Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

3

Họ tìm thấy thi thể của Adrian Underwood chừng mười ngày sau thông báo mất tích, trong một con hẻm u ám quận Oakland. Cái chết đột ngột của Underwood khiến người ta chú ý hơn bởi nó không phải vì bệnh; tuy nhiên cũng không chú ý đủ, bởi bất cứ người dân Chicago nào cũng biết rằng South Side là lãnh thổ của mafia.

Giáng Sinh của gia đình Underwood năm nay sẽ là một kỳ nghỉ u uất tang tóc.

Cá nhân cậu không quan tâm mấy. Cậu và Underwood thuộc hai vòng tròn xã hội khác hẳn nhau trong Lake Forest. Địa vị và năng lực đủ để khiến Underwood để cậu yên, có điều một số học viên khác thì không được may mắn như thế. Khó mà bỏ qua được vẻ ngấm ngầm nhẹ nhõm của vài hậu bối cậu thường thấy cùng Underwood, và ngay cả Theodore, có gì đấy cắn rứt, nhưng cũng thanh thản thấy rõ, vừa có ai giúp hắn trút được gánh nặng ngàn cân khỏi vai.

"Cậu chưa bao giờ nói rằng cậu cũng là một trong những mục tiêu của Underwood," cậu lên tiếng một câu đầy bâng qươ như vậy vào một buổi chiều đẹp trời nọ. Ngay từ khi còn là người thường, cậu đã không quá thích thú gì với nắng chiếu, ưa kiểu thời tiết như thế này hơn—có mây, nhưng vẫn tồn tại những khoảng trong xanh, sáng sủa và bình yên. Hai thiếu niên quyết định di chuyển buổi học nhóm thường ngày ở thư viện ra vườn trường.

Cậu có hơi hối hận. Gần đấy, hội bạn thân thiết của Petunia Langdon đang an ủi cô gái tóc vàng nước mắt chảy dài, mặt sưng húp, vẻ sầu não tiều tụy là một sự đối lập nhức mắt nhức tai với hàng hoa dạ yến thảo tím ngắt nở rộ bên cạnh. Underwood và Langdon mới hẹn hò được hơn ba tháng, tuy nhiên Langdon đã trúng tiếng sét ái tình kể từ lần đầu chúng gặp mặt. Nếu như có ai trong quần thể học sinh Lake Forest bị ảnh hưởng nặng nề bởi cái chết của Underwood, bên cạnh đám tay chân của y ra, thì đấy là Langdon.

(Đành rằng Underwood nhà giàu và rất đẹp trai, tóc vàng ngời sáng và đôi môi mỏng nhếch lên quyến rũ, chúng cũng chẳng đáng để hội con gái cứ thế đâm đầu như thiêu thân vào một kẻ có nhân cách tệ hại như vậy.)

Lắng nghe tiếng lòng nỉ non của một trái tim tan vỡ cũng tệ ngang mấy dòng nông cạn rỗng tuếch. Nếu với cái thứ hai cậu chỉ thấy nhàm chán, trường hợp thứ nhất kéo cậu mệt mỏi và kiệt quệ cảm xúc theo.

Theodore, kẻ tuyệt đối tập trung vào xấp bài tập của Hargrave trước mặt và không chút ý niệm gì về những thứ diễn ra tít đầu bên kia trảng cỏ, chỉ điềm nhiên làm toán, tay trái gẩy một chiếc lá vàng khỏi trang giấy. Hiếm lắm mới thấy Edward tự nguyện mở đầu một cuộc nói chuyện như thế này, và hắn không bỏ lỡ thời cơ; và coi như có lý do để đánh lạc hướng mình khỏi việc vắt óc tính căn bậc hai của 10. Mình đoán mình chưa bao giờ đề cập tới việc này với cậu ấy. "Nó không kéo dài quá lâu, và không nhiều hơn là một vài cú xô đẩy và một vài món đồ bị thất lạc. Chúng để tớ yên khi thấy tớ không phải là một mục tiêu thú vị." Một phần cũng vì thấy mình có vẻ thân với Edward nữathằng khốn chưa bao giờ nhận ra sức ảnh hưởng thật sự của mình.

Ồ, ngược lại là đằng khác ấy chứ. Edward Masen nhận thức rất rõ về sức ảnh hưởng của bản thân, về cách những người xung quanh đối xử với mình. Một tên trầm lắng kín đáo như cậu chỉ không muốn gì hơn là được để yên. Cậu và Edward Masen có thể có chung bản tính hướng nội, có chung một bầu không khí phần nhiều u ám bao quanh, có chung thói suy ngẫm quá nhiều và quá trớn hơn cần thiết, cơ mà không có hai cá thể hướng nội nào cũng hành xử giống nhau. Sự khác biệt có thể không nhiều, tuy nhiên Theodore có để ý. Hắn chỉ chưa trực tiếp chất vấn cậu.

Cậu nhịp nhịp gáy cuốn Eureka của Poe lên cằm. Các nhà phê bình văn học có thể ca tụng rằng Nathaniel Hawthorne, Henry James hay Michael Faulkner là những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất nước Mỹ, nhưng Poe sẽ luôn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng cậu. "Cậu luôn bảo rằng tớ không chia sẻ mấy về bản thân, nhưng không phải như cậu có nói gì nhiều về những vấn đề của mình."

