Vụ Bí Ẩn Người Tiền Sử Lang Thang - Hanh_Moon
Hitchcock
Vụ Bí Ẩn Người Tiền Sử Lang Thang
Dịch giả: Đài Lan
Chương 1
NGƯỜI LẠ TRONG SƯƠNG MÙ
C
- hú có sao không? Một giọng nữ hỏi.
Hannibal Jones đứng yên, lắng nghe.
Buổi chiều dày đặc sương mù. Sương mù làm nghẹt tiếng ồn do xe cộ lưu thông trên đường cao tốc bờ biển Thái Bình Dương. Sương mù treo lơ lửng như một tấm màn giữa Thiên Đường Đồ cổ và ngôi nhà phía bên kia đường. Sương mù như áp vào Hannibal. Bỗng nhiên Hannibal có cảm giác lạnh lẽo cô đơn, như thể mình là người độc nhất trên thế gian này.
Nhưng có người vừa mới nói chuyện, rồi bây giờ lại có tiếng chân bước nữa. Bên ngoài, ngay phía sau cổng kho bãi đồ linh tinh, có người đang bước đi.
Tiếng một người đàn ông nói chuyện, sau đó hai người xuất hiện, di chuyển như hình bóng trong ánh sáng xám xám. Người đàn ông cong người lại, khi ông bước, chân ông gây những tiếng động chậm rãi lê lết trên đường nhựa
Người phụ nữ trông như cô gái, mảnh khảnh, tóc vàng dài phủ xuống mặt.
- Có băng ghế kìa, - cô nói rồi hướng dẫn người đàn ông đến ngồi gần văn phòng. Chú nghỉ một chút đi. Lẽ ra chú phải để cháu lái. Chú làm quá sức.
- Cháu giúp gì được không ạ? Hannibal bước lại gần hai người.
Người đàn ông đưa một bàn tay lên đầu, nhìn xung quanh với vẻ mặt ngạc nhiên.
- Chúng tôi tìm... tìm...
Người đàn ông chụp lấy bàn tay cô gái.
- Cô nói đi, ông nói, cô hãy tìm ra chỗ mà... chỗ mà ta...
- Đường Harborview, cô gái nói với Hannibal. Chúng tôi cần đi đến đường Harborview.
- Ở cuối đường cao tốc, qua khỏi Sunset, Hannibal nói. Này, chú đang bệnh, để em gọi bác sĩ...
- Không! Người đàn ông la lên. Bây giờ thì không! Chúng tôi đang bị trễ!
Hannibal cúi xuống người đàn ông, nhìn thấy gương mặt xám xịt, sáng bóng mồ hôi.
- Mệt! Người đàn ông nói. Mệt quá!
Ông ấn hai tay vào trán.
- Nhức đầu quá! Giọng ông có vẻ lo sợ. Lạ thật! Tôi chưa bao giờ bị nhức đầu!
- Để cháu gọi bác sĩ nhé! Hannibal năn nỉ.
Người lạ đứng dậy.
- Một chút nữa sẽ ổn thôi mà, nhưng bây giờ thì tôi không thể... không thể...
Ông lại ngồi sụp trở xuống bên hông văn phòng, nhịp thở hổn hển khàn khàn. Rồi mặt ông nhăn nhó quằn quại.
- Đau quá! ông nói.
Hannibal cầm một bàn tay của người đàn ông. Da thịt ông lạnh ngất ẩm ướt. Người đàn ông nhìn Hannibal, mắt trân trân không chớp.
Đột nhiên kho bãi đồ linh tinh vô cùng yên lặng.
Cô gái cúi xuống chạm vào người đàn ông. Cô thốt lên một tiếng như tiếng rên đau đớn.
Có tiếng chân bước rất nhanh trên lề đường. Thím Mathilda của Hannibal bước qua cổng. Thím nhìn thấy người đàn ông ngồi trên băng và cô gái đang cúi xuống ông.
Thím thấy Hannibal đang quỳ ngay trước mặt ông.
- Hannibal, có chuyện gì vậy? Thím Mathilda hỏi. Có sao không? Có cần phải gọi cấp cứu không?
- Dạ có, Hannibal nói. Thím... thím gọi cấp cứu đi. Nhưng cháu nghĩ sẽ không ích lợi gì. Dường như ông ấy tắt thở rồi!
Sau đó, Hannibal chỉ còn nhớ là có đèn sáng và tiếng còi hụ hỗn loạn, người người hấp tấp trong sương mù. Cô gái tóc vàng khóc lóc trong vòng tay của thím Mathilda. Người ta xúm lại đông đảo trước cổng kho bãi đồ linh tinh, rồi có bầu im lặng khủng khiếp khi băng ca được đưa vào xe cứu thương. Rồi lại có tiếng còi hụ. Hannibal và thím Mathilda cũng lấy xe đi đến bệnh viện, cô gái tóc vàng ngồi giữa hai thím cháu.
Hannibal cảm thấy như đang đi trong mơ, một giấc mơ xám xám ảo ảo.
Nhưng bệnh viện thì rất thật. Có hành lang nơi mọi người chạy lăng xăng. Có phòng chờ ngập tràn khói thuốc lá. Hannibal, thím Mathilda và cô gái tóc vàng ngồi lật những quyển tạp chí cũ xì. Sau một hồi lâu, rất lâu, thì bác sĩ đến.
- Rất tiếc, bác sĩ nói với cô gái. Chúng tôi không làm được gì. Đôi khi... đôi khi như vậy là hay hơn. Cô là người thân phải không?
Cô gái lắc đầu.
- Sẽ có giải phẫu pháp y, - bác sĩ nói. Tôi xin chia buồn. Giải phẫu pháp y là bình thường trong các trường hợp người ta chết mà không có bác sĩ. Có lẽ là tai biến mạch máu não. Cuộc giải phẫu sẽ cho ta biết chắc chắn. Cô có biết làm thế nào để liên lạc được với gia đình không?
Cô gái lại lắc đầu.
- Dạ không. Tôi phải gọi điện thoại về cho hội.
Cô gái bắt đầu khóc nức nở. Một cô y tá đến dẫn cô gái đi. Hannibal và thím Mathilda chờ. Sau một hồi lâu, cô gái trở về. Cô đã gọi điện thoại từ văn phòng y tá trưởng.
- Người của hội sẽ đến, - cô gái nói với Hannibal và thím Mathilda.
Hannibal thắc mắc không biết đó là hội gì, nhưng không hỏi. Thím Mathilda thông báo rằng mọi người cần một tách trà đậm. Thím nắm cánh tay cô gái, lôi ra khỏi phòng chờ, đi qua một hành lang đến căng tin của bệnh viện.
Suốt một hồi, cả ba ngồi uống trà không nói gì. Nhưng cuối cùng cô gái mở miệng.
- Chú ấy tử tế lắm, cô gái nói.
Cô gái tiếp tục nói nhỏ, nhìn chằm chằm xuống hai bàn tay thô kệch có móng bị cắn lởm chởm. Người đàn ông chết là tiến sĩ Karl Birkensteen, nhà di truyền học danh tiếng. Ông làm việc ở Hội Spicer, nghiên cứu nhiều loại động vật về tác động của thí nghiệm đối với trí thông minh của chúng, và của con cái chúng. Cô gái cũng làm việc tại đó, giúp chăm sóc thú vật.
- Em có nghe nói đến Hội Spicer, - Hannibal nói. ở cuối bờ biển, đúng không? Gần San Diego, đúng không?
- Một thành phố nhỏ xíu trên đồi, cô gái gật đầu nói, trên con đường đi qua sa mạc.
- Thành phố tên là Citrus Grove, Hannibal nói.
Lần đầu tiên cô gái mỉm cười.
- Đúng. Dễ thương quá. Ý tôi nói là rất ít người biết đến Citrus Grove. Mà cho dù có nghe đến hội, thì thường người ta cũng không biết tên thành phố.
- Hannibal đọc nhiều sách báo lắm, thím Mathilda nói, và thường cháu nhớ tất cả những gì đã đọc. Nhưng tôi thì không biết thành phố lẫn hội. Hội gì vậy?
- Đó là một cơ quan khuyến khích các cuộc nghiên cứu khoa học độc lập, Hannibal nói.
Hannibal đột nhiên ra vẻ như thầy giáo ở trường giảng thuyết về một chủ đề ít được biết đến. Hannibal thường hay có kiểu cách như thế khi trình bày về các đề tài mà cậu rất rành. Thím Mathilda đã quen với cung cách này và có vẻ như không chú ý đến, nhưng cô gái ngạc nhiên nhìn chằm chằm Hannibal.
- Abraham Spicer là nhà chế tạo đồ nhựa, Hannibal nói. Công ty của ông sản xuất những món đồ như rá để chén dĩa và hộp đựng thức ăn. Khi sinh thời, ông ấy đã kiếm được hàng triệu. Tuy nhiên ông không bao giờ thực hiện được hoài bão thật sự, là trở thành nhà vật lý học. Nên ông đã chỉ thị rằng sau khi ông mất, tiền của ông phải đưa vào một quỹ ủy thác. Lợi tức từ quỹ này sẽ hỗ trợ một hội nơi các nhà khoa học có thể tiến hành nghiên cứu độc lập, có thể là có tính chất cách mạng, trong các lĩnh vực đặc biệt của riêng mình.
- Em luôn ăn nói như thế à? Cô gái hỏi.
Thím Mathilda mỉm cười.
- Quả thường là như thế. Có lẽ là do đọc sách báo nhiều quá.
- Ồ, cô gái kêu. Cũng hay. Cháu chưa nói tên mình phải không? Cháu tên là Hess. Eleanor Hess. Nhưng cũng không quan trọng gì.
- Có chứ, thím Mathilda nói.
- Dạ, ý cháu nói là cháu không phải là ai quan trọng cả. Cháu không nổi tiếng, hay gì cả.
- Nhưng như thế cũng không có nghĩa rằng cô không phải là ai cả, thím Mathilda cương quyết nói. Rất vui được làm quen với cô, Eleanor Hess à. Tôi là bà Titus Jones, còn đây là cháu tôi, Hannibal Jones.
Eleanor Hess mỉm cười, rồi nhanh chóng nhìn đi chỗ khác, như thể sợ để lộ quá nhiều về chính mình.
- Cô hãy kể nhiều hơn về công việc của cô ở cái Hội Spicer kia, thím Mathilda nói. Cô chăm sóc cho thú vật, những loại thú vật gì?
- Thú vật thí nghiệm, Eleanor đáp. Chuột bạch, khỉ và một con ngựa.
- Một con ngựa à? thím Mathilda lập lại. Trong phòng thí nghiệm có một con ngựa nữa à?
