhiều lo nghĩ và gặp trở ngại về tình cảm, yêu ghét hay do dự thay đổi bất định, nội tâm đau khổ chưa hẳn là do người khác gây ra. Cung Mệnh của đại hạn hoặc lưu niên mà gặp trường hợp này, nếu đứng núi này trông núi nọ, thì sẽ rất bất lợi. Nếu gặp Thiên cơ hóa Kị và có Sát tinh đồng độ thì buộc phải thay đổi, nhưng sự thay đổi này sẽ bất lợi.
3)-"Thiên cơ Thái âm"đồng độ thủ Mệnh (hoặc Thân)
Tinh hệ"Thiên cơ Thái âm"đồng độ ở hai cung Dần hoặc Thân, cung Tài có Thiên đồng, cung Quan có Thiên lương. Đây là một tinh hệ điển hình của cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương", cổ nhân nói:"Cơ Nguyệt Đồng Lương là làm thư lại"(Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân), trong trường hợp này rất là đúng tiêu chuẩn.
Đặc tính các sao của bản cung là xử sự có mạch lạc, lớp lang, ngăn nắp, thứ tự, có thể dựa vào đó để định phương kế và kế hoạch làm việc, cho nên thích hợp làm công chức, hoặc đảm nhiệm chức vụ trong công ty. Xã hội hiện đại xem trọng việc quản lý công ty, rất thích hợp với người có mệnh cách này.
Ở phương diện khác, cách"Cơ Nguyệt Đồng Lương"còn chủ về mệnh tạo thiên về mặt âm nhu, phái nam nhờ vậy mà dễ tiếp cận phái nữ, biết rõ tâm lý nữ giới, phái nữ cũng chủ về dung mạo xinh đẹp, giầu tình cảm, dễ được phái nam theo đuổi.
Nhưng tính cách âm nhu này cũng có thể phát triển thành thủ đoạn xấu bên trong, như kiểu mua chuộc lòng người. Đây cũng là nhân tố cơ bản của"lại nhân"(nhân viên trông coi văn thư trong huyện phủ thời xưa)
(Theo: Blog Tử Vi Tinh Quyết)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com