Tới đây Theodore không nhịn được mà buộc phải ngẩng đầu lên, mắt tròn xoe ngó cậu như thể cậu vừa mọc thêm một cái đầu thứ hai. Ôi mẹ ơichưa bao giờ mình nghĩ mình sẽ sống tới cái ngày này. "Cậu đang lo lắng cho tớ đấy à?" Edward Masen, Hoàng tử Băng giá, tỏ vẻ quan tâm đến người khác! Hắn không cười bằng miệng, cơ mà đôi mắt hắn lóng lánh, bao nhiêu sửng sốt cũng không giấu được hạnh phúc.

Cậu chỉ dửng dưng trông lại. "Không, tớ đang nói rằng cậu là một tên đạo đức giả." Nói rồi cậu chống tay đẩy người ngồi dậy, co chân trái lên đặt cánh tay trên đầu gối. Cỏ xanh mát rượi dưới bàn tay phải cậu. "Cậu có thể tính gần chính xác căn bậc hai của 10 bằng cách đo đường chéo của hình vuông với cạnh là 10. Tớ nghĩ nó xấp xỉ 3,1."

"Cái gì—sao cậu—tớ cũng có thể nghĩ ra được cái đấy nhé." Làm thế quái nào cậu ấy biết rằng mình đang vướng chỗ đó chứ? Hắn hừ nhẹ một tiếng, nhưng cuối cùng cũng thử làm theo chỉ dẫn của cậu. Nhiều lúc thật sự muốn nổi cáu với thằng này. "Đây có lẽ là lần đầu tiên cậu hoàn thiện bài tập của Hargrave và Westbrook trước tớ."

Bởi với một sinh viên ngành kỹ thuật thế kỷ XXI, chúng rất dễ. "Nếu như cậu muốn xem bài tập của tớ, cứ tự nhiên, tớ không phiền đâu."

"Không cần thiết, cảm ơn nhiều." Căn bậc hai của 10 xấp xỉ 3,16, Theodore cặm cụi ghi vào. Cậu có thể thấy sự chăm chú của hắn có giảm bớt, hắn liếm môi một lần, rồi bắt đầu nhai đi nhai lại môi dưới. Hắn thường làm vậy mỗi khi có gì đấy muốn chia sẻ nhưng không chắc chắn có nên nói thành lời hay không.

Vì phép lịch sự, cậu đã cố chặn lại suy nghĩ của Theodore, thật đấy, nhưng sự kiểm soát năng lực của cậu vẫn dở tệ, và hắn thường có nhiều suy nghĩ, nhiều cảm xúc, và chúng rất mãnh liệt. Những con người trông nghiêm túc cứng nhắc có xu hướng là những kẻ chính trực nhất, sở hữu quan điểm cá nhân mạnh mẽ nhất.

Chỉ cần cậu kiên nhẫn, Theodore tất sẽ tự động đem vấn đề ấy ra. Và hắn đã không để cậu thất vọng.

"Tớ có nghe được một số tin đồn kỳ quặc về Underwood."

Có khi nào y không có tin đồn bám quanh không? Một khi bạn là công tử khét tiếng hư hỏng của một trong những đại gia số một thành phố, bạn làm gì, nói gì, ăn ở ra sao người ta tất khắc sẽ biết liền tức thì. 

Nhưng lúc này, về Underwood, trọng tâm chỉ có một điều duy nhất.

Cái chết của y. Cụ thể hơn, y chết ra sao.

Cậu ngâm nga, những ngón tay trên bìa da chuyển động nhịp nhàng theo khúc dạo đầu của Valse romantique (Edward Masen yêu Debussy, cậu thật sự có thể chơi bất kỳ bản piano nào của Debussy từ trí nhớ). Chú Theodore, Joseph Leveson, là một thanh tra của Sở Cảnh sát Chicago, hắn nghe ngóng được thông tin gì liên quan đến án mạng mà người ngoài không biết cũng chẳng phải quá khó hiểu. Tất nhiên, là một đứa có hứng thú đặc biệt với thể loại True Crime, cậu không thể không tò mò.

"Kỳ quặc thế nào?"

Theodore vân vê cây viết trong tay. "Cậu ta chết vì mất máu—đúng nghĩa luôn." Hắn gõ gõ đuôi bút lên cổ, nơi động mạch chủ bên trái. "Họ tìm được hai lỗ nhỏ trên cổ thi thể, hẳn là thủ phạm đã rút cạn máu cậu ta từ đó."

.

.

.

Cái chết của Adrian Underwood không phải là khởi đầu, chắc chắn cũng không phải kết thúc. Sau Tết Dương lịch chừng ba ngày, họ tìm thấy một cái xác khác trong tình trạng tương tự ở Englewood. Cuối tháng Một, một phụ nữ được tìm thấy phía sau một quán ăn khu vực trung tâm quận Bridgeport. Và đấy là những thi thể được phát hiện, bởi chúng ở những vùng tương đối đông dân cư. Nếu không chung thủ phạm, ít nhất giới thi hành luật pháp có thể rút ra kết luận rằng chúng có liên quan đến nhau.