- Dạ không. Blaze sống trong chuồng ngựa. Blaze là một con ngựa cái, nhưng nó vẫn là một con vật thí nghiệm. Tiến sĩ Birkensteen đã dùng chất đồng vị đối với mẹ của nó, khiến nhiễm sắc thể của nó bị ảnh hưởng. Cháu không hiểu gì nhiều, nhưng nó là một con ngựa rất thông minh. Nó biết làm toán.
Cả thím Mathilda lẫn Hannibal trợn mắt lên.
- Ồ, không phải là gì phức tạp cả, Eleanor vội nói thêm. Nếu đặt hai quả táo trước mặt nó, rồi cho thêm ba quả nữa, thì nó biết là có năm quả táo. Nó giậm chân năm lần. Có lẽ... có lẽ cũng không phải là gì ghê gớm lắm, nhưng thường ngựa không thông minh đến thế. Mấy chú khỉ của tiến sĩ Birkensteen là khôn nhất. Chúng biết nói chuyện bằng ngôn ngữ dấu hiệu. Chúng biết nói những điều khá phức tạp.
- Hiểu rồi, thím Mathilda nói. Thế tiến sĩ Karl Birkensteen định làm gì với mấy con vật kia, sau khi dạy dỗ chúng đàng hoàng?
- Cháu không nghĩ chú ấy sẽ làm gì cả, Eleanor nhẹ nhàng nói. Chú ấy không quan tâm đến những con ngựa thông minh và những chú khỉ biết nói. Chú ấy muốn giúp cho con người trở nên thông minh hơn. Nhưng phải bắt đầu từ động vật? Không nên bắt đầu thí nghiệm với em bé người, đúng không?
Thím Mathilda rùng mình.
Eleanor nhìn đi chỗ khác, rút vào cái vỏ rụt rè.
- Cô và em không cần phải ở lại với cháu, Eleanor nói. Cô và em Hannibal đã giúp cháu rất nhiều, nhưng bây giờ cháu ổn rồi. Tiến sĩ Terreano và bà Collinwood sắp đến rồi, họ sẽ nói chuyện với bác sĩ rồi... rồi...
Cô gái cúi đầu xuống, nước mắt lại giàn giụa.
- Kìa, thím Mathilda bình tĩnh nói. Chúng tôi sẽ ở lại mà.
Thế là hai thím cháu ở lại cho đến khi một người đàn ông cao gầy, tóc bạc bước vào phòng bán cà phê. Eleanor giới thiệu ông là tiến sĩ Terreano. Ông đi cùng một người phụ nữ lục tuần, mập tròn, đeo lông mi giả rất dày và đội bộ tóc giả xoăn tít hung đỏ. Bà là Collinwood, bà lôi Eleanor ra xe trong khi tiến sĩ Terreano đi tìm người bác sĩ chăm sóc tiến sĩ Karl Birkensteen.
Thím Mathilda lắc đầu khi chỉ còn lại một mình với Hannibal.
- Người gì mà lạ lùng! Thím nói. Thử tưởng tượng xem, làm những việc gì đó với thú vật để con cái nó bị thay đổi. Còn cái tay Terreano vừa mới vào, cháu nghĩ ông ấy làm những gì?
- Chắc là nghiên cứu gì đó, nếu đúng ông ấy thuộc Hội Spicer, Hannibal trả lời.
Thím Mathilda chau mày.
- Người gì mà lạ lùng! Thím nói lại. Còn cái hội đó nữa, thím không bao giờ muốn đến đó làm gì. Một khi mấy nhà khoa học kia bắt đầu tò mò, thọc thử cái này cái kia, làm thay đổi lung tung, thì chắc sẽ không bao giờ ngưng tay. Như vậy là chống lại tự nhiên! Những điều kinh khủng sẽ xảy ra!
Chương 2
ÁC Ý!
T
ối hôm đó, thím Mathilda kể lại với chú Titus về nhà khoa học đã đến từ sương mù rồi chết trong kho bãi đồ linh tinh. Thím nói rất ít về Hội Spicer, nhưng khi Hannibal đề cập đến chỗ đó, thím nhanh chóng chuyển sang đề tài khác. Ý nghĩ về thí nghiệm di truyền rõ ràng làm thím lo sợ. Nhưng thím không được cơ may quên đi hẳn Hội Spicer, bởi vì khi những ngày xuân trời xám xịt lạnh lẽo trôi qua, cơ quan nghiên cứu khoa học lại được lên báo rất thường xuyên.
Thứ nhất là những bài tường thuật về cái chết của tiến sĩ Karl Birkensteen. Đúng như bác sĩ ở bệnh viện đã nghĩ, Birkensteen chết vì chứng đột quị. Có những bài vắn tắt về công trình nghiên cứu di truyền học của ông, rồi bài báo kết luận với thông tin rằng thi thể tiến sĩ sẽ được chở lên miền Đông để chôn cất.
Chưa đầy một tuần sau, Hội Spicer lại dính đến một phát hiện sửng sốt. Dân làm báo lại đổ xô đến thành phố nhỏ Citrus Grove để tường thuật về sự kiện. Một nhà khảo cổ học tên là James Brandon, một khoa học gia sống thường trực tại hội để làm việc, đã phát hiện xương của một sinh thể tiền sử trong một hang động ngoại ô thành phố.
- Một vụ bí ẩn tuyệt vời! Hannibal thốt lên.
Đang là buổi chiều tháng Năm. Hannibal, Bob và Peter đang ở trong xe lán cũ là bộ tham mưu của nhóm thám tử được thành lập cũng khá lâu rồi. Hannibal trải tờ báo trên bàn. Bob Andy sắp xếp lại hồ sơ, còn Peter Crench đang lau chùi thiết bị trong phòng thí nghiệm nhỏ xíu do ba bạn tự trang bị.
Peter nhìn lên.
- Bí ẩn gì? Peter hỏi.
- Con người tiền sử ở Citrus Crove, Hannibal trả lời. Có phải là người thật không? cổ xưa bao nhiêu năm? James Brandon, nhà khảo cổ học đã tìm thấy nó, gọi nó là thuộc họ người. Có thể có nghĩa là người, hoặc có thể có nghĩa là một động vật giống người. Có phải là tiền nhân, hay cái gì đó khác không?
- James Brandon sẽ lên truyền hình chiều nay, Bob nói.
Mình nghe mấy đứa bạn nói về chuyện này khi ăn sáng. James Brandon sẽ là khách mời của Chương trình Bob Engel, đúng năm giờ chiều.
Peter lau mặt quầy phòng thí nghiệm.
- Muốn xem hả? Peter hỏi.
- Tất nhiên là rất muốn xem, Hannibal trả lời.
Có một truyền hình trắng đen nhỏ trên kệ sách gần bàn của Hannibal. Chú Titus đã mua được trong một chuyến thu gom hàng. Truyền hình không còn xem được nữa khi về đến kho bãi đồ linh tinh. Nhưng Hannibal sửa chữa các thứ rất khéo léo, rồi lắp tại bộ tham mưu. Truyền hình đang sáng lên. Ba Thám Tử Trẻ nhìn thấy Bob Engel, người dẫn chương trình, mỉm cười.
- Vị khách đầu tiên hôm nay của ta là tiến sĩ James Brandon, Engel nói. Người đã tìm thấy hài cốt hóa thạch của một người tiền sử trong một hang động ngay tại miền nam Californie.
Camera thụt lùi, và ba thám tử thấy một người đàn ông cao và vạm vỡ với mái tóc vàng cắt sát. Gần ông là một người đàn ông thấp hơn, bụng phệ mặc áo sơmi cao bồi, đeo thắt lưng bản rộng với khóa trang trí, và đi ủng cao gót.
- Hôm nay đi cùng tiến sĩ James Brandon có ông Newt MacFee. Ông MacFee là thương gia tại Citrus Grove, và ông là chủ khu đất nơi người tiền sử được tìm thấy.
- Chí phải! người đàn ông mập nói. Chính MacFee đấy: Mac giống như mắc tiền quá. Còn Fee là phí, tức những gì quý vị phải trả. Xin đừng quên cái tên này, bởi vì từ nay, quý vị sẽ được nghe đến cái tên ấy rất nhiều.
Bob Engel mỉm cười gượng, rồi chuyển sự chú ý sang vị khách kia.
- Thôi, bây giờ xin tiến sĩ Brandon kể lại cho quý khán giả nghe vắn tắt, về việc phát hiện hóa thạch?
Người đàn ông tóc vàng ngồi thẳng hơn trên ghế.
- Tôi tìm thấy hài cốt hóa thạch do sự tình cờ thuần túy, - ông nói. Cách đây khoảng một tuần, tôi ra ngoài đi dạo, ngay sau khi trời mưa tạnh, và tôi để ý có một chỗ lở đất nhỏ trên ngọn đồi phía trên bãi cỏ của Newt MacFee. Một phần dốc đã trượt đi mất, và có lỗ hở bên hông đồi. Khi đến gần hơn, tôi nhìn thấy một cái hang, với cái sọ bên trong. Sọ gần như bị chôn trong lớp bùn dưới nền hang. Thoạt đầu tôi không biết tôi đang có gì trước mắt nên...
- Anh bạn ơi, anh không có gì cả, người đàn ông ngồi cạnh James Brandon ngắt lời. Tôi mới là người có nó đây!
James Brandon làm như không nghe gì cả.
- Tôi trở về nhà Hội Spicer kiếm đèn pin, tiến sĩ nói tiếp.
- Rồi khi ông ấy trở ra cánh đồng của tôi, thì tôi đang chờ với một cây súng, MacFee nói. Cứ thử đi qua đất nhà tôi, sẽ biết!
James Brandon hít thở thật sâu. Tiến sĩ có vẻ như khó tự kiềm chế.
- Tôi trình bày về những gì đã nhìn thấy, tiến sĩ nói. Chúng tôi nhìn kỹ hơn, và tôi biết chắc đó là cái sọ!
- Một cái sọ rất cổ xưa! MacFee kêu lên. Có ở đó cũng mấy ngàn năm rồi.
- Cùng với cái sọ, tiến sĩ James Brandon nói, có phần lớn hài cốt còn lại. Tôi chưa được nghiên cứu, nhưng có rất nhiều điểm giống nhau với các hóa thạch rất cổ xưa được tìm thấy ở châu Phi.
- Thế có phải là người không? Engel hỏi.
Tiến sĩ James Brandon chau mày.
- Làm sao mà nói được chính xác khi nào thì một sinh thể là người? Có các đặc điểm động vật họ người rõ ràng, nhưng ta không thể thừa nhận đó là một người hiện đại. Tôi gần như chắc chắn nó cổ xưa hơn bất kỳ sinh thể họ người nào từng được tìm thấy ở châu Mỹ.
Tiến sĩ James Brandon cúi ra phía trước, giọng nói hăng hái hơn.
