[Văn 9] Kiều ở lầu Ngưng Bích
[Ngữ văn][lớp 9] Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
1. Vị trí đoạn trích: đoạn trích nằm ở phần thứ hai ( Gia biến và lưu lạc). Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh,Kiêiu uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa hẹn chờ nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới.
2. Hoàn cảnh tội nghiệp của Kiều ( 6 câu thơ đầu): Sáu câu thơ đầu miêu tả cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên rất đẹp nhưng nhuốm màu sầu não, một không gian mênh mang buồn tủi. Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Những dáy núi mờ xa, những cồn cát mịt mù gió cuốn, không một bóng người. Hình ảnh "non xa, trăng gần, cát vàng, bụi hồng" có thể là cảnh vừa thực vừa mang tính ước lệ, gợi sự mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp của không gian, diễn tả tâm trạng cô đơn, thân phận trơ trợi của Kiều. Hai chữ "khóa xuân" cho thấy Kiều ở lầu Ngưng Bích thực chất là đang bị giam lỏng. Hoàn cảnh của Kiều là hoàn cảnh cô đơn, cay đắng xót xa, tâm trạng trống vắng, rợn ngợp. Cụm từ "mây sớm, đèn khuya" gợi thời gian tuần hoàn khép kín như cùng không gian giam lỏng con người. Sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều chỉ biết bầu bạn với mây với đèn, với trăng với núi. Kiều cô đơn tuyệt đối và cảm thấy xấu hổ, bẽ bàng. Cảnh vừa đối lập vừa hòa hợp với hoàn cảnh khiến tâm can Kiều như bị chia xé "Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Đây là một bức tranh thiên nhiên được chấm phá bằng những nét tài hoa để làm nổi bật tâm trạng. Đó là cảm hứng thẩm mỹ của những câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc này.
3. Tâm trạng của Kiều ( 8 câu cuối) : Tám câu cuối vừa là cảnh vừa là nỗi buồn của Kiều phủ lên cảnh vật. Nỗi buồn trào dâng, lan tỏa vào thiên nhiên như từng đợt sóng. Điệp ngữ liên hoàn "buồn trông" mở đầu câu thơ 6 chữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng à điẹp khúc của tâm trạng, diễn tả nỗi buồn chồng chất trong lòng Kiều. Từ láy "thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm" giàu sức biểu cảm, cho thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình độc đáo, vừa gợi cảnh vật sinh động, vừa biểu lộ tâm trạng Kiều. Cánh buồm thấp thoáng nơi cửa bể chiều hôm gợi nỗi bơ vơ, nỗi buồn tha hương, nỗi nhớ quê nhà da diết. Cánh hoa trôi man mác là nỗi cô đơn, buồn cho thân phận lênh đênh vô định. Nội cỏ rầu rầu, chân mây mặt đất một màu xanh xanh gợi nỗi lo lắng trước cuộc sống hiện tại vô vị, tẻ nhạt, tương lai mịt mờ, bế tắc. Tiếng sóng ầm ầm kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng khiến Kiều bàng hoàng, lo sợ trước dông bão cuộc đời. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ. Đoạn thơ thành công với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.
******************
Thêm: Giá trị Truyện Kiều.
1. Giá trị nội dung: Truyện Kiều có hai giá trị lớn về nội dung là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
a/ Giá trị hiện thực:
_Phản ánh hiện thực xã hội đương thời, một xã hội bất công tàn bạo với giai cấp thống trị độc ác.
_Hiện thực về sức mạnh đồng tiền và số phận những người bị áp bức, nạn nhân của thế lực đồng tiền, đặc biệt là những người phụ nữ.
b/Giá trị nhân đạo:
_Thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước những đau khổ của con người, đặc biệt là phụ nữ.
_Lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo, xấu xa, chà đạp lên mạng sống con người.
_Đề cao tự do và công lý.
_Tôn trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp đến nhân phẩm, tài năng và khát vọng, ước mơ tình yêu chân chính.
2. Giá trị nghệ thuật:
_Về ngôn ngữ và thể loại: với truyện Kiều, ngôn ngữ dân tộc đã đạt đến trình đọ điêu luyện, thể thơ lục bát đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ.
_Về nghệ thuật tự sự: truyện Kiều là mẫu mực trên các phương diện: nghệ thuật dẫn truyện, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, tả cảnh ngụ tình, nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật và miêu tả tâm lí con người
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com