Bên cạnh nghề chính là bác sĩ ở Lutheran Deaconess, Carlisle cũng là chuyên gia pháp y cho Sở Cảnh sát Chicago—giấc ngủ không cần thiết với ma cà rồng, tốt hơn hết ta nên dành thời gian ấy làm việc có ích cho cộng đồng, ông từng bảo cậu như vậy. Tức là ông, theo một cách nào đấy, chính thức có phần trong quá trình điều tra vụ án mạng hàng loạt.

"Đấy là 'tác phẩm' của ma cà rồng," ông khẳng định những suy đoán của cậu trong một bữa khuya xung quanh thời điểm họ tìm thấy thi thể thứ ba—Holly Wilton, một bồi bàn ở quán ăn nơi cô được tìm thấy, mẹ đơn thân của một bé gái ba tuổi. Cuộc săn hôm ấy cậu quyết định chọn một con gấu đen Mỹ, đem theo dụng cụ cần thiết để hút cạn và lưu trữ máu cho đem về cho Carlisle. Đây là điều tối thiểu cậu có thể làm để giúp đỡ ông sau tất cả những thứ ông đã hy sinh vì cậu. "Ta hình dung rằng tình hình hiện tại cũng gây không ít phiền toái cho quá trình đi săn của mọi người."

"Nhưng để thi thể liên tục xuất hiện trong một khu vực như thế này cũng thật rủi ro," cậu chỉ ra. Trước khi cậu nhận thức được, nói chuyện với Carlisle đã trở nên dễ dàng và tự nhiên như nói chuyện với cha đẻ cậu (không phải Edward Masen Sr., cha đẻ thực sự của cậu kia—cậu không phủ nhận một trong những điều cậu nhớ nhất khi đi du học, và sau này là khi đã tái sinh và chấp nhận rằng nó là một đi không trở lại, là những cuộc tranh luận giữa bố con cậu). Ông có lẽ là người duy nhất khiến cậu mở miệng nhiều như thế này. "Miễn bàn đến chuyện gì có thể xảy ra với những người như chúng ta, điều cuối cùng Chicago cần bây giờ là một H.H.Holmes thứ hai."

Carlisle ngâm nga. Phân tích không tồi đâu. "Con nói không sai." Đặt cái ly mới vơi một nửa xuống, ông ngả người ra sau, đan tay vào nhau. "Theo con, mình nên xử lý ra sao?"

Câu trả lời quá hiển nhiên. "Việc đầu tiên là tìm chân tướng 'thủ phạm', rồi tính xem mình nên làm gì tiếp từ đó." Cậu và Carlisle không phải là ma cà rồng duy nhất hiện đang cư trú tại Chicago, ấy là một trong những thứ đầu tiên ông tiết lộ với cậu. Cậu có thể hiểu sự hấp dẫn của một địa điểm với mật độ dân cư cao—người ta sẽ không đặt quá nhiều câu hỏi phải chăng có một người vô gia cư, một tên tội phạm hạng hai hay một ả gái điếm mất tích. Tuy nhiên dịch bệnh không chỉ khiến việc "săn mồi" khó khăn hơn, nó cũng làm nhân dân có ý thức rõ rệt hơn về mạng người. "Dựa vào sự thiếu tổ chức của hành động—" dễ rút ra được qua số lượng và vị trí tử thi, cũng như tình trạng hiện trường, "—rất có khả năng đây là một ma cà rồng mới sinh." Một nhịp ngừng. "Và theo kiến thức của con, con là kẻ được biến đổi gần đây nhất trong khu vực."

Nói cách khác, cậu là nghi phạm chính.

Cha nuôi cậu cũng ít nhất cũng đã nghiệm ra được chừng ấy. Rằng tình hình hiện tại không mấy khả quan cho cậu—và người đã biến đổi cậu, có trách nhiệm giám sát cậu, và quyết định để cậu tái hòa nhập vào xã hội chỉ trong vòng chưa đầy bốn tháng kể từ thời điểm biến đổi.

Cậu thở ra, hai mắt nhắm nghiền. Cậu không chắc cậu muốn nhìn trực tiếp biểu cảm trên mặt ông lúc này. "Con xin lỗi, Carlisle."

"Con có gì mà phải xin lỗi." Ông lại bắt đầu dùng nó, cái giọng êm ái nhẹ nhàng như nhung lụa đầy nhân từ và cảm thông ấy, và cậu cho phép bản thân mở mắt trở lại. Nụ cười của Carlisle có phần gượng gạo và mệt mỏi, tuy nhiên không thiếu phần trìu mến, và trên hết, tin tưởng tuyệt đối. Cứu sống Edward có thể là vì ước niệm cuối đời của bà mẹ, nhưng thằng bé thật sự là một đứa trẻ đáng yêu. "Con có bằng chứng ngoại phạm rõ ràng ở vụ thứ hai, và con thừa thông minh để thấy rằng không nên chọn kẻ nào mình quen biết." Ông nhìn thẳng vào mắt cậu. "Bản thân mắt con đã là đủ bằng chứng cho sự vô tội rồi."