- Có một giả thuyết cho rằng người Mỹ Da Đỏ là con cháu của dân săn bắn Mông cổ đã di cư từ Siberie sang Alaska vào thời kỳ băng hà. Đó là cách đây khoảng tám ngàn năm về trước, vào một thời có quá nhiều nước đại dương đóng băng đến nỗi mực nước biển khá thấp. Đáy đại dương ở eo biển giữa Siberie và Alaska trội lên, nên các bộ lạc châu Á chỉ cần đi bộ từ châu này sang châu kia, khi đi theo thú săn sang Tân Thế Giới. Theo giả thuyết này họ đã tản ra và định cư ở nhiều chỗ, có một số cứ đi tiếp cho đến mút Nam Mỹ.
Đó là giả thuyết được thừa nhận, giả thuyết được tìm thấy trong hầu hết các sách giáo khoa. Nhưng thỉnh thoảng người ta lại đột nhiên đưa ra một cách giải thích khác. Một trong những người đột phá ấy cho rằng con người đã sống trên châu lục này rất lâu trước cái thời mà ta giả thiết rằng dân di cư đã băng qua cái cầu đất kia. Thậm chí có vài người hô hào rằng con người ngày nay thật ra có nguồn gốc từ châu Mỹ, sau đó mới di cư sang châu Á và châu Âu.
- Hóa thạch trong hang động ở Citrus Grove có làm cơ sở cho giả thuyết này không? Engel hỏi.
- Tôi chưa trả lời ngay bây giờ, tiến sĩ Brandon nói. Ở thời điểm này tôi không thể chắc bộ xương cổ xưa đến mức nào. Nhưng ta đang có được rất nhiều xương và...
- Đúng ra là tôi có xương chứ, - Newt MacFee xen vào. Cái thằng trong hang động của tôi chắc chắn là người. Chứ còn là gì nữa? Cho nên nếu nó nằm đó hai hay ba triệu năm thì...
- Khoan đã! Brandon kêu lên.
- Chính anh đã nói anh không biết nó cổ xưa bao nhiêu mà! MacFee nhấn mạnh. Chắc phải cổ hơn tám hay mười ngàn năm, anh từng nói mà. Anh đã tin chắc như vậy khi anh nhìn thấy nó lần đầu tiên. Như thế có nghĩa rằng con người đã thật sự ra đời tại châu Mỹ này, và cái người trong hang động tôi có thể ông cố của loài người. Có thể chính cháu chắt của ông ta đi sang châu Á rồi khởi nguồn cho nhân loại bằng cách đó. Có thể vườn Eden không hề nằm chỗ kia, như ta luôn nghĩ. Có thể vườn Eden nằm ở Bakerfield hay Fresno. Có phải hay không?
- Anh đang kết luận quá hấp tấp, Brandon khó chịu đáp. Chờ khi ta có cơ hội nghiên cứu cho đàng hoàng bộ xương đã tìm thấy...
- Sẽ không có nghiên cứu gì cả! MacFee tuyên bố.
Brandon quay qua nhìn MacFee.
- Cái người từng ở trong hang động của tôi suốt, và sẽ tiếp tục ở đó! MacFee nói. Sẽ không có ai mang nó đi, mổ xẻ nó, nhìn nó qua kính hiển vi. Còn nếu anh tưởng dòng người xếp hàng để được vào thủy cung Marineland và Ngọn Núi Thần là dài, thì anh hãy chờ mà xem những hàng người muốn được xem một người tiền sử thật sự!
- Bộ anh định cho triển lãm bộ xương hóa thạch à? Brandon la lên. Anh không được làm thế! Ta chưa biết chắc bộ xương cổ xưa bao nhiêu năm và...
- Bộ xương đã đủ cổ xưa rồi, MacFee thông báo. Những gì ta có được ở đây chính là cái nôi của nền văn minh, và tất cả mọi người đều quan tâm muốn xem!
- Anh thật là dốt nát! Brandon la lên. Anh không hiểu những gì anh đang nói nữa kìa!
- Tôi đang nói rằng đây có thể là con người đầu tiên, MacFee nhìn thẳng vào camera nói. Chính vì vậy mà tôi đã đến dự chương trình truyền hình này. Tôi xin mời mọi người biết rằng tôi đang chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp quan khách thật sớm. Sẽ y như những chỗ kỳ diệu khác ở Californie...
- Đồ ngu! Brandon hét.
Tiến sĩ Brandon cựa quậy trên ghế.
Camera nhanh chóng chạy gần lại sao cho trên màn hình chỉ nhìn thấy được mỗi mình Bob Engel. Có tiếng la hét, rồi tiếng va đập. Sau đó Bob Engel vội vàng nói:
- Chương trình hấp dẫn của ta đến đây là hết. Ơn trời, thời gian đã chấm dứt. Xin quý khán giả ngồi lại để nghe một thông tin quan trọng về chất Nodush đánh bóng bàn ghế gỗ, sau đó ta sẽ gặp lại nhau để...
Peter tắt truyền hình.
- Úi chà! Peter kêu. Rắc rối dữ dội lên. Có vẻ như Brandon định vật MacFee xuống đất luôn.
- Mình cũng không thích nổi tay MacFee, Hannibal nói, mà nếu hắn không để cho Brandon lấy bộ xương đi...
- Hắn có quyền cản Brandon không? Bob hỏi.
- Mình nghĩ là có quyền, nếu hang động là sở hữu của hắn. Đúng là một tình huống khó xử đối với một nhà khảo cổ học: tìm thấy một vật rất hấp dẫn nhưng không thể nghiên cứu đánh giá được! Mà chắc chắn đã có lộn xộn giữa hai người ngay từ đầu, nếu như MacFee đã chạy đi lấy súng khi thấy Brandon ở hang động. Tình thế rất xấu! Mà Brandon cũng không vừa gì. Loại tình huống như thế có thể kết thúc thành... thành...
- Đổ máu hả? Peter nói.
- Đúng. Đúng vậy, có thể kết thúc thành một vụ đổ máu!
Chương 3
CÁCH ĐÓN TIẾP BẤT BÌNH THƯỜNG
S
au cuộc phỏng vấn đầu tiên giật gân kia, James Brandon không xuất hiện trên truyền hình nữa. Mà chính Newt MacFee được nhìn thấy trên vài buổi nói chuyện. Rồi khi xuân đang chuyển sang hạ, ông thương gia mập Citrus Grove chấp nhận trả lời phỏng vấn cho bất kỳ phóng viên nào chịu ngồi yên lắng nghe. Đến giữa tháng bảy hầu như mọi người ở nam Californie đều biết về hang động và người tiền sử của ông MacFee. Rồi quảng cáo có trả tiền bắt đầu xuất hiện. Hang động sẽ được mở cho công chúng vào đầu tháng tám.
Trong tuần tháng bảy cuối cùng, Hannibal có cuộc gặp gỡ thật đúng lúc với người hàng xóm Les Wolf.
Wolf là người thầu cung cấp bếp, lò và máy rửa chén cho các nhà hàng và khách sạn. Wolf sống trong một căn nhà gỗ to ở cuối Thiên Đường Đồ cổ. Vào ngày tháng bảy hôm đó, Hannibal đang chạy xe đạp đi qua nhà Wolf, thì nhìn thấy ông đang cố dỗ ngọt một chú mèo con núp dưới hàng rào. Hannibal dừng lại giúp một tay. Hannibal bước đến gần hàng rào từ phía bên kia, giậm chân, khiến con mèo nhỏ bỏ chạy sang bên kia, đâm thẳng vào vòng tay ông Wolf.
- Ngoan nào, ông nói và mỉm cười với Hannibal. Cám ơn Babal nhé. Bà xã tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi nếu con mèo bỏ đi, rồi bị cán hay bị gì khác.
Wolf ôm con mèo bước về nhà, nhưng rồi ông dừng lại quay sang Hannibal:
- Cậu có biết cái thành phố nhỏ phía cuối bờ biển không? Chỗ mà người ta tìm thấy người tiền sử ấy? Cuối tuần này, tôi sẽ đi trang bị một nhà bếp mới cho một nhà hàng ở đó. Có phải bà thím của cậu có nói với bà xã tôi rằng cậu theo dõi câu chuyện người tiền sử trên báo chí không?
- Dạ có! Hannibal hăng hái trả lời. Người tiền sử sẽ ra mắt công chúng thứ bảy tuần này. Chú sẽ đi Citrus Grove bằng xe tải lớn chứ? Chú có cần trợ lý để làm công việc đó không?
- Cậu còn nhỏ quá, hơn nữa cậu không thuộc công đoàn, ông Wolf nói. Hal Knight sẽ đi theo để giúp tôi. Nhưng nếu cậu không phiền ngồi phía sau thùng xe tải, cùng với hàng của tôi...
- Dĩ nhiên là cháu ngồi được! Hannibal nhanh miệng trả lời. Hai bạn của cháu là Bob và Peter đi luôn được không?
- Được. Nhưng các cậu sẽ phải tự tìm chỗ mà ở. Tôi sẽ mất ba ngày để hoàn tất công việc. Ông bà chủ nhà hàng sẽ cho tôi và Hal ở trọ, nhưng ngoài ra không còn dư phòng nữa.
- Dạ không sao, Hannibal nói, tụi cháu có thể mang theo túi ngủ, rồi cắm trại ở ngoài trời.
Hannibal vội vàng về nhà gọi Bob và Peter và xin phép chú thím để đi xa. Vào sáng thứ sáu, khi xe tải của Les Wolf lăn bánh rời khỏi Rocky, thì Hannibal, Bob và Peter đều có mặt trên xe.
Ông Wolf lái xe về hướng nam suốt hai tiếng, rồi quẹo ra khỏi đường cao tốc chính, đi về hướng đông, lên vùng đồi. Con đường quẹo, đi xuống rồi đi lên. Ba thám tử nhìn thấy vườn cây cam hai bên đường, những cánh đồng, hàng cây, và bãi cỏ rộng lớn nơi gia súc đang gặm cỏ.
Nửa tiếng sau, xe tải chậm lại đi qua một thành phố tên Centerdale. Sau thành phố lại có hàng cây chạy dài mấy dặm, vườn cây ăn trái và bãi cỏ. Rồi cuối cùng có tấm biển báo: “Vào Citrus Grove. Nghiêm chỉnh tuân thủ luật lệ tốc độ.”
Citrus Grove chỉ là một thành phố nhỏ. Ba thám tử nhìn thấy một siêu thị, hai trạm xăng, một cửa hàng bán xe và một khách sạn nhỏ xíu tên Cây Đu. Rồi xe chạy ngang qua hồ bơi thành phố, nhà ga bỏ hoang trông đầy bụi ảm đạm. ở trung tâm, một bên là công viên nhỏ, bên kia là dãy cửa hiệu buôn bán. Ba thám tử nhìn thấy một ngân hàng, một cửa hàng ngũ kim, một hiệu thuốc và thư viện công. Mặc dù thành phố rất nhỏ, nhưng người đông đúc khắp nơi. Hộp đèn “hết phòng” chớp lên trước mặt tiền một khách sạn, còn bên ngoài quán cà phê Lazy Daze, một hàng người dài thòn đang chờ được xếp chỗ ngồi.
