Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

ưu và nhuợc

TTCK dưới tác động của chính sách tiền tệ

Các NHTM cổ phần dưới áp lực cam kết với cổ đông các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận, có thể khiến cả hệ thống vượt quá mốc tăng trưởng tín dụng đề ra.

Mục tiêu tối thượng của chính sách tiền tệ (CSTT) là đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững (chứ không phải là điều tiết ổn định TTCK), song các động thái của chính sách này có tác động rất lớn đến TTCK.

Thông thường, có 3 trạng thái của CSTT là nới lỏng (trạng thái 1), trung tính (trạng thái 2) và thắt chặt (trạng thái 3). Một cách giản lược, có thể hiểu trạng thái trung tính của CSTT được áp dụng khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định ở mức tiềm năng với lạm phát trong tầm kiểm soát.

Trạng thái nới lỏng được áp dụng khi kinh tế tăng trưởng dưới mức tiềm năng. Trạng thái thắt chặt được áp dụng khi nền kinh tế có biểu hiện tăng trưởng nóng trên mức tiềm năng với áp lực lạm phát cao.

Điều chỉnh CSTT theo hướng nới lỏng (chuyển từ trạng thái 3 sang 2 hoặc 2 sang 1 hoặc tăng mức độ của trạng thái 1) sẽ có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế và kết quả kinh doanh của các công ty, qua đó tác động tích cực tới TTCK và ngược lại.

Các thành viên tham gia thị trường thường cố gắng dự báo định hướng CSTT của ngân hàng trung ương (NHTW) để đoán định việc thay đổi các trạng thái của CSTT dựa vào đánh giá về thực trạng và triển vọng tăng trưởng GDP và lạm phát của nền kinh tế của NHTW.

Tại các nước phát triển, có rất nhiều đánh giá khác nhau về thực trạng và triển vọng của nền kinh tế, nhưng bao giờ đánh giá kinh tế của NHTW cũng được thị trường lắng nghe nhất, dù những phân tích và đánh giá này không phải lúc nào cũng sát thực (điển hình là trong điều kiện kinh tế có nhiều biến động vừa qua, FED trong đầu năm 2008 vẫn dự báo rằng, hồi phục kinh tế sẽ đến vào cuối năm khi các bất ổn của thị trường tài chính gắn với tín dụng dưới chuẩn bùng phát từ tháng 8/2007 được kiềm chế).

Sở dĩ được quan tâm vì những đánh giá này là kim chỉ nam để thị trường dự báo về những động thái về CSTT trong tương lai, từ đó có phản ứng phù hợp. Vì thị trường luôn dự báo khá sát sao động thái CSTT dựa trên sự trao đổi thông tin chính thức (với cơ chế thông tin đại chúng minh bạch, đều đặn) và không chính thức với NHTW để điều chỉnh tương thích (phản ánh vào giá chứng khoán dần dần), nên chỉ những điều chỉnh CSTT có tính bất ngờ mới làm thị trường phản ứng mạnh.

Nghiên cứu của Bernanke (năm 2003) về TTCK Mỹ trong giai đoạn 5/1989 - 9/2002 cho thấy, sau quyết định nới lỏng bất ngờ của FED thông qua giảm 25 điểm cơ bản lãi suất chủ đạo đã làm các chỉ số chứng khoán chủ chốt ngay sau đó tăng 0,75 - 1,25%.

Mức phản ứng của TTCK càng lớn khi việc điều chỉnh trạng thái chính sách được thị trường đánh giá là lâu dài chứ không phải là tạm thời.

Song lưu ý là tác động của thắt chặt và nới lỏng CSTT với TTCK có thể có một chiều khác với chiều tác dụng ở trên. Khi định hướng chính sách là nới lỏng đồng thời hàm ý với đánh giá không tích cực của NHTW về triển vọng tăng trưởng, qua đó có tác dụng tiêu cực với TTCK và ngược lại, khi định hướng thắt chặt áp dụng đồng nghĩa với việc NHTW đánh giá lạc quan về triển vọng tăng trưởng kéo theo tác dụng tích cực với TTCK.