Cậu rất cảm kích với sự tín nhiệm của Carlisle, thật đấy; nhưng sự hàm ơn không đủ để ngăn cậu bắn cho ông một ánh mắt dài sắc lẻm. Sự nhân ái là vũ khí lợi hại nhất của ông, cơ mà cậu lo có ngày nó cũng là thứ giết chết ông. "Không phải ai cũng sẽ có cùng quan điểm với chú. Đặc biệt là kẻ nào có thứ phải giấu giếm hoặc cần người để đổ tội."

Carlisle không phủ nhận ý kiến của cậu. Cậu bắt được một thứ gì đấy còn đáng quan ngại hơn kiệt sức. Thành thật mà nói, đây là lần đầu tiên cậu thấy ông thể hiện rõ sự bất an tới nhường này—hoặc là do cậu đã quen với năng lực siêu nhiên của mình hơn, kiểm soát nó tốt hơn thành thử ra cũng nhạy bén hơn, nhất là trước những thay đổi tiêu cực. "Ta đoán nhiều khi minh bạch quá cũng không tốt."

"Đâu phải như chú giấu con được điều gì." Cậu gõ nhẹ một cái chỗ thái dương. Tuy nhiên cậu không phải là đối tượng trong lời nói của ông. "Họ có thể cho rằng đấy là lỗi của con, cơ mà đối tượng tấn công chính của họ vẫn là chú."

"Thật vậy," ông miễn cưỡng thừa nhận. Ta tự hỏi giữ con bên mình như thế này có ổn không, khi nó cũng đẩy con vào nguy hiểm. Tay lên day day trán, ông bảo, "Ta sẽ cố gắng thu xếp mọi chuyện êm thấm càng sớm càng tốt."

Cậu đưa tay lên chặn lại, lắc đầu. "Không. Vụ này để con giúp." Nói đoạn cậu hơi nghiêng người về phía trước. Ông chưa uống thêm một ngụm máu nào kể từ khi cuộc bàn bạc khó chịu này bắt đầu. Cậu chưa tiếp xúc nhiều với những kẻ khác giống mình ngoại trừ Carlisle để đưa ra được nhận định chính xác, nhưng ngay cả một ma cà rồng mới sinh như cậu cũng có thể thấy rằng sự tự chủ và khả năng kìm nén cơn khát của ông thật sự phi thường. Sức mạnh của lòng trắc ẩn, hẳn là vậy. "Chú phải gánh vác một mình quá nhiều thứ rồi. Và nó cũng có ít nhiều liên quan đến con nữa, ăn không ngồi rồi thật không phải chút nào."

Kể cả năng lực đọc tâm cũng không thể giải thích thỏa đáng được những cảm xúc và suy nghĩ của Carlisle lúc này, ngạc nhiên thuần túy xen lẫn thương yêu tột độ và phảng phất buồn rầu tội lỗi. Như thể một người cha bất chợt nhận ra con mình đã trưởng thành, đã lớn khôn, đủ mạnh mẽ và đáng tin cậy để không những tự bảo vệ được bản thân, mà còn có thể bảo vệ được cha nó.

Cuối cùng, ông chịu chiều lòng cậu—tất nhiên là không phải không có điều kiện. "Đừng quá mạo hiểm, Edward."

Nhưng với cậu nhiêu đó là đủ. "Chú biết con sẽ không làm gì nếu không có chuẩn bị trước mà."

Mặc cho tất cả, đôi mắt ông trông vẫn dịu dàng đến mức trái tim chết chóc lạnh lẽo của cậu phải nhói đau.

.

.

.

Một trong những vấn đề cậu chưa bao giờ thực sự để tâm nhưng khi mắc phải mới nhận ra rằng, bỏ cha nó, đúng là khó chịu thật, là vai trò của năng lực siêu thính trong việc biểu diễn và cảm thụ âm nhạc.

Edward Masen không có khả năng cảm âm tuyệt đối; đằng nào Elizabeth cũng dạy cậu chơi bằng cảm nhận và trái tim, vừa chơi vừa lắng nghe và điều chỉnh hơn là chăm chú gõ đúng từng nốt và ngắt nghỉ đúng nhịp. Cậu chắc chắn không phải thần đồng âm nhạc, không phải nhạc sĩ xuất chúng, nhưng cậu nghĩ cậu đủ giỏi, đủ tinh nhạy để nhận ra những bất hòa âm điệu nhỏ nhặt mà người thường khó thấy.

Bây giờ, với thính lực mạnh mẽ sắc bén gấp bội, những tiểu tiết ấy cũng được phóng đại gấp bội theo—tai cậu bắt được từng nốt nhạc lệch cao độ chỉ vài hertz, từng nhịp nhanh hoặc chậm hơn vài mili-giây, và cảm nhận chuẩn xác quá trớn này thật sự, thật sự nhức nhối. Với một kẻ đã từng không thật sự quá khắt khe mảng nhạc lý hay phần khoa học hơn của âm nhạc, tháng đầu tiên cậu mới chơi nhạc lại kể từ khi biến đổi đúng là một cực hình.

Cơ mà, nếu cậu quá ngần ngại và lười nhác để chỉ những lỗi sai đó ra, đã có kẻ khác thường xuyên làm việc ấy thay cậu. Kể cả khi hành động ấy đồng nghĩa với việc đột ngột ngắt ngang buổi luyện tập.