- Do quảng cáo rùm beng về người tiền sử, Bob nói. Thu hút đám đông.
Hannibal mỉm cười khi thấy một quày bán hamburger quảng cáo burger khủng long.
- Rồi cũng phải nhanh chóng thích nghi cho phù hợp tình huống mới thôi, - thám tử trưởng nhận xét.
Les Wolf rẽ sang một đường hông phía sau công viên. Wolf cúi ra ngoài gọi ba thám tử.
- Nhà hàng Ông Thợ săn vui vẻ ở cuối đường, khoảng nửa dặm nữa, Wolf nói. Tối hôm qua tôi đã gọi ông chủ nhà hàng, ông ấy nói khu cắm trại gần thành phố đã kín chỗ. Ông ấy khuyên các cậu nên đến thử chỗ ông Newt MacFee ở ngôi nhà gỗ xám đầu con Đường Cái.
- Cái ông trên truyền hình à! Peter thốt lên.
- E rằng đúng ông ấy, Hannibal nói.
Ba thám tử bước xuống xe tải.
- Thứ hai đến tìm tôi ở nhà hàng Ông Thợ săn vui vẻ nhé, Wolf dặn rồi lái xe đi tiếp.
Ngôi nhà của Newt MacFee trông khá dễ chịu khi ba thám tử bắt đầu đi đến đó. Phía trước có cái cổng vòm rộng và một bãi cỏ nhỏ. Tuy nhiên khi đến gần hơn, ba thám tử nhận ra rằng ngôi nhà rất cần được sơn phết lại, còn rèm cửa sổ thì xám xịt ủ rủ. Vài cửa chớp thiếu thanh. Bãi cỏ mọc đầy cỏ dại.
- Trông xơ xác quá nhỉ? Bob hỏi. Mình tưởng MacFee là chủ cửa hàng ngũ kim và đại lý bán xe chứ.
- Có lẽ không làm ăn phát đạt trong một thành phố cỡ này, Hannibal nhận xét.
Một tấm bảng được đóng đinh vào cổng nhà MacFee, báo với khách rằng nếu cần chỗ trọ thì hãy đi vòng ra phía sau. Ba thám tử mệt mỏi lê bước ra sau nhà và nhìn thấy một bãi cỏ trải dài từ đường đến một khu rừng thưa. Gần nhà có một kho thóc cũ kỹ. Phía bên ngôi nhà xa thành phố nhất, bãi cỏ nới rộng thêm dọc theo con đường cho đến một ngọn đồi gần đó. Có một ngôi nhà mới toanh nằm tựa vào hông đồi, gọn gàng hiện đại, xây bằng gỗ đỏ, không cửa sổ. Phía trên hai cạnh cửa có tấm biển đề: “Cửa vào Hang động Người Tiền sử.”
- Ê! Peter kêu. Hắn kinh doanh thật đấy.
- Các em cần gì không? Một giọng nói dịu dàng vang lên phía sau ba thám tử.
Cả ba quay lại và Hannibal nhìn thấy mái tóc vàng và gương mặt tái xanh. Hannibal nhớ lại một ngày sương mù lạnh lẽo ở Rocky, và một người đàn ông bước vào từ ngoài đường rồi tắt thở.
- Ồ! Eleanor thốt lên. Hóa ra là em!
- Chào, Hannibal đưa tay ra bắt.
- Chị... chị đang định viết thư cho thím của em, Eleanor nói. Hai thím cháu em tử tế quá. Nhưng chị lại nghĩ có khi không nên làm phiền em.
- Em rất vui vì đã giúp được chị, Hannibal nói rồi giới thiệu Bob và Peter.
Trong khi Eleanor nghe lời giới thiệu, cửa sau nhà mở ra, một người phụ nữ mập tóc ngắn uốn quăn nhìn ra.
- Eleanor, mấy cậu bé đó cần gì vậy? Bà gọi.
Bà nói to, giọng thô lỗ, như ba thám tử không thể nghe tiếng bà.
- Dì Thalia ơi, cậu này là Hannibal Jones, Eleanor nói với vẻ mặt lúng túng không vui. Cháu đã kể cho dì nghe về Hannibal rồi đó. Hannibal và thím cậu ấy đã giúp cháu khi tiến sĩ Birskensteen ngã bệnh ở Rocky. Còn hai cậu kia là Peter Crench và Bob Andy, bạn của Hannibal. Có lẽ ba cậu đến đây xem người tiền sử. Dì Thalia ơi, ta có thể cho ba em ở nhờ không?
Đột nhiên người đàn ông từng xuất hiện trên các buổi phỏng vấn truyền hình bước ra ở ngưỡng cửa ngay phía sau người phụ nữ. Eleanor Hess lại giới thiệu ba thám tử, Hannibal kinh ngạc khi nhận ra rằng dì Thalia chắc hẳn là vợ của Newt MacFee, nghĩa là Newt chính là dượng của Eleanor!
- Hóa ra các cậu là người đã giúp Eleanor, Newt MacFee nói. Chúng tôi sẽ rất vui tìm chỗ trọ cho các cậu. Nhưng trong nhà không có phòng cho cả ba, các cậu có thể trải chăn ngủ trên gác xép trong kho thóc và dùng nhà vệ sinh cũ phía sau kho thóc. Bên nhà có vòi nước để rửa ráy.
Hai con mắt nhỏ của MacFee nhăn lại.
- Tôi sẽ có giá rất thấp cho các cậu. Chỉ có mười đô la một đêm cho cả ba.
- Dượng Newt kìa! Eleanor Hess kêu lên.
- Cô kia! MacFee quát và hăm dọa, lườm Eleanor khiến cô cháu nhìn đi chỗ khác.
- Các cậu không tìm được chỗ nào với giá mười đô la đâu, MacFee nói với ba thám tử.
- Sao bọn mình không thử tìm một chỗ rừng thưa? Bob nói, huơ tay về hướng khóm cây phía sau bãi cỏ.
- Năm nay nguy cơ cháy rừng rất cao, MacFee nói, nên người cắm trại không được phép vào rừng.
Hannibal lấy bóp ra, đưa tờ mười đô la cho MacFee.
- Đây, thám tử trưởng nói, cho đêm nay.
- Tốt lắm, MacFee vừa nói vừa bỏ tiền vào túi. Eleanor, cháu dẫn ba vị khách trẻ này đi xem chỗ có vòi nước đi.
- Nhưng các cậu phải thận trọng, Thalia MacFee cảnh cáo, đừng có mà làm lộn xộn mọi thứ hay đốt lửa gì đó nhé.
- Các cậu không hút thuốc mà, phải không? MacFee hỏi.
- Tụi cháu không hút thuốc, Peter buồn rầu trả lời, Babal ơi, hay bọn mình đừng làm phiền ông bà MacFee. Sao bọn mình không xuống cái công viên nhỏ trong thành phố rồi...
- Không được cắm trại trong công viên, MacFee nói. Ngoài ra, ở đó có hệ thống phun nước phòng cháy tự động bật lên đúng mười hai giờ mỗi đêm.
MacFee khoái trá ra mặt trở vào nhà. Còn Eleanor bắt đầu đi ra kho thóc, mặt đỏ gay vì xấu hổ.
- Chị xin lỗi nhé, Eỉeanor nói. Này, nếu các em ở luôn một đêm nữa, thì đừng có trả tiền cho ông ấy. Chị có chút tiền, để chị lo chuyện này.
- Không sao đâu, Hannibal nói, chị đừng lo.
- Chị rất ghét khi ông ấy làm những chuyện như thế này, - Eleanor cay đắng nói. Mà chị không bao giờ được lên tiếng bởi vì..., ừ, thì bởi vì dì Thalia và dượng đã chăm sóc chị từ khi chị tám tuổi. Bố mẹ chị đã mất trong tai nạn xe hơi.
Mỗi thám tử thầm thắc mắc MacFee và vợ ông ấy đã chăm sóc cho Eleanor như thế nào. Trông Eleanor gầy nhom, có vẻ héo hon kiệt sức.
- Dì Thalia và mẹ chị là chị em ruột, Eleanor kể tiếp, nếu dì Thalia không nhận chị về nhà nuôi, thì chị đã phải vào trại mồ côi.
Eleanor mở cửa ra, ba thám tử đi theo Eleanor vào kho thóc tối tăm bụi bặm. Trong đó, ba bạn nhìn thấy một chiếc xe tải nhẹ có cẩu mới bóng, và một chiếc ôtô con bốn cửa sáng bóng crôm. Ba thám tử còn nhìn thấy một núi to đồ cũ: những xấp báo vàng khè, những chồng thùng cũ và một đống đồ nghề rỉ sét trên bàn thợ.
Cái thang kê ở vách tường cuối cùng dẫn lên gác xép. Ba thám tử lên một khoảng không gian tối tăm ngột ngạt dưới mái nhà. Có một cửa sổ phủ lớp bụi và màn nhện dày cộm. Khi Hannibal mở cửa sổ ra, không khí mát lạnh tràn vào.
- Để chị lấy cho các em khăn lông nhé? Eleanor gọi từ phía dưới.
- Dạ không cần đâu, chị ơi, Peter trả lời xuống, tụi em có mang đủ đồ theo mà.
Eleanor vẫn nấn ná dưới chân cái thang rồi cuối cùng gọi lên:
- Chị sắp lên hội đây. Các em có muốn đi cùng chị để xem thú vật không?
Đây rõ ràng là điều hay nhất mà Eleanor có thể đề nghị. Hannibal cúi đầu ra từ trên gác xép.
- Chị có quen nhà khảo cổ học tìm ra bộ xương không? Thám tử trưởng hỏi.
- Tiến sĩ Brandon hả? Có chứ. Em muốn gặp ông ấy hả? Chị sẽ giới thiệu em nếu ông ấy có cơ hội.
- Em đã ước được gặp ông ấy từ khi em nghe về bộ xương hóa thạch, Hannibal nói. Tiến sĩ đã đưa ra giả thuyết nào về niên đại của bộ xương chưa? Tiến sĩ đã biết được làm thế nào mà bộ xương có ở trong hang chưa?
Eleanor nhăn mặt.
- Ai cũng tích cực quan tâm đến người tiền sử kia.
Nhưng hắn xấu xí lắm. Có lẽ trông hắn như một con đười ươi, nhưng nhỏ hơn nhiều.
Eleanor đột nhiên có vẻ hoảng hốt lên.