Trở lại với TTCK Việt Nam, tác động của CSTT có thể còn mạnh hơn do liên quan đến mức tăng trưởng tín dụng nói chung và dòng tín dụng chảy vào TTCK nói riêng, vì CSTT của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam còn tác động trực tiếp lên điều kiện chặt chẽ hoặc dễ dãi trong hoạt động cho vay của NHTM. Chúng ta có thể thấy rõ tác động của điều chỉnh CSTT từ năm 2006 đến nay.

Việc NHNN công bố điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng tín dụng xuống mức 27% trong năm 2009 và giảm mức lãi suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 3,6% xuống 1,2% gần đây là một động thái điều chỉnh CSTT tương đối bất ngờ trong điều kiện tăng trưởng kinh tế rõ ràng còn rất nhiều thách thức, do đó có tác dụng rõ rệt với TTCK trong 2 - 3 tuần qua.

CSTT có thể được xem là đang chuyển động theo hướng giảm bớt mức độ nới lỏng, tức là đang theo hướng thắt chặt một cách tương đối NHNN có thể lo ngại về chất lượng của tăng trưởng tín dụng nóng hơn mức cần thiết, thay vì tự tin có thể dễ dàng đạt được mức tăng trưởng GDP mục tiêu 5% trong năm nay.

Thêm vào đó, mức tăng trưởng vẫn đang dưới mức tiềm năng nên trạng thái CSTT có thể vẫn ở điều kiện nới lỏng, song định hướng CSTT thì rõ ràng đã ở không gian thắt chặt.

Vì tính ràng buộc của mục tiêu tăng trưởng tín dụng 27% không hoàn toàn chặt chẽ, đặc biệt là khi các NHTM cổ phần dưới áp lực cam kết với cổ đông các chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng và lợi nhuận, có thể khiến cả hệ thống vượt quá mốc đề ra.

Bởi khối này hiện chiếm tới gần 50% thị phần tín dụng lại luôn có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn đáng kể so với mức trung bình trong nhiều năm qua khiến có cơ sở để dự báo rằng, NHNN sẽ sử dụng công cụ sẵn có trong tay của mình như dự trữ bắt buộc, tín phiếu hoặc thị trường mở.

Song trạng thái nới lỏng nhất định của CSTT vẫn có thể được duy trì trong vài tháng tới trước khi chuyển hẳn sang trạng thái trung tính.

CSTT chú trọng vào chất lượng tín dụng có tác động tốt cho TTCK trong trung và dài hạn, với tác động trực tiếp là hạn chế dòng tiền đầu cơ để thị trường có những điều chỉnh cần thiết cho sự phát triển dài hạn.

Theo Nguyễn Thanh Hà - Trưởng bộ phận phân tích kinh tế, SSI

ĐTCK

Chính sách tiền tệ của FED ảnh hưởng lớn đến Việt Nam

Thứ sáu, ngày 04 tháng 4 năm 2008 - 10:44 AM

(E-City) - Trong một bài viết khác chúng ta đã so sánh sự khác biệt giữa chính sách tiền tệ của Việt Nam và Mỹ. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận rằng, tuy có sự khác biệt nhưng chính sách tiền tệ của Mỹ ảnh hưởng vô cùng lớn đến nền kinh tế Việt Nam.

Nói đến chính sách tiền tệ của Trung Quốc, người ta nghĩ ngay đến chính sách tỷ giá hối đoái; còn nhắc đến Mỹ người ta không thể không đề cập đến việc duy trì sự mạnh yếu của đồng đô la.

Mãi cho đến gần đây, sau khi FED cắt giảm 0,75% lãi suất thay vì 1% như đườc vọng, giá trị của đồng đô la mới nhích lên chút ít. Nhưng nhìn chung, so với thời kì hoàng kim của nó đồng tiền này đã xuống giá nghiêm trọng.

Việc FED duy trì đồng đô la yếu để thúc đẩy xuất khẩu Mỹ, tránh cho đất nước hùng mạnh này rơi vào khủng hoảng đã tác động sâu sắc đến Việt Nam theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.