"Nốt Fa anh vừa chơi nghe giống Fa thăng hơn Fa tự nhiên."

Người bị nhắc nhở ngớ ra một lúc, chớp chớp mắt mấy cái để hoàn hồn lại và bắt đầu nhăn trán đảo lại trí nhớ. "Thế hả?"

Đấy vẫn chưa phải là tất cả. "Cộng với anh vào chậm hơn so với mọi người một phần mười nhịp nữa."

"Chú mày đùa đấy à?" Một phần mười nhịp! Làm thế quái nào nó nghe được mình vào chậm một-phần-mười nhịp cơ chứ?

Giáo viên âm nhạc của chúng, thầy Baldwin, thở ra một tiếng dài thật dài, lắc đầu ngao ngán. Lại nữa rồi. "Bình tĩnh lại nào, các cậu." Tông giọng nghiêm nghị đanh thép của ông như lưỡi dao cắt đôi căng thẳng đang dần đóng cục giữa hai nghệ sĩ vĩ cầm trong bộ tứ. Đẩy lại kính, ông ném cho người đã khởi xướng bất đồng một ánh mắt rất ư không hài lòng. "Chi li quá mức như vậy là không cần thiết, cậu Webster."

Webster để tóc dài ngang vai như hai tấm rèm gần như che kín mặt nên đọc vị cậu bé qua biểu cảm bình thường sẽ hơi khó, nhưng cách tay nó bắt đầu miết qua miết lại cái nhẫn bạc khắc tinh xảo, được lồng qua một sợi dây chuyền đeo cổ, là thừa đủ thể hiện sự bồn chồn hậm hực. "Em xin lỗi, thưa thầy. Chỉ là—nó khiến tai em khó chịu đến mức em không thể bỏ qua được."

Arrington, vĩ cầm thứ hai, kẻ vừa bị soi mói chỉ trích, cố tình khịt mũi một cái rõ to, kéo dài giọng rất ngứa tai. "Ờ, phải đấy."

Không như cậu—và những người xung quanh—Webster là một thần đồng âm nhạc đích thực và thật sự có khả năng cảm âm tuyệt đối. Cậu bé là một thiếu niên thấp nhỏ hom hem, cặp kính cận đen dày cộp trên sống mũi và hiếm khi nào nhìn thẳng được vào mắt người khác, tuy nhiên đặc biệt siêu đẳng trong khoản chỉ ra những lỗi sai trong quá trình chơi nhạc, và dạo gần đây, vì một lý do nào đấy, cậu bé có khắt khe và nhỏ mọn hơn hẳn. Cậu có thể không thích Arrington, bởi gã là một tên kệch cỡm khoác lác, cơ mà chì chiết gã liên tục như vậy cũng không hay ho cho lắm.

Montgomery, tay đại hồ cầm của nhóm, trông như muốn dịch chuyển tới bất cứ một chỗ nào khác không phải là phòng nhạc họ đang xài lúc này—cậu hoàn toàn hiểu—và không kín đáo mấy, bắn cho cậu một cái nhìn van lơn, xin anh, khiến họ dừng lại đi, em muốn tập nốt cho xong. Montgomery và Webster thuộc khối Mười Một, tức là hậu bối của cậu và Arrington; đồng nghĩa với việc người duy nhất có khả năng—và thẩm quyền—xen ngang dập tắt bất đồng giữa Arrington và Webster, bên cạnh Baldwin ra, là cậu.

Tin cậu đi, cậu cũng muốn tập nốt cho xong. Hơn nữa, cậu khá thích bản Piano Quartet này của Dvořák, cậu muốn bộ tứ bọn họ thể hiện nó một cách tốt nhất.

"Không hề gì. Tụi này sẽ để ý hơn, đúng không, Arrington?" cậu nói, giọng êm đềm ngọt xớt như kem tươi; đoạn quay qua Arrington và nở một nụ cười ngọt ngào khé cổ không kém. Arrington nhăn mặt đầy khinh bỉ và làm một vài âm thanh làu bàu gì đấy trong cổ họng nghe không rõ, nhưng cuối cùng không phản đối gì thêm, đặt cây vĩ cầm trở lại lên vai. Webster cắn môi, gật đầu vài cái cứng nhắc. Cậu quay qua Baldwin, "Chúng em bắt đầu lại từ đầu, hay từ phần II là ổn ạ?"

Baldwin chỉ đơn thuần bằng lòng rằng chúng không ăn tươi nuốt sống nhau thêm nữa. Ông ngồi lại xuống ghế, bắt chân chữ ngũ, tay đan vào nhau. "Phần II là được rồi."

Trước khi bắt đầu lại, cậu liếc qua một lượt bộ dây, chắc chắn rằng mọi người đã sẵn sàng. Cậu hy vọng rằng sự run rẩy của Webster là do bất an đến từ cuộc (suýt) tranh lộn vừa rồi, không phải là dấu hiệu sớm của một chứng rối loạn thần kinh nào đấy. Sẽ thật đáng tiếc nếu một tài năng như Webster buộc phải dành nốt phần đời còn lại trong bệnh viện.

.

.

.

Có người bám đuôi cậu.