- Các em đừng có mà đến gần cái hang động kia khi không có ai ở đó, Eleanor cảnh báo. Dượng Newt giữ sẵn một cây súng đã nạp đạn ngay bên cửa nhà bếp. Dượng nói mọi người sẽ phải trả đủ tiền để được xem người tiền sử. Còn nếu kẻ nào dám toan can thiệp vào chuyện này, thì sẽ lãnh đạn!
- Ý dượng của chị ám chỉ rằng kẻ đó là nhà khảo cổ học, đúng không? Hannibal hỏi.
- Đúng. Hoặc bất cứ ai định xen vào vụ người tiền sử. Chị rất sợ sẽ có chuyện xảy ra, chuyện không hay!
Chương 4
ELEANOR NÓI DỐI
H
ội Spicer là một tòa nhà nằm dài trên một ngọn đồi cách chỗ Newt MacFee khoảng nửa dặm. Không có hàng rào bao quanh bãi cỏ xanh mượt mà, nhưng có những chốt gác bằng đá và cổng. Ba thám tử đi theo Eleanor trên lối đi vào tòa nhà. Eleanor mở cửa, bước vào không cần gõ.
Không có tiền sảnh. Eleanor và ba thám tử bước ngay vào một phòng khách rộng lớn. James Brandon cũng có mặt ở đó. Ông đang đi đi lại lại và dừng lại để quắc mắt khi Eleanor giới thiệu ba thám tử.
- Các cậu đến để xem cái trò xiếc ba xu kia, tiến sĩ nói như một lời cáo buộc.
- Để xem người tiền sử à? Peter nói lại. Dạ đúng vậy.
- Các cậu và bốn triệu người khác, Brandon nói rồi tiếp tục đi đi lại lại nữa. Đám đông sẽ giẫm đạp lên mọi thứ. Nếu trên vùng đồi kia còn nhiều bộ xương hóa thạch khác, thì sẽ bị tiêu hủy hết. Nếu như tôi có súng...
- Ông sẽ bắn mọi người, một giọng nói trầm tĩnh vang lên.
Ba thám tử quay lại. Một người đàn ông cao lớn, vẻ mặt ủ rủ, vừa mới bước vào phòng. Hannibal nhận ra ngay ông là người đã đến bệnh viện Rocky vào đêm Karl Birkensteen qua đời, Lúc đó, ông mặc một bộ complê mòn xơ cả chỉ. Bây giờ ông đang mặtquần kaki phai màu và áo thun có cổ. Ông ngồi xuống ghế bành gần chỗ đốt lửa, nhìn chằm chằm xuống hai đầu gối gầy trơ xương của ông.
- Thưa tiến sĩ Terreano, chú đã gặp Hannibal Jones rồi, Eleanor Hess nói.
Terreano có vẻ ngạc nhiên.
- Thế à? Gặp rồi sao?
- Hannibal đã giúp cháu lúc cháu ở Rocky với tiến sĩ Karl Birkensteen, Eleanor giải thích. Hannibal cũng có mặt ở bệnh viện, chú nhớ không?
- Ồ, nhớ. Bây giờ nhớ ra rồi. Rất vui được gặp lại cậu, trong ngữ cảnh vui hơn.
Terreano mỉm cười và đột nhiên có vẻ trẻ hơn.
- Tiến sĩ Terreano cũng là nhà khảo cổ học, Eleanor nói. Chú đang viết một quyển sách.
- Người như chúng tôi luôn viết sách mà, Terreano mỉm cười nói.
- Ồ, phải rồi! Hannibal đột nhiên kêu lên. Cháu biết! Chú đã viết quyển Kẻ thù cổ xưa!
Terreano nhướn mày lên.
- Cậu đã đọc quyển đó sao?
- Dạ có, Hannibal trả lời. Cháu tìm thấy quyển sách này ở thư viện. Rất lôi cuốn, nhưng gây buồn lòng. Nếu con người luôn cần chống đối đồng loại, và nếu luôn sẽ như thế, thì...
- Buồn nhỉ? Terreano nói. Con người có tính bạo lực bẩm sinh. Đó là một trong các đặc thù của ta, cùng với bộ não to và khả năng đi trên hai chân.
- Ôi, vớ vẩn! Brandon thốt lên. Bản tính con người không bạo lực. Ông đã hiểu sai các dấu hiệu.
- Thế à? Terreano nhìn xung quanh. Nếu ông muốn, thì thử xét Abraham Spicer. Spicer tin là phải giúp đỡ nhân loại, ông ấy đã thành lập cái hội này, thật là cao thượng! Nhưng Spicer cũng là một tay sát thủ. Ông ấy săn bắn thú to.
Terreano huơ tay về hướng mặt lò sưởi. Đầu của một sinh thể thanh tú có sừng được treo trên đó, cặp mắt đã chết của nó nhìn ra cửa sổ. Trên tường, phía trên vài kệ sách, có đầu của những con thú khác: cọp, báo sư tử và một con trâu to tướng. Những bộ lông gấu, sư tử và báo được trải trên sàn nhà.
- Nếu giết một con thú hoang dã thay vì giết một con người, thì anh lại được phép mang xác của nó về nhà, rồi nhồi rơm, Terreano nói. Từng có một thời mà việc nghiền nát bộ xương của kẻ thù và ăn thịt đồng loại được thừa nhận như nhau.
- Ông hoàn toàn sai! Brandon hét lên.
- Ông luôn nổi giận khi ta thảo luận đến vấn đề này, Terreano nói. Điều này hầu như chứng minh được quan điểm của tôi.
Đúng lúc đó một người đàn ông thấp, đầu hói hối hả bước vào.
- Hai ông lại tranh luận nữa à? ông hỏi. Tôi rất ghét phải nghe tranh luận trước khi đã ăn trưa.
Eleanor giới thiệu tiến sĩ Elwood Hoffer.
- Tiến sĩ Hoffer là nhà miễn nhiễm học, Eleanor nói với ba thám tử. Chú ấy có nhiều chuột bạch rất dễ thương.
Cháu đưa Hannibal, Bob và Peter đi xem chuột bạch được không ạ?
- Cứ đi đi, với điều kiện không được đụng chạm vào bất cứ gì trong phòng thí nghiệm, Hoffer nói.
- Các em sẽ không đụng chạm gì đâu ạ, Eleanor trả lời.
Ba thám tử đi theo Eleanor dọc theo một hành lang dài đến góc nhà nằm ở phía mặt tiền.
- Cửa vào phòng làm việc và phòng thí nghiệm đều nằm trong hành lang này, Eleanor giải thích. Phòng thí nghiệm của tiến sĩ Hoffer đây.
Eleanor dẫn ba thám tử vào cửa kế tiếp. Ba thám tử bước vào phòng vệ sinh nhỏ. Eleanor lấy ra bốn cái khẩu trang phẫu thuật.
- Đây, Eleanor nói, đeo cái này vào.
Eleanor tự đeo khẩu trang rồi lấy thêm một đôi bao tay cao su. Eleanor mở thêm một cửa vào một phòng rộng lớn sáng sủa nhờ ánh sáng mặt trồi. Dọc theo tường có hàng chục những cái lồng bằng thủy tinh. Trong mỗi lồng đều có những sinh thể nhỏ chạy qua chạy lại, đâm tới đâm lui.
- Đừng có đến quá gần và đừng đụng chạm gì cả, Eleanor dặn dò.
Eleanor tiến hành cho chuột ăn, lặng lẽ di chuyển từ lồng này sang lồng kia.
- Những con chuột này rất đặc biệt, Eleanor nói. Tiến sĩ Hoffer đã bỏ đi mất vài khả năng miễn dịch của chúng, nên phải thận trọng để chúng không bị cảm lạnh hay gì đó. Chính vì vậy mà các em phải đeo khẩu trang. Một số con không có cách nào để chống đối với bệnh dịch.
- Như vậy thì được gì tốt đâu, Bob nói. Nếu chuột không chống lại nổi bệnh tật, thì nó sẽ chết?
- Chắc là có một số con sẽ chết, Eleanor trả lời. Nhưng tiến sĩ Hoffer tin rằng ta bị mắc phải một số bệnh tật chỉ vì ta được miễn dịch! Cơ thể ta sản sinh ra những tế bào đặc biệt sẽ ăn sạch các virus và vi khuẩn, nhưng đôi khi cũng chính những tế bào này sẽ hại ta. Có thể ta bị viêm khớp do phản ứng miễn dịch, hoặc bị loét dạ dày, hoặc bị các loại bệnh tâm thần mất trí.
- Úi chà! Peter nói với giọng điệu sợ hãi.
- Nhưng không có hệ miễn nhiễm, thì ta sẽ bị bệnh đậu mùa, Bob nói, bị bệnh sởi, và.... Và bị...
- Chị biết, Eleanor đáp. Tiến sĩ Hoffer đang thử tìm ra cách để kiểm soát hệ miễn nhiễm của ta sao cho ta được bảo vệ, nhưng không bị hại.
- Tuyệt quá! Hannibal nói. Còn tiến sĩ Terreano thì đang viết một quyển sách.
- Tiến sĩ Brandon cũng đang viết sách, Eleanor nói. Quyển sách ông ấy nói về kẻ bị nhốt trong tủ trong văn phòng ông ấy.
- Một người à? Bob hỏi lại. Bị nhốt trong tủ à?
- Một người hóa thạch, Eleanor nói. Tiến sĩ đã tìm thấy xương ở châu Phi, rồi ghép lại như một trò chơi ghép hình để ra được bộ xương trọn vẹn. Tiến sĩ đã đo đạc, chụp hình các mẫu xương, rồi xem sách.
- Tiến sĩ cũng muốn làm việc với bộ xương trong hang động y như thế, phải không? Hannibal hỏi.
- Đúng, Eleanor buồn bã trả lời. Dượng của chị sẽ không để cho tiến sĩ Brandon làm như thế.
Eleanor đã cho chuột ăn xong. Bốn chị em trở ra phòng vệ sinh, cởi khẩu trang, găng tay ra, thả vào cái hộp nhựa có nắp để gần bồn rửa. Tất cả trở ra ngoài hành lang.
- Bây giờ các em sẽ nhìn thấy khỉ! Eleanor nói.
Phòng thí nghiệm của tiến sĩ Karl Birkensteen nằm ở cuối hành lang, rộng rãi hơn phòng của Hoffer. Hai con khỉ tinh tinh sống trong đó cùng ở chung một chuồng gần cửa sổ. Trong chuồng có đồ chơi, banh và một tấm bảng đen nhỏ để hai chú tinh tinh nguệch ngoạc bằng phấn màu.
Hai con vật kích động hét lên khi nhìn thấy Eleanor, con to nhất thò hai cánh tay ra ngoài.
- Mày mừng lắm hả? Eleanor hỏi. Tối hôm qua ngủ ngon không?
Con tinh tinh nhắm mắt lại nhanh, thả đầu gục sang một bên. Rồi nó chỉ lên đồng hồ treo tường, vẽ vòng tròn lên trời bằng một ngón tay.