1. Những ảnh hưởng tích cực

Lợi về tỷ giá nhưng giá dầu vẫn tăng nhanh

Về mặt tích cực, chúng ta có thể kể đến những lợi ích mà chính sách này đem lại cho nhập khẩu và nợ nước ngoài của Việt Nam.

Thứ nhất, đồng đô la yếu khiến cho đồng tiền Việt Nam lên giá tương đối. Điều này đồng nghĩa với việc các món hàng nhập khẩu tính bằng đô la khi quy đổi ra tiền Việt sẽ rẻ hơn. Tuy nhiên điều này chỉ đúng nếu các món hàng đó có giá tính bằng đô la Mĩ không đổi so với trước kia. Trong thực tế, hầu hết hàng hóa nhập khẩu đều đã tăng giá đô la, cho nên khi đôi sang tiền đồng, chúng ta chẳng những được lợi mà còn thiệt nhiều hơn.

Xăng dầu là ví dụ điển hình, khi mà giá dầu tăng lên đến 110 đô la một thùng thay vì 100 đô la như trước kia, thì việc nhập khẩu khó lòng được lợi tỷ giá, vì tỷ giá của chúng ta hầu như không thay đổi là mấy. Trong khi đó chính sách đồng đô la yếu của FED đẩy giá hàng hóa tính bằng đồng tiền xanh này tăng nhanh vùn vụt.

Thứ hai, đồng đô la yếu làm lợi cho các khoản nợ nước ngoài tính bằng đô la của Việt Nam. Giả sử như chính sách của FED khiến cho tỉ giá USD/VND tăng từ 1/16000 lên 1/15.500 thì một khoản nợ nước ngoài trị giá 1 tỉ đô la của Việt Nam sẽ chỉ còn tương đơng với 15,5 tỉ đồng chứ không phải 16 tỉ đồng nữa.

Thế nhưng trên thực tế tỷ giá không tăng mạnh đến vậy. Vả lại, có thể thấy rằng, khi đồng đô la yếu đi so với các đồng tiền mạnh khác như Euro, Yên Nhật thì đồng tiền Việt Nam cũng mất giá theo vì tỷ giá của tiền đồng được gắn với đô la. Do đó các khoản nợ nước ngoài tính bằng các ngoại tệ nay sẽ tăng lên đáng kể. Đem khoản đựoc và khoản mất cộng lại với nhau, ai dám chắc chúng ta được lợi?

Nhưng rõ ràng, dù xét cả cái lợi lý thuyết lẫn cái "chưa chắc được lợi" trong thực tế, chúng ta đều thấy rằng chính sách đồng đô la của FED ảnh hưởng quá rõ ràng tới Việt Nam.

2. Những ảnh hưởng tiêu cực

Xuất khẩu của Việt Nam gặp khó khăn vì đồng đô la suy yếu

Về mặt hại, chính sách của FED làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự cân bằng của nền kinh tế Việt Nam.

Ảnh hưởng lớn nhất của đồng đô la yếu là đối với tình trạng lạm phát của Việt Nam. Khi FED không ngừng cắt giảm lãi suất làm đồng tiền này mất giá liên tục, các nhà đầu tư Mĩ sẽ chuyển vốn ra thị trường tiền tệ thế giới, trong đó có Việt Nam. Chính điều này là một nguyên nhân lớn khiến luồng đô la chảy vào Việt Nam tăng mạnh, trong khi chúng ta lúng túng không biết xử lý như thế nào. Thay vì nới rộng biên độ, chúng ta lại tăng cung tiền để mua vào số lượng đô la khổng lồ. Điều này tất yếu gây ra lạm phát.

Hơn nữa, trong số vốn đô la được quy đổi này, một phần lớn đổ vào thị trường chứng khoán - một thị trường có tính bong bóng cao và không đem lại nhiều hiệu quả. Số vốn ứ đọng trong thị trường này đến nay vẫn là vấn đề hết sức nan giải đối với nước ta.