Cậu cảm thấy sự hiện diện lạ lẫm này ngay khi bước chân khỏi cổng trường, chào tạm biệt Theodore—rồi rồi, mai tớ sẽ đem trả sách cho cậu, hứa đấy—và vẫy một chiếc taxi yêu cầu chở cậu tới trung tâm Bridgeport. Cậu không tin cậu có thể đào bới được gì nhiều ở hai hiện trường đầu tiên, xét thời điểm án xảy ra cũng đã lâu, tuy nhiên thi thể Holly Wilton vẫn còn nằm trong nhà xác, cảnh sát vẫn đang điều tra và phong tỏa hiện trường, cậu nghĩ cậu có thể lẻn vào.

Sau mấy tháng vật lộn khổ sở, cuối cùng cậu cũng tìm ra được mẹo để tâm trí và cảm quan bớt quá tải trước quá nhiều kích thích, bằng cách tập trung vào một đối tượng nhất định—chẳng hạn như người đang trực tiếp nói chuyện với mình, như tài xế của cậu, một người đàn ông tuổi ngũ tuần với cái mũi khoằm tên Lowell, nguyên quán Pittsburgh dựa vào cách nguyên âm đôi của ông nghe như biến thành một nguyên âm dài, một người xởi lởi và đôn hậu và không gì khiến ông tự hào hơn là cô con gái độc nhất hiện đang học tại Đại học Pennsylvania. 

Một phương án khác—và thú thực là lựa chọn thường xuyên hơn của cậu—là sàng lọc cái nồi thập cẩm hổ lốn xem có thứ gì bất thường, hoặc tệ hơn, có nguy cơ gây hại.

Cậu không rõ những ma cà rồng khác phân biệt đồng loại ra sao, nhưng với cậu, nó là sự thiếu vắng của nhịp tim và hơi thở, những thao tác uyển chuyển linh hoạt hầu như không chút tiếng động, một khoảng lặng giữa cái thế giới quá ồn ào. Bên ngoài có thể yên lặng, cơ mà tâm trí thì hiếm khi, và khi cậu lần theo những dấu lặng ấy, chúng kết nối cậu tới hai dòng suy nghĩ tương đồng về chủ đề—về cậu.

Khi taxi tới khu quảng trường, cậu rời khỏi xe, boa cho tài xế một khoản hậu hĩnh—ông có vẻ như là một người tốt, và ông xứng đáng được đền bù khi chấp nhận chở một sinh vật bất tử thừa sức cắn đứt đầu ông trong nháy mắt với hai sinh vật bất tử tương tự theo đuôi—và giữ vẻ thản nhiên nhất có thể, bước tiếp, tay đút túi áo. Họ sẽ đi theo.

Cắt đuôi là vô ích, thế nên cậu sẽ cho họ cái họ muốn.

Làm một vài ngã rẽ tùy hứng, cậu tiến sâu hơn vào mạng lưới ngõ hẻm eo hẹp, trước khi dừng chân ở một lối cụt, một bức tường xám xịt lừng lững nơi phía sau một khu căn hộ tập thể dành cho tầng lớp lao động. Có ba con gấu mèo đang lục lọi trong một cái thùng rác, thấy có người tới thì vội lủi đi mất xuống một ô cống thoát nước. Cậu lấy chân gạt nắp cống đóng lại trong lúc chờ hai người đồng hành ngoài ý muốn.

Nhưng họ vẫn không lộ mặt, ngay cả khi cuối cùng cũng nhận ra là mục tiêu đã để ý tới sự hiện diện của họ từ đời tám hoánh nào, và cậu dẫn họ tới đây là hoàn toàn có chủ đích. Cậu thở dài, chưa quay lại vội, đầu hướng lên cái cửa sổ cao nhất.

"Tôi biết là hai người ở đó," cậu lớn giọng gọi, ngọt ngào du dương và có chút khiêu khích.

Một khoảng lặng, rồi có tiếng thịch của hai thực thể đáp đất từ một độ cao tương đối, kéo theo tiếng sột soạt của vải vóc và tiếng đế giày trên nền lối đi lát đá phiến gồ ghề.

"Mi sắc sảo phết đấy, nhóc con." Một tông thâm trầm vang lên, kéo dài phần uể oải và ngạo mạn, nhưng ấy vẫn là một lời khen thực sự, gã đúng là có chút ấn tượng. "Không hổ danh học sinh của Stregone benefico."

Chỉ có một hội nhóm gọi bác sĩ Carlisle Cullen là Stregone benefico.

Đến giờ cậu mới quay người đối diện trực tiếp với hai kẻ bám đuôi, khóe miệng kéo lên thành một nụ cười cân xứng hoàn hảo. Cậu không làm gì sai, không việc gì phải lo sợ. "Hai quý ngài của Volturi, thật hân hạnh, cho dù tôi ước gì hoàn cảnh tái ngộ của chúng ta khả dĩ hơn."