- Ngủ lâu không? Eleanor hỏi.
Con tinh tinh nhảy tưng tưng, vỗ tay.
Con khỉ thứ nhì bước ra khỏi chuồng, trèo lên một bàn thí nghiệm.
- Cẩn thận nhé! Eleanor cảnh cáo.
Con vật thèm thuồng nhìn một kệ chứa đầy những hũ lọ hóa chất.
- Đừng! Không được! Eleanor nói.
Eleanor quay sang ba thám tử nói:
- Khỉ y như trẻ con mới lớn lên vậy. Chúng cứ muốn chụp lấy tất cả những gì trong tầm tay để chơi.
Con khỉ quay mặt đi khỏi kệ lấy một cái cốc, trèo xuống đất, tiến hành lăn cốc khắp phòng như đồ chơi. Eleanor lấy trái cây và sữa trong tủ lạnh, ngũ cốc khô và tô trong tủ ra.
- Chúng hiểu hết, phải không? Hannibal hỏi trong khi Eleanor rắc ngũ cốc vào tô.
- Phải. Và chúng còn biết dùng dấu hiệu để nói những thứ phức tạp. Tiến sĩ Karl Birkensteen khẳng định rằng chúng liên lạc giỏi bằng đa số trẻ em mẫu giáo. Chị không biết ngôn ngữ dấu hiệu, nên chị không thể đánh giá, nhưng chị thấy chúng rất buồn cười và dễ thương. Và chúng rất biết cách nói cho chị biết chúng thích hay muốn gì.
- Bấy giờ chúng sẽ ra sao? Bob hỏi.
Eleanor thở dài.
- Chị không biết. Các thành viên hội đồng quản trị Hội sẽ họp tháng tới. Có lẽ sẽ quyết định làm gì với khỉ. Hội đã mua khỉ cho tiến sĩ Karl Birkensteen, những con này và nhiều con khác nữa. Phần lớn đã chết rồi.
Eleanor đặt các tô ngũ cốc và dĩa trái cây trên một cái bàn nhỏ. Hai chú khỉ trèo lên ghế nhỏ, bắt đầu ăn. Khi chúng ăn xong, Eleanor dỗ ngọt chúng trở vào chuồng. Cả hai la lên để phản đối và cố bám theo cô gái.
- Thôi nào, Eleanor dịu dàng nói. Chị sẽ về sớm mà. Đừng buồn nhé.
Ba thám tử quan sát. Lần đầu tiên Hannibal có cảm giác rằng Eleanor cư xử như thể cô biết chắc cô đang làm gì. Rõ ràng Eleanor có vẻ hạnh phúc hơn là lúc ở trong ngôi nhà tồi tàn của ông bà MacFee.
- Chúng nhớ tiến sĩ Karl Birkensteen, Eleanor nói. Chị cũng nhớ chú ấy. Chú rất tử tế, cả những lúc chú ấy không được khoẻ.
- Chú ấy bị bệnh à? Hannibal hỏi. Không hiểu sao, nhưng em nghĩ cơn đột quỵ ở Rocky là đột ngột.
- Đúng là đột ngột, Eleanor trả lời, nhưng chú ấy đã khác đi nhiều một thời gian trước đó rồi. Đôi khi chú ấy ngủ gục trong khi khỉ đang ngoài chuồng, rồi khỉ chạy lung tung quậy phá tùm lum. Chị đi với chú vào hôm... hôm chú ấy chết bởi vì chị nghĩ không thể để chú ấy đi một mình suốt một đường dài như thế.
- Hôm đó chú ấy đi Rocky để làm gì? Hannibal hỏi.
Câu hỏi thật là vớ vẩn, Hannibal hỏi chỉ để cho có chuyện mà nói. Nhưng Eleanor đột nhiên đỏ mặt.
- Chú ấy đã... chú ấy... thật ra chị không biết.
Eleanor nhìn đi chỗ khác rồi đột ngột bỏ ra cửa.
Hannibal và Peter nhìn nhau khi Eleanor đã ra khỏi phòng.
- Có chuyện gì vậy? Peter hỏi khẽ. Cậu nói điều gì không phải à?
Hannibal chau mày.
- Chị ấy nói dối. Chắc chắn chị ấy không chịu nói thật. Nhưng tại sao chị ấy lại nói dối? Chị ấy muốn che giấu điều gì?
Chương 5
ĐI THĂM MỘT NGƯỜI CHẾT
C
ác nhà khoa học đã đi khi Eleanor và ba thám tử trưởng trở ra phòng khách. Một người phụ nữ mập mạp đang sắp xếp gối trên ghế salon lại cho ngay thẳng. Còn một thanh niên tóc nâu sậm đang lau rửa kính cửa dẫn ra sân thượng và hồ bơi.
- Chào Eleanor, người phụ nữ nói. Cháu đã đưa vài người bạn đến đây à. Hay lắm.
Hannibal nhận ra người phụ nữ ngay khi bà nói chuyện. Chính bà Collinwood, đã đến giúp Eleanor vào hôm tiến sĩ Karl Birkensteen qua đời. Bây giờ bà lại mang bộ tóc giả vàng thay cho bộ màu hung đỏ, nhưng lông mi bà vẫn dày đen. Bà chớp chớp lông mi để làm duyên khi Eleanor giới thiệu ba thám tử.
- À. Phải! bà nói khi bắt tay Hannibal. Nhớ rồi. Cậu chính là chàng trai trẻ dễ thương đã giúp Eleanor rất nhiều. Cậu biết không, trông cậu rất giống anh Charles yêu thương của tôi. Charles Collinwood, người chồng cuối cùng của tôi, người chồng mà tôi thương nhất. Một người rất tốt bụng, mặc dù hơi bị mập quá.
Bà Collinwood rất thích nói, ba thám tử nhanh chóng nhận ra rằng bà cứ huyên thuyên không ngừng. Ba thám tử không thể làm gì khác ngoài đứng yên để cho dòng lời nói xối xả qua đầu mình.
Bà Collinwood thích thú kể cho ba thám tử nghe về người chồng đầu tiên của bà, bán bảo hiểm, rồi người chồng thứ nhì, chủ nhiệm phim, rồi người chồng cuối cùng, mà bà thương yêu nhất, một bác sĩ thú y.
- Cả ba đều rất tốt, bà Collinwood nói. Nhưng tất cả đều mất sớm. Buồn lắm. Rồi tôi đến đây sống làm quản gia cho hội. Lúc đầu trông mấy ông nhà khoa học rất đáng sợ. Lúc nào cũng nghiêm trang, lúc nào cũng đang suy nghĩ. Nhưng khi đã biết mấy ông rồi, thì cũng chẳng khác gì những người đàn ông khác. Ông tiến sĩ Terreano thì cứ luôn nói về tính hung bạo nơi con người, nhưng ông rất tử tế và hiền như bụt. Còn tiến sĩ Brandon thì cứ khẳng định rằng con người ta không bạo lực, nhưng ông ấy lại có tính khí rất nóng nảy. Lẽ ra ông ấy không nên bỏ quá nhiều thời gian vì dượng của cháu, Eleanor à. Chỉ làm cho tiến sĩ bực mình thêm thôi.
- Dạ cháu biết, Eleanor nói khẽ.
Bà Collinwood chào rồi đi ra. Chàng trai trẻ đang lau rửa cửa sổ ngừng tay thả bàn chải vào chậu nước.
- Em đang cho mây bạn nhỏ kia đi tham quan chuyến mười đô la trọn gói đó hả? Anh ta hỏi Eleanor.
Eleanor có vẻ bực mình nhưng vẫn giới thiệu anh chàng.
- Đây là Frank, - Eleanor nói, Frank DiSteíano. Anh Frank cũng giúp thêm nhiều việc ở hội, y như chị.
Chàng trai mỉm cười.
- Chào. Rất vui được biết các bạn. Eleanor à, anh xin lỗi vì tối hôm qua. Anh bị bể bánh xe rồi mắc bận với cái bánh xe đó cho đến... sau đó trễ quá nên anh nghĩ em không chờ.
- Không sao đâu, Eleanor nói.
Eleanor đưa ba thám tử sang phòng thư viện nằm ngay bên cạnh phòng khách, rồi đi qua một tiền sảnh vuông nhỏ.
Chuồng ngựa cách nhà khoảng năm mươi mét. Eleanor bước đến đó không nói tiếng nào. Khi đã đến bên Blaze, con ngựa từng thuộc trách nhiệm của tiến sĩ Karl Birkensteen, thì tâm trạng Eleanor thay đổi hẳn, cô lại vui vẻ hơn. Eleanor chải lông cho ngựa, nói chuyện với nó, vuốt ve nó. Rồi cô hãnh diện cho ba thám tử xem con ngựa biết đếm như thế nào. Eleanor đặt bốn quả táo trên vách ngăn quanh chuồng.
- Bao nhiêu? Eleanor hỏi.
Con ngựa giậm chân bốn lần.
- Giỏi quá! Eleanor vỗ tay rồi cho ngựa ăn táo.
Ba thám tử chia tay với Eleanor tại chuồng ngựa, đi xuống đồi vào thành phố ăn trưa. Đường sá đông nghẹt người hơn bao giờ. Ba Thám Tử Trẻ quyết định bỏ qua quầy bán hamburger thịt khủng long, nhưng phải chờ gần một tiếng mới mua được hamburger ở quán cà phê Lazy Daze.
Sau khi ăn xong, ba thám tử đi lang thang trong thành phố, quan sát đám đông và ghi nhận các biện pháp đón mừng việc khai trương hang động của các chủ tiệm. Hang động sẽ được mở cửa vào ngày mai. Vài cửa kính được trang trí với hình vẽ bằng phân những người tiền sử mặc lông thú và cầm gậy. Trên một tấm hình, một người đàn ông tiền sử đang túm mái tóc một người phụ nữ tiền sử mỉm cười, lôi đi. Vài mặt tiền cửa hiệu có cờ xí trang trí màu đỏ, trắng, xanh.
Sau một hồi, Ba thám tử trẻ trở về bãi cỏ phía sau nhà MacFee. Ở đó cũng rộn ràng lăng xăng. Một người đàn ông cao gầy như cây sậy, mặc quần áo bảo hộ lao động cũ mèm, đang xếp hộp đồ nghề ra sau một chiếc xe lán, vừa làm vừa lầm bầm một mình.
- Không được, ông tuyên bố, không được tí nào. Rồi họ sẽ hối hận. Rồi mọi người sẽ thấy.
Ba thám tử bước lại gần hơn, nhìn thấy ngăn tủ âm tường trong xe lán, bếp lò nhỏ xíu xài khí butan và một cái tủ lạnh rất nhỏ. Có cái giường ngủ, chăn xếp gọn gàng. Ba thám tử thắc mắc không hiểu con người trông lôi thôi kia có sống trong xe lán không.