Thứ hai, việc đồng đô la bị kìm giữ ở mức thấp khiến cho người dân không còn mặn mà với đồng tiền này nữa mà đua nhau đổi ra tiền đồng hoặc vàng. Vậy là tình trạng khan hiếm tiền đồng xảy ra. Thêm vào đó việc Việt Nam thắt chặt tiền tệ khiến cho tiền Việt Nam càng thêm đắt đỏ. Lãi suất huy động và cho vay không thể không tăng cao như chúng ta đã chứng kiến.

Riêng về thị trường vàng, đã có một thời kì cơn sốt vàng đẩy giá của kim khí quý này lên 2,3 triệu đồng. Đó cũng là thời điểm đồng đô la rất yếu và nhu cầu mua vàng tích trữ thay đô la trong nước tăng cao đến đỉnh điểm.

Thứ ba, không thể không kể đến những tác hại mà chính sách đồng đô la yếu gây ra với ngành xuất khẩu Việt Nam, mà cụ thể là xuất khẩu sang Mỹ. Việc người dân Mỹ thắt chặt chi tiêu thực chất không phải là nguyên nhân chính, vì các sản phẩm của Việt Nam xuất sang hầu hết là hàng hóa thiết yếu như giày dép, dệt may, thực phẩm. Tuy nhiên, các nhà xuất khẩu vẫn điêu đứng vì nhiều lý do.

Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thu được tiền về, khi quy đổi thì bị thiệt hại vì tỷ giá. Khi vay để xuất khẩu, các họ "trót" vay tiền Việt khi đồng tiền này còn rẻ. Nhưng khi thu được tiền về, đồng tiền trong nước đã lên giá, khiến cho lượng VND mà họ quy đổi được nhỏ hơn số VND họ đã vay. Chẳng những không lãi mà thậm chí còn chịu lỗ. Như thế, ai còn đủ can đảm vay vốn xuất khẩu?

Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp khi thu đô la về còn không thể quy đổi để tiếp tục đầu tư vì các Ngân hàng "chê" tiền đô. Vậy là, họ lại phải vay vốn VND để tái sản xuất, dù "trong tay sẵn có đồng tiền". Nên nhớ, vay vốn VND không phải là chuyện dễ dàng, vì lãi suất cao mà lượng vốn sẵn có của các Ngân hàng thương mại lại hạn chế.

Vậy là chỉ một chinh sách tiền tệ của Mĩ ở bên kia bán cầu cũng khiến nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn. Vậy khi đồng đô la khởi sắc thì sao?

3. Hi vọng mong manh

Chủ tịch FED tuyên bố nguy cơ suy thoái của Mỹ

Gần đây đồng đô la đã lấy lại chút ít sức mạnh, tạo cảm giác an tâm cho các Ngân hàng, doanh nghiệp Việt Nam.

Đã có bài phân tích các doang nghiệp "thở phào" khi đồng đô la lên giá. Điều đó hoàn toàn dễ hiểu, chỉ cần lật ngược lại những gì chúng ta phân tích ở trên. Tuy nhiên, phải nói rằng, sự lên giá của đô la là rất, vậy mà nó đã đủ sức trấn an mảng xuất khẩu của chúng ta, đủ thấy sức ảnh hưởng của đồng tiền này lớn đến mức nào.

Giá vàng trong nước cũng giảm xuống cùng thế giới khi đồng đô la lên giá. Hiện tượng tích trữ đô la xuất hiện trở lại. Nhu cầu về vốn USD tăng khiến cho các Ngân hàng bớt "ghẻ lạnh" đồng tiền này.

Đây rõ ràng là dấu hiệu tốt. Thế nhưng liệu nó sẽ kéo dài được bao lâu?

Hôm qua, thứ tư 2/4, chủ tịch FED, ông Bernanke đã tuyên bố nền kinh tế Mĩ có thể lâm vào suy thoái trong năm 2008. Những chính sách làm yếu đồng đô la có thể vẫn được tiếp tục đê cứu đồng đô la Mĩ. Vậy là những hi vọng vừa được thắp lên ở Việt Nam liệu sẽ giữ được bao lâu? Đây là câu hỏi cần có thời gian mới trả lời được.