Hồi bữa tiệc đầu năm của Sauveterre, cậu đã có cảm tưởng vẻ đồ sộ lực lưỡng của Felix Volturi, mặc cho phong thái đào hoa phóng túng, có gì đấy lạc lõng giữa sự xa hoa quý phái của yến tiệc thượng lưu, không như người cộng sự Demitri và thượng cấp của họ Marcus, hai kẻ thừa thanh lịch vương giả để hòa nhập vào khung cảnh dễ dàng. Cảm nhận của cậu không sai—giữa con hẻm eo hẹp, tăm tối và ẩm ướt, gã sừng sững như một bức bình phong choán hết lối thoát của cậu, con mắt đỏ ngầu khát máu hung bạo, áo choàng đen khoác ngoài thâm hiểm đúng phong cách lính cận chiến tài giỏi nhất gia tộc Volturi hoàng gia.

Mặc kệ quân số hay năng lực, lọt vào tầm ngắm của nhà Volturi nói chung cũng đã đủ tệ rồi.

"Nào nào, Felix." Demitri bước mấy bước lên trước, lời nói êm ái hướng đến cộng sự nhưng ánh mắt vẫn không rời khỏi cậu. Mắt thằng bé màu vàng. Vô lý. Chân mày hắn hơi chau lại. Đúng là theo quy định thì phải xử lý đối tượng ngay tại chỗ, tuy nhiên chuyện này có gì đấy thiếu sót. "Chúng ta chỉ muốn hỏi chuyện cậu bé dăm ba câu thôi."

Felix, kẻ hẳn đã mong đợi một cuộc hành quyết nhanh chóng gọn ghẽ, không mấy hạnh phúc gì cho lắm. Tuy nhiên gã cũng chịu rút bớt bầu không khí hăm dọa muốn ăn tươi nuốt sống đối phương xuống chút đỉnh.

Cậu thầm thở phào nhẹ nhõm. Ít nhất có một nhân vật đủ bình tĩnh và lý trí để cậu có thể đàm phán được.

Lời tới đây thì đúng là Demitri nhắm đến cậu.

"Ta tin cậu hiểu tại sao nhà Volturi lại tìm cậu," hắn bảo, rất nhã nhặn, mở cho cậu cơ hội tự bào chữa bản thân.

"Vâng." Cậu gật đầu một cái chắc nịch. "Có một ma cà rồng mới sinh đang đi săn bừa bãi trong khu vực, và người dân đã bắt đầu để ý." Cậu bỏ tay khỏi túi áo đưa lên phía trước, cho thấy sự vô hại của mình. "Hẳn hai anh đã thấy, tôi không có liên quan."

Demitri vẫn tiếp tục bài kiểm tra—không phải vì sự vô can, bởi hắn thừa biết, mà là một thứ khác hẳn. "Và vì cớ gì bọn ta nên tin cậu?"

Được rồi, cậu cũng có thể chơi trò này. "Mắt tôi." Ngón trỏ chạm nhẹ bọng mắt phải. Họ không thể phủ nhận được nó; thế nên họ vẫn đang nói chuyện và không xông vào giật đầu cậu lìa khỏi cổ ngay giây phút cậu có một mình. "Thực tế, tôi cũng đang điều tra vụ này."

Đôi môi tái nhợt mím lại. Nó không có ý định trốn tránh hay chống đối. Cậu tiếp tục nhìn thẳng vào mắt hắn, đầy bất khuất. Cho đến khi sự hiếu kỳ muốn nhổ cỏ tận gốc khiến hắn mềm lòng chiều theo. Cứ thử nghe—mình luôn luôn có thể kết liễu thằng bé bất cứ lúc nào. "Cậu biết được những gì rồi?"

"Không nhiều," cậu thừa nhận. "Dựa vào vị trí các thi thể được phát hiện, tôi có thể đoán được thủ phạm cư ngụ đâu đấy khu vực giáp ranh vùng Nam và Tây Nam—khả năng cao là Fuller Park hoặc phía nam New City. Tôi đã hy vọng mình sẽ tìm được manh mối gì đấy ở hiện trường Bridgeport." Cho đến khi hai anh bám theo buộc tôi phải dừng lại cố mua thêm thì giờ để hai anh không xử tử tôi ngay tức thì. Cậu đã xém chết một lần, trở lại cuộc sống chưa nổi nửa năm, cậu vẫn còn nhiều thứ muốn làm, cảm ơn nhiều.

Cậu không nghĩ tới việc Demitri thật sự cân nhắc kỹ lưỡng đề xuất của cậu. "Fuller Park hoặc phía nam New City à," hắn lẩm bẩm. Khu vực Chicago và lân cận có thể có nhiều kẻ lai vãng, nhưng định cư lâu dài chỉ có nhà Sauveterre và Stregone benefico. Ngoại trừ Edward Masen, không có nhiều thay đổi trong thời gian qua—chí ít là theo những gì mình biết. Stregone benefico quá nhân từ, quá cẩn thận để mắc phải một sai lầm ngớ ngẩn như thế này. Mắt hắn lại đảo một lượt cậu từ đầu chí cuối nữa. Và thằng bé không có vẻ gì là đang nói dối, thậm chí sự bình thản giữa bể mồi của nó còn hơn đa số ma cà rồng lâu năm.

Cậu cần phải đưa thêm lý do chứng tỏ sự hữu dụng hơn nữa, rằng tôi-là-một-trong-những-công-cụ-tốt-nhất-mấy-người-có-thể-có-để-tìm-được-nguồn-gốc-sâu-hại. "Tôi là người Chicago chính gốc, sinh ra và lớn lên tại đây. Tôi biết thành phố này và người dân của nó. Nếu thủ phạm là người Chicago, tôi có thể tìm ra hắn."