Người đàn ông chau mày lườm ba thám tử.
- Các cậu cũng sẽ không thích, nếu các cậu bị như thế! Ông tuyên bố thẳng thừng.
Rồi phía đằng sau có người la lên.
- Đồ ngốc!
Chính James Brandon đang la. Ông đứng bên ngoài tòa nhà không cửa sổ bằng gỗ đỏ vừa mới được xây bên mạn đồi.
- Cút đi khỏi đây! Newt MacFee hét lên từ ngưỡng cửa viện bảo tàng của mình.
MacFee đang cầm cây súng trong tay.
Brandon lui ra xa khỏi MacFee, hai nắm tay nắm chặt lại.
- Đồ vô học dốt nát! Brandon nói với MacFee. Bộ xương kia không phải của ông, cũng y như nước mưa không thể là của ông được, hay mặt trời cũng thế. Làm sao ông dám dùng mấy thứ trang trí vớ vẩn của ông bao vây mẫu sinh thể họ người kia!
- Ông đang vượt qua ranh giới rồi đó, MacFee nói. Cút đi khỏi đây, và nếu còn muốn được nhìn người tiền sử kia nữa, thì ngày mai trở lại và trả năm đô la như mọi người!
Brandon thốt lên một tiếng như mắc nghẹn rồi quay lưng bỏ đi.
MacFee mỉm cười.
- Bất đồng quan điểm một tí, - ông nói với ba thám tử.
- Không đúng! Không phải! Người đàn ông bên xe lán lầm bầm.
- Có ai hỏi ý kiến mày xem đúng sai bao giờ đâu, MacFee quát. Không phải việc mày. Này các cậu có muốn tôi cho các cậu vào xem thử trước khi tôi cho ra mắt chính thức ấy? Có thích xem thằng người tiền sử của tôi, và cái viện bảo tàng mà tôi đã xây cho nó không?
MacFee quay trở vào tòa nhà nhỏ, Ba Thám Tử Trẻ háo hức đi theo ông. Tuy nhiên khí vừa bước qua ngưỡng cửa, ba thám tử đứng lại, há hốc kinh ngạc.
Newt MacFee đã trang trí viện bảo tàng bằng hình chụp phóng to treo trên tường: hình xương và đầu lâu. Giữa những hình ảnh tương đối ghê tởm này, có những hình màu hấp dẫn và quen thuộc hơn: hơi nước bay ra từ lòng đất ở Lassen, thác nước đổ xuống từ vách đá ở Yosemite, sóng biển vỗ vào bờ gần Big Sur.
Trên bàn ngay giữa phòng, có mô hình đồng quê Californie ở các giai đoạn lịch sử địa chất khác nhau. Một cảnh trưng bày hầu như toàn bang bị sông băng che phủ. Ở cảnh khác, thì băng đã rút lui, để lại phía sau thung lũng và hồ. Có mô hình khu trại Da Đỏ với những tượng hình Da Đỏ nhỏ xíu gần như khoả thân, đang cúi xuống đống lửa, nấu ngô theo đủ thứ kiểu. Có cả mô hình người tiền sử đang đấu tranh với một con voi mamut khổng lồ.
- Tuyệt vời chưa? MacFee nói. Dĩ nhiên mấy thứ này là để khai vị, lấy le thôi. Cái cốt yếu nằm bên trong kia.
Đối diện với cửa vào, bốn bậc thềm dẫn lên cái mặt bằng nhỏ. Dưới mặt bằng là nền đất trần hông đồi và lỗ hở vào hang. Đèn chiếu sáng vào chỗ hở.
Hannibal, Bob và Peter băng qua phòng bảo tàng, bước iên bậc thềm, nhìn xuống hang và thấy người hóa thạch.
Hannibal thở hổn hển, còn Bob rùng mình.
Người tiền sử là một bộ xương không đầy đủ. Phần lớn là cái sọ, nâu đen, gớm ghiếc. Hai hốc mắt trống rỗng nhìn trân trân, còn quai hàm trên như nở một nụ cười rùng rợn. Không có quai hàm dưới. Còn được vài cái xương sườn nhô lên từ nền hang, ở phía dưới là một phần xương chậu và vài cái xương chân. Những khúc xương của một bàn tay nhỏ nằm khá gần cửa hang, như đang cố với tới một cái gì đó.
MacFee đã cho lấp đèn trên trần hang. Còn dưới đất, gần cái sọ thì có đống lửa trại giả lấp lánh. Gần bộ xương có tấm chăn kiểu bộ tộc Da Đỏ Navajo xếp lại và một cái rổ đan theo kiểu Da Đỏ.
Ngay lập tức, ba thám tử cảm thấy thông cảm cơn giận của Brandon. Cách trưng bày thật ngu ngốc. Nhưng tệ hơn nữa, có dấu chân khắp xung quanh bộ xương. Bộ hóa thạch quý báu đã xém bị giẫm nát khi người nào đó vào lắp ánh sáng và đống lửa giả.
- Tôi định để thêm một đôi dép mọi gần chỗ lẽ ra có chân của nó, nếu như nó có chân, MacFee nói. Sẽ trông y như nó vừa mởi cởi dép ra rồi nằm xuống ngủ. Nhưng tôi sợ hơi quá đáng.
Bob thốt lên lên một tiếng giật mình.
- Có lẽ thời đó họ chưa đi dép, phải không? MacFee hỏi.
Ba thám tử không trả lời. Ba bạn quay lưng lại với hang, đi qua trước một chỗ trưng bày những cái móc chìa khóa sáng bóng và người tiền sử bằng nhựa, để bán cùng với những chiếc áo thun có in dòng chữ “Citrus Grove, cái nôi của nhân loại.”
- Sẵn sàng hết rồi, Newt MacFee vừa nói vừa tắt đèn khóa cửa. Thằng John Du mục sẽ canh gác đây đêm nay, không cho ai vào làm lộn xộn lên hết.
- John Du mục à? Hannibal hỏi lại.
MacFee hất cằm về hướng người đàn ông gầy bây giờ đang ngồi trên cái giường bên trong xe lán.
- Chính hắn. Chúng tôi gọi hắn là John Du mục bởi vì hắn sống trong chiếc xe kia, thay vì có ngôi nhà thật.
MacFee trở về nhà. John Du mục bước ra khỏi xe lán.
- Được thôi, ông nói. Muốn tôi canh, thì tôi sẽ canh. Nhưng kẻ quá cố trong kia sẽ không thích chuyện này đâu. Tôi cũng sẽ không thích bị mọi người đến xem xương của tôi.
- Nhưng đã chết rồi thì làm sao mà biết được, Peter nhấn mạnh, ông ấy chết rồi mà? Người chết đâu có biết khi người ta nhìn mình.
- Có chắc không? John Du mục hỏi lại.
Chương 6
LỘN XỘN ĐÊM KHUYA
B
ữa ăn tối hôm đó vẫn lại là hamburger tại quán cà phê Lazy Daze. Sau đó ba thám tử mua kem ở chiếc xe tải nhẹ gần nhà ga. Rồi cả ba trở về gác xếp, nằm đó nhìn qua cửa sổ thấy mặt trời lặn xuống rồi trăng mọc lên. Khí trời hơi lạnh lạnh. Có những làn sương mù nổi lềnh bềnh trên bãi cỏ, các vì sao tắt đi. Cuối cùng ba thám tử lấy túi ngủ, nằm xuống ngủ.
Vào lúc nào đó trong đêm khuya lạnh lẽo, Hannibal tỉnh dậy nghe tiếng cửa mở. Có người vào kho thóc, một kẻ đang rên rỉ như một con thú.
Hannibal ngồi dậy lắng nghe.
Tiếng khóc rên dứt một hồi, rồi lại tiếp tục nữa.
Peter mở mắt ra, ngồi dậy.
- Có chuyện gì vậy? Peter thì thầm.
Hannibal bò đến đỉnh thang, nhìn xuống dưới bóng tối.
- Các cậu đó hả? Một giọng nói khàn khàn thốt lên. Có phải các cậu không?
Chính John Du mục. Vừa mới nói xong, thì ông ngã té, đè lên một cái gì đó trong bóng tối.
Bob hoảng sợ kêu lên. Peter mò mẫm tìm cây đèn pin bỏ gần túi ngủ. Khi tìm ra rồi, Peter trườn đến thang, rọi ánh đèn xuống sàn kho thóc.
John Du mục bị vấp trúng một thùng lon đồ hộp. Bây giờ ông đang bước đi lảo đảo, mắt nheo lại vì bị chói.
- Có phải các cậu không? John Du mục hoảng hốt la lên. Trả lời đi chứ, sao không nói gì cả?
- Tụi cháu đây, Hannibal nói.
Hannibal, Bob và Peter bước xuống thang. John Du mục đang run rẩy tựa vào chiếc xe tải cẩu mới của Newt MacFee.
- Có chuyện gì vậy? Hannibal hỏi.
- Cái... cái người chết! John Du mục nói. Tôi đã nói là hắn sẽ không thích bị tội có nói không?
- Sao vậy? Peter hỏi. Có chuyện gì xảy ra?
- Hắn đứng dậy bỏ đi rồi, hắn đã làm thế, John Du mục tuyên bố. Sẽ đáng đời lão Newt! Ngày mai sẽ không còn bộ xương nào ở đó cả! Lão sẽ nói tôi lấy đi mất, nhưng không hề có chuyện đó. Hắn tự bỏ đi! Tôi đã nhìn thấy hắn đi mà!
Cửa kho thóc đang mở, ba thám tử nhìn ra ngoài, viện bảo tàng nhỏ chỉ thấy được một chút dưới ánh trăng. Cửa có vẻ đóng kín.
- Chắc là chú nằm mơ, Bob nhẹ nhàng nói.
- Không, người đàn ông lắc đầu. Tôi đang ở trong xe lán, thì nghe tiếng cửa mở. Tôi nhìn ra, thấy con người tiền sử đó. Hắn khoác tấm lông thú, giống như bộ da của một con thú hắn vừa mới giết. Tôi nhìn thấy được mắt hắn. Mắt rất ghê, cứ nhìn thẳng phía trước, sáng rực. Còn tóc thì dài, bù xù. Hắn đi qua trước mặt tôi, chạy thẳng băng qua bãi cỏ.
John Du mục nhắm mắt lại như để tống đi khỏi trí nhớ hình ảnh kinh hoàng kia.
- Để tụi cháu ra xem, Hannibal nói.
Tất cả đi chung với nhau, như thể sợ con người tiền sử thật sự có khả năng đứng dậy, mặc bộ lông thú rồi băng qua đồng cỏ.
Nhưng cửa viện bảo tàng đóng kín. Khi Hannibal xoay thử tay cầm cửa, thì Newt MacFee xuất hiện trước cổng nhà.