4. Kết luận

Một nền kinh tế nhỏ hội nhập kinh tế Quốc tế không thể tránh khỏi những tác động mà thế giới mang lại. Trong khi đó một nền kinh tế khổng lồ như Mĩ lại ảnh hưởng quá sâu rộng đến bên ngoài. Việc chính sách đồng đô la của FED ảnh hưởng đến Việt Nam là tất yếu. Trong hoàn cảnh hiện nay, việc nâng cao tính tự chủ là điều cần thiết. Chỉ có như thế chúng ta mới trụ được trong thời kỳ khó khăn này.

Khương Duy

Tín dụng là phương thức huy động vốn quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường. Vì vậy sử dụng có hiệu quả phương thức này sẽ góp phần giải quyết nhu cầu vốn đang là vấn đề cấp thiết cho sản xuất và đầu tư phát triển.

Hiện nay, tại Việt Nam xuất hiện nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Tuy nhiên, có 3 hình thức tín dụng chủ yếu là:

- Tín dụng Ngân hàng

- Tín dụng Thương mại

- Thuê tài chính

a. Tín dụng Ngân hàng

o Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong đó ngân hàng vừa đóng vai trò người đi vay ( nhận tiền gửi của các chủ thể khác trong nền kinh tế hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi : kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn), vừa đóng vai trò người cho vay ( cấp tín dụng cho các chủ thể khác trong nền kinh tế bằng việc thiếp lập các hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ...).

Tín dụng ngân hàng là loại hình tín dụng chủ yếu và phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường. Từ các đặc điểm của tín dụng ngân hàng có thể thấy được tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân.

o Các đặc điểm của tín dụng ngân hàng gồm:

- Chủ thế tham gia : một bên là ngân hàng, một bên là các chủ thể khác trong nền kinh tế như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân...

- Đối tượng : chủ yếu là tiền tệ, có khi là tài sản.

- Thời hạn : rất linh hoạt bao gồm ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.

- Công cụ : cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng, các hợp đồng tín dụng...

- Tính chất : là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong đó ngân hàng là trung gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất kinh danh hoặc tiêu dùng.

- Mục đích : nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng qua đó thu được lợi nhuận.

o Ưu, nhược điểm của hình thức này:

- Ưu điểm:

+ Về chủ thể: Rất linh hoạt, rộng lớn bao gồm: doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức xã hội,...Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng vừa là người cho vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp, cá nhân.

+ Do là nguồn vốn huy động của xã hội với khối lượng và thời hạn khác nhau, do đó nó có thể thoả mãn các nhu cầu vốn đa dạng về khối lượng cũng như thời hạn và mục đích sử dụng. Nó không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ vật tư hàng hoá, trang trải các chi phí sản xuất và thanh toán các khoản nợ, mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản và đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tín dụng tiêu dùng cá nhân.

+ Có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp vốn cho nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì những doanh nghiệp này chưa có đủ điều kiện để tham gia vào thị trường vốn trực tiếp.

+ Góp phần đẩy nhanh nhịp độ tích tụ, tập trung vốn và tăng cường khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.

+ Còn được sử dụng như là một công cụ quan trọng để phát triển các ngành kinh tế chiến lược theo yêu cầu của chính phủ.

+ Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng, việc thắt chặt hay nới lỏng cung tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến tình hình nền kinh tế.

- Nhược điểm:

+ Thủ tục cấp vốn cho vay còn chậm, rườm rà. mất nhiều thời gian và công sức của người đi vay.

+ Thông tin về tài chính của cá nhân, doanh nghiệp, của ngân hàng không được thông suốt và cập nhật, khối lượng thông tin chưa được đầy đủ, cho nên chưa đáp ứng được tốt nhu cầu thông tin của các bên để đánh giá, thẩm định khoản vay và kiểm soát chất lượng tín dụng còn hạn chế.