Demitri nhướng mày. Ra vậy. Thằng bé đã tính giải quyết lấy, mặc kệ có can thiệp bên ngoài hay không, và giờ đang sử dụng nó để thương lượng kéo dài bản án. Chung quy lại, kế hoạch của cả hai phe thực chất không có gì thay đổi. Khóe môi hắn cong lên, thích thú nhiều hơn độc địa. "Đấy là một khẳng định táo bạo đấy, cậu Masen."

Cậu thản nhiên nhún vai. "Tin hay không tùy hai anh. Dù là lựa chọn nào đi chăng nữa, nhà Volturi cũng chẳng thiệt thòi mất mát gì."

"Ta sẽ nói là tốn thì giờ." Felix tuyên bố, mắt nheo lại thành hai khe hẹp. Cái bóng 6'7" khổng lồ của gã đổ trùm xuống cậu. Cậu là một ma cà rồng, cơ mà cậu cũng là một thiếu niên gầy nhỏm. Cảnh tượng này không khác gì hai tên đầu gấu trấn lột tiền một đứa trẻ. "Làm sao bọn ta biết được mi không phải đang cố câu giờ tẩu thoát?"

Chẳng phải đấy là câu hỏi triệu đô. Đúng là cậu muốn sống và muốn câu giờ thật. "Nếu vậy giờ này tôi đã chạy đến Alaska và không đứng đây tám chuyện với hai anh," cậu nói, rồi thở ra, không hẳn là một cái thở dài cam chịu nhưng cũng rất gần. "Hai anh có thể tiếp tục bám theo tôi trong thời gian tới nếu thấy cần thiết. Tôi không có gì phải giấu cả."

Hắn lại ngắm nghía cậu thêm một hồi lâu, vẫn không chắc chắn nên đánh giá cậu ra sao, hay có đáng "tốn thì giờ" cố đánh giá cậu chính xác không. Cậu biết hắn sẽ không xử cậu luôn, phần vì không như Felix, hắn không khoái giết người vô tội vạ. Biết được điều đó cũng không khiến khoảng lặng bớt ngột ngạt căng thẳng hơn chút nào hết, và cậu cắn má trong để trấn tĩnh bản thân lại. Cậu đã đi xa tới mức này rồi cơ mà.

Thế rồi, "Một tháng, cậu Masen," Demitri nói. Cậu lén trút một tiếng thở dài nhẹ nhõm, trong khi Felix quay ngoắt đầu qua cộng sự, trợn mắt chòng chọc, chú nghiêm túc tạm tha cho thằng nhãi con này đấy à, nhưng hắn không để tâm, tiếp tục ra điều khoản với cậu cho xong đã. "Ta tin nhiêu ấy là thừa đủ để cậu chứng tỏ bản thân." Ánh mắt hắn sắc lạnh đầy hứa hẹn về một kết cục không mấy dễ chịu và cậu thiếu điều suýt nữa nuốt khan và phá hỏng mất vẻ ngoài ngoan cố. "Đừng để ta phải hối hận về quyết định ngày hôm nay."

.

.

.

Matt vẫn thường nhắc nhở anh rằng cắn móng tay là thói quen xấu, và anh nghĩ anh đã bỏ được một thời gian dài, nhưng dạo gần đây, với tất cả sự bất an và lo sợ dồn dập như một cốc nước đầy ắp sắp tràn, anh bắt đầu cắn chúng trong vô thức.

Sao anh không sợ được? Chuyện này xảy ra một phần cũng là bởi sự bất cẩn và ích kỷ của anh. Người thực hiện quá trình biến đổi chịu trách nhiệm cho hành vi của cá thể mới sinh và việc giảng dạy luật lệ trước khi có thể được thả tự do. Nếu cá thể mới sinh săn mồi bất cẩn và bị phát hiện, cả hai sẽ đều bị xử tử.

Nói cách khác, án tử hình là tất yếu một khi nhà Volturi tìm ra được họ.

Thôi không đi đi lại lại trong phòng nữa, anh ngồi xuống giường, tay chống trán, day day chút xoa dịu bớt lo âu. Anh cần phải bình tĩnh. Vẫn còn thời gian, anh tự nhủ. Volturi đang đuổi theo bác sĩ Cullen và ma cà rồng mới sinh của ông ta, nếu nhanh chóng họ vẫn có thể trốn thoát được.

Còn nước còn tát. Cúi xuống lôi cái hộp nhỏ ra khỏi gầm giường, anh kiểm tra lại số tiền đã tích lũy được, cũng được kha khá. Anh sẽ gặp Matt, và họ sẽ cuốn gói khỏi nơi này càng sớm càng tốt.

.

.

.

note

H.H.Holmes là một sát nhân hàng loạt ở Illinois trong khoảng 1886-1893. Hắn thú nhận đã sát hại 27 người, nhưng có phỏng đoán cho rằng con số thực tế lên đến 200. Nạn nhân của hắn bị sát hại ở một tòa nhà đa chức năng thuộc quyền sở hữu của Holmes ở Chicago ("The Murder Castle").

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com