+ Việc quản lý không tốt năng lực trả nợ của người vay có thể dẫn tới tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi. Tình hình nợ xấu của các doanh nghiệp cổ phần có chiều hướng gia tăng trong những năm gần đây (tỷ lệ nợ xấu năm 2003: 1,77%, năm 2004: 2,13%, năm 2005: 7,72%, tháng 5 năm 2006: 6,51%)

b. Tín dụng thương mại

o Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Để thanh toán hoặc đòi tiền lẫn nhau, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ như hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ hay séc... Những loại giấy tờ này, nếu còn giá trị, đều có thể chuyển nhượng lại.

Mua bán chịu hàng hoá là hình thức tín dụng, vì:

- Người bán chuyển giao cho người mua để sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định.

- Đến thời hạn được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.

Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là GIẤY NỢ - một dạng đặc biệt của khế ước dân sự xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ của người mua. GIẤY NỢ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), với 2 loại: hối phiếu và lệnh phiếu.

Hối phiếu là một thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi món nợ đáo hạn. Người hưởng thụ có thể là người phát hành, cũng có thể là thứ ba.

Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết trả một số tiền nợ nhất định khi đến hạn cho chủ nợ.

Về hình thức, thương phiếu được chia ra ba loại:

- Thương phiếu vô danh, không ghi tên người thụ hưởng

- Thương phiếu ký danh; có ghi tên người thụ hưởng

- Thương phiếu định danh, có ghi tên như thương phiếu ký danh nhưng không chuyển nhượng cho người khác.

o Ưu nhược điểm của tín dụng thương mại:

- Ưu điểm :

+ Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình.

+ Sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

+ Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.

+ Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu.

- Nhược điểm :

+ Tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất ¬¬¬định - những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ sản xuất hoặc bán ra.

+ Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau.

+ Tín dụng thương mại do các doanh nghiệp trực tiếp sản xuất kinh doanh cung cấp, vì vậy qui mô tín dụng chỉ được giới hạn trong khả năng vốn hàng hoá mà họ có. Nếu doanh nghiệp vay vốn có nhu cầu cao hơn thì doanh nghiệp cho vay không thể đáp ứng được.

+ Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.

+ Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.

c. Thuê tài chính

o Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng giữa bên thuê và bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê. (Điều 1- Nghị định 16)

Trong một giao dịch thuê, về pháp lý, bên cho thuê có quyền sở hữu tài sản, bên thuê không có quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng tài sản trong thời gian thuê.

Có nhiều lý do khiến việc lựa chọn hình thức thuê tài sản ngày càng trở nên phổ biến, trong đó lý do chủ yếu là lợi ích có thể mang lại từ việc thuê tài sản. Cụ thể:

+ Đối với bên thuê: khi mua một tài sản, người sử dụng phải đối đầu với rủi ro do sự lạc hậu của tài sản. Thuê là một cách để giảm hoặc tránh rủi ro này, bên cho thuê (chủ sở hữu tài sản) sẽ phải gánh chịu rủi ro về sự lạc hậu của tài sản. Với các hợp đồng thuê tài sản huỷ ngang, bên thuê có thể thay đổi tài sản một cách dễ dàng hơn so với việc sở hữu tài sản. Bên thuê cũng được hưởng một khoản lợi từ thuế so với việc vay để mua hoặc mua trả chậm, vì chi phí thuê (gồm khấu hao và lãi) được tính toàn bộ vào chi phí trước khi xác định lợi nhuận chịu thuế, vì vậy chi phí thực tế mà bên thuê chịu là chi phí thuê sau khi khấu trừ phần giảm thuế. Trong khi đó, nếu đi vay để mua hoặc mua trả chậm, thuế chỉ được tính giảm trên chi phí lãi, phần nợ gốc không được khấu trừ thuế. Ngoài ra, khi thuê tài sản, bên thuê sẽ có được tài sản sử dụng trong điều kiện hạn hẹp về ngân quỹ, không có tiền để mua tài sản hoặc không có vốn đối ứng cho các hợp đồng vay để mua tài sản; Hoặc khi công ty có tài sản cố định nhưng thiếu tiền để mua nguyên vật liệu, thanh toán lương, ... thì cũng có thể thực hiện giao dịch "Bán rồi thuê lại".

+ Đối với bên cho thuê: trong suốt thời hạn cho thuê, bên cho thuê vẫn có quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản, do đó bên cho thuê có quyền lấy lại tài sản nếu xét thấy bên thuê có biểu hiện vi phạm hợp đồng. Mặt khác, trong trường hợp bên thuê lâm vào tình trạng phá sản thì tài sản thuê vẫn không bị phát mãi mà vẫn bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp của bên cho thuê đối với tài sản này.

o Ưu nhược điểm của hình thức tín dụng này:

- Ưu điểm :

+ Cho thuê tài chính cho phép bạn sử dụng linh hoạt đồng vốn của mình vào mục đích khác, nhằm mang lại lợi ích nhiều hơn thay vì phải đầu tư vốn để mua tài sản cố định, giúp bạn tận dụng được cơ hội kinh doanh.

+ Sử dụng cho thuê tài chính sẽ không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp đi vay vốn ngân hàng.

+ Cho thuê tài chính có phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt phù hợp với chu chuyển vốn của doanh nghiệp.

+ Phí thuê tài chính được hạch toán vào giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước.

+ Sử dụng tài sản thuê không nhất thiết phải có tài sản thế chấp.

+ Cho thuê tài chính giúp bạn có nhiều cơ hội chủ động trong lựa chọn thiết bị, dễ dàng đổi mới công nghệ, tiếp cận và sử dụng những máy móc, thiết bị hiện đại nhất.., từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh.

- Nhược điểm :

Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, sau 11 năm có mặt, thị trường cho thuê tài chính Việt Nam chỉ có 12 công ty được thành lập dưới các hình thức sở hữu khác nhau.

Vốn điều lệ trung bình của một doanh nghiệp cho thuê tài chính là 150 tỉ đồng - rất nhỏ so với vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại (thường là trên 1.000 tỉ đồng). Và hiện có nhiều doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả.

Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì:

+ Doanh nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu.

Theo một cuộc khảo sát ngẫu nhiên mới đây đối với 1.000 doanh nghiệp thuộc các thành phần khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp được hỏi trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ tìm hiểu, sử dụng dịch vụ cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn không biết về dịch vụ này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài chính như hoạt động mua trả góp, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ bản chất cấp tín dụng của dịch vụ cho thuê tài chính, chưa thấy rõ được hiệu quả, lợi ích từ dịch vụ cho thuê tài chính mang lại...

+ Giá cho thuê (gồm tiền trích khấu hao tài sản thuê, phí, bảo hiểm...) hiện nay còn cao. Nếu bỏ qua các yếu tố an toàn, chi phí bỏ ra ban đầu thấp... thì cho đến hết thời hạn thanh lý hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê sẽ phải thanh toán tổng số tiền đối với tài sản thuê cao hơn so với đi vay từ các nguồn khác như ngân hàng.

Như vậy, nếu tính ra lãi suất thì lãi suất thuê tài chính cao hơn lãi suất vay ngân hàng, bởi vì lãi suất thuê tài chính còn phải cộng thêm các chi phí về lắp đặt, vận hành, bảo hiểm... của bên cho thuê phải bỏ ra.

+ Hành lang pháp lý về cho thuê tài chính chưa hoàn thiện đồng bộ, nhiều quy định cần phải được luật hóa. Các quy định về sở hữu, về tổ chức, hoạt động, vốn điều lệ... trong các văn bản còn nhiều vấn đề phải bàn.

Ví dụ như quy định về vốn điều lệ là 50 tỉ đồng đối với công ty trong nước và 5 triệu USD đối với công ty nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp. Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật khi quy định về cho thuê tài chính đã không phân định triệt để các khái niệm liên quan đến sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuê trong các giai đoạn của quá trình cho thuê tài chính, giá trị cho thuê tối đa... gây cản trở đối với hoạt động cho thuê tài chính

Ngày gửi: 13/05/2009 - 10:42

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #gevish