- Có chuyện gì vậy? MacFee la lớn. Các cậu đang làm gì vậy?
- Chỉ xem xét thôi, Hannibal trả lời. Có rắc rối và... người canh gác của chú đã nhìn thấy một ai đó băng qua cánh đồng cỏ.
Thalia MacFee xuất hiện trước cổng. Newt bước xuống các bậc thềm, chậm chạp băng qua cánh đồng đến viện bảo tàng.
- Chuyện gì xảy ra vậy? MacFee hỏi John Du mục. Tay Brandon điên khùng đến đây rình mò nữa à?
- Chính người tiền sử, John Du mục trả lời. Nó bỏ đi rồi!
- Cái gì? MacFee không tin nhìn lại rồi to giọng hét lên. Thalia! Lấy chìa khóa!
Thalia MacFee chạy đến với xâu chìa khóa. Newt MacFee mở cửa ra, bật đèn lên. MacFee băng qua phòng trưng bày. Đèn sáng lên ở phòng dưới, MacFee nhìn vào kho báu của mình.
Ba thám tử nhìn qua lưng MacFee, thấy hai hốc mắt trống rỗng đang nhìn lại, tàn tích của cái miệng đang mỉm cười. Ba thám tử nhìn thấy xương sườn lòi ra từ lớp đất được quét phẳng, và một bàn tay thò ra.
MacFee quay sang John Du mục.
- Mày điên rồi! MacFee nói. Bộ xương vẫn còn đây. Anh bị sao thế?
- Nó bỏ đi rồi mà! John Du mục vẫn nói. Tôi nhìn thấy nó đi. Nó khoác tấm lông thú y như loại áo choàng mà người Mê-hi-cô hay mặc, nhưng bằng lông thú! Và nó có tóc! Nó còn sống!
- Câm mồm! MacFee quát. Bộ muốn cả thành phố lên đây sao?
MacFee tắt đèn trong hang động, bước ra khỏi viện bảo tàng. Tất cả đi theo MacFee.
- Đứng dậy, bỏ đi hả? MacFee nói.
MacFee cười khinh bỉ, khóa cửa viện bảo tàng lại, trở vào nhà. Eleanor đang chờ đó, ngay dưới chân các bậc thềm.
- Eleanor, vào nhà, MacFee ra lệnh. Không có gì đâu. Thằng John Du mục điên khùng bị ảo giác thôi.
MacFee quay lại.
- John, lo mà mở mắt ra nhé! Tôi không trả tiền anh để anh ngủ đâu đấy!
MacFee và Eleanor biến mất vào nhà. John Du mục lầm bầm một cái gì đó rồi lấy một cái ghế xếp từ trong xe lán ra, đặt giữa đường giữa xe lán và viện bảo tàng. Rồi John lấy một cây súng ra, ngồi xuống.
Ba Thám Tử Trẻ trở về gác xếp.
- Chắc là nằm mơ thôi, Peter nói khẽ.
- Trông ông già không được sáng trí lắm, Bob nói.
- Phải, Hannibal đồng tình, nhưng đâu có nghĩa là ông ấy bị ảo giác?
- Đúng. Nhưng ai cũng có thể bị nằm mơ rồi không còn biết chắc chuyện gì đã thật sự xảy ra, chuyện gì không có thật, Bob nói.
- Ông ấy có vẻ tự tin lắm, Hannibal nhận xét.
- Còn cánh cửa? Khóa mà, Peter nhắc.
- Có thể có người có chìa khóa, Hannibal nói.
Hannibal chồm dậy và nhìn thấy John Du mục đứng dậy khỏi ghế, nhìn qua cánh đồng. John kẹp súng dưới tay, đầu nghiêng sang một bên như để lắng nghe.
John trở vào xe lán trùm chăn quanh mình, ngồi trở xuống ghế.
- Cũng có thể chỉ là một giấc mơ, Hannibal nói khẽ. Nhưng John Du mục tin chắc là người tiền sử, và mình nghĩ John đang sợ.
Peter lo lắng nhìn ra cửa sổ xuống cánh đồng sáng trăng.
- Mình rất thông cảm với ông ấy, Peter nói. Mình mà thấy một người tiền sử đi lang thang quanh đây, thì mình sẽ phát khiếp!
Chương 7
MỘT BUỔI SÁNG BẬN RỘN
H
annibal ngủ dậy trước và là người đầu tiên bước ra khỏi kho thóc vào sáng thứ bảy. Dưới ánh nắng sáng sủa, trông khu rừng không còn tối tăm và huyền bí nữa. Hannibal tiến hành băng qua bãi cỏ về hướng khu rừng. Thám tử trưởng bước chậm chạp, mắt luôn nhìn xuống đất, nhưng không thấy dấu chân nào. Những vệt đen tối mà Hannibal nhìn thấy trên cỏ tối hôm qua đã biến mất cùng với lớp sương ban mai.
Hannibal đi được khoảng ba chục mét thì để ý một chỗ cỏ khá mỏng, thấy được đất nâu qua lớp cỏ. Thám tử trưởng quỳ xuống, rùng mình kích động.
Hannibal vẫn đang ngồi đó khi Peter đến bên cạnh.
- Cái gì vậy? Peter hỏi. Cậu tìm thấy gì à?
- Một dấu chân, Hannibal trả lời. Rất gần đây, có kẻ đã đi qua cánh đồng này: một kẻ đi chân không!
Peter cúi xuống nhìn dấu chân, rồi đứng dậy nhìn khu rừng, mặt mày tái mét.
- Chân không hả? Peter hỏi lại. Đi... đi trên đất trần này à? Chẳng lẽ John Du mục đã thật sự nhìn thấy một cái gì đó?
Peter nhìn khắp xung quanh.
Hannibal không nói gì, bỏ đi về hướng rừng. Peter nuốt nước miếng đi theo. Hai thám tử chú ý tìm thêm dấu hiệu của kẻ đã đi qua con đường đó, nhưng đám cỏ dày và dài, và hai thám tử đi đến bờ rừng mà không thấy thêm dấu chân nào.
Dưới cây rừng có lối đi, nhưng nền đất ở đó phủ một lớp lá kim thông.
- Sẽ không thấy dấu chân ở đây đâu, Hannibal nói, nhưng nếu đi sâu thêm một tí...
- Ê, khoan đã! Peter kêu lên. Không nên đi vào đó bây giờ! Lỡ vẫn còn ai trong đó... thì... thì... mà nếu bọn mình muốn được ăn sáng, thì nên đi ngay bây giờ. Quán cà phê sẽ lại đông nghẹt người! Đi thôi, nếu không, bọn mình sẽ bị chết đói!
- Peter ơi, nhưng có thể có một cái gì đó quan trọng!
Hannibal nói.
- Quan trọng đối với ai? Peter đáp. Nào, Babal ơi. Để sau này, bọn mình sẽ tìm kiếm trong rừng.
Hannibal miễn cưỡng để cho Peter lôi trở về kho thóc. Bob vừa bước ra khi Hannibal và Peter về đến. Đúng lúc đó Newt MacFee xuất hiện trước cửa nhà.
- Chào, Newt kêu. Ngày hôm nay trời đẹp quá phải không? Sẽ có rất đông người dự buổi lễ khai trương viện bảo tàng.
MacFee hài lòng mỉm cười.
- Ê, John! Newt réo.
John Du mục bước ra khỏi xe lán, tay cầm tô thức ăn.
- Còn thấy thêm người tiền sử nào tối hôm qua nữa không?
MacFee cười, nhưng John Du mục chau mày.
- Thấy một thôi là đủ rồi, John nói rồi trở vào trong xe.
MacFee vẫn thản nhiên réo theo.
- Đừng có bỏ đi đâu hết, John nhé. Ăn sáng xong tôi cần anh giúp sửa vài thứ trong viện bảo tàng. Sau đó anh phải ở lại đây trông coi chỗ này trong khi chúng tôi tiến hành buổi lễ khai trương ngoài công viên.
Newt MacFee trở vào nhà. Ba thám tử đi xuống con đường chính để đi ăn sáng, vẫn có rất đông người chờ trước quán cà phê Lazy Daze. Khi được xếp chỗ ngồi, thì ba thám tử đã đói run.
Khi cô hầu bàn ghi những món ba thám tử gọi, thì có tiếng kèn đồng của hành khúc Sousa. Ba thám tử nhìn qua đám người đi bộ và hàng xe đậu kín con đường. Một nhóm nhạc công trẻ đang tổng diễn tập trong công viên.
- Chắc là băng nhạc ở trường học địa phương, Bob đoán.
Đám đông trên lề đường thưa lại được khoảng một phút. Hannibal, Bob và Peter nhìn thấy được đồng phục rực rỡ đỏ, trắng, vàng kim của băng nhạc. Xe tải của nhiều hăng truyền hình đậu ở phía sau công viên. Một người đàn ông áo sơmi tay ngắn đang táy máy cái micro trên bục.
Ba thám tử vừa mới bắt đầu ăn sáng, thì tiến sĩ Terreano bước vào quán cà phê. Nhà miễn nhiễm học Hoffer, cũng đi cùng, đang khịt mũi vào chiếc khăn tay. Hai người đàn ông nhìn khắp quán, rồi Terreano thấy Hannibal và mỉm cười.
- Ta mời hai tiến sĩ lại ngồi cùng bàn nhé? Hannibal hỏi.
- Đương nhiên, Peter trả lời. Hỏi thử xem hai tiến sĩ có chịu ngồi chung với bọn mình không.
Hannibal bước ra cửa quán, ngỏ lời mời. Hai nhà khoa học vui vẻ nhận lời, đi theo Hannibal về bàn.
- Các cậu tử tế quá, Terreano vừa nói vừa ngồi xuống với bộ mặt buồn bã cam chịu. Thành phố này như cái nhà thương điên. Có lẽ sẽ tiếp tục là một nhà thương điên cho đến hết mùa hè, khi du khách trở về nhà.
Terreano cho một miếng bơ lên dĩa, rồi nói tiếp.
- Thường chúng tôi ăn sáng ở hội, nhưng ngày hôn nay không nên ở gần anh James Brandon. Tôi rất thông cảm với cảm xúc anh ấy, tất nhiên rồi. Câu chuyện này thật khó chịu đối với anh ấy.
Elwood Hoffer nhảy mũi rồi mỉm cười.
- Tôi bị sốt cỏ khô, ông giải thích với ba thám tử rồ quay sang Terreano. Anh Phil, anh là người rất hay thông cảm, nhưng riêng tôi cho rằng lẽ ra anh không nên để Brandon gọi anh là kẻ phản động đờ đẫn.
- Brandon là người dễ bị kích động, Terreano dịu dàng nói. Hiện anh ấy đang bị thất vọng đè nén. Thử tưởng tượng xem, tìm thấy một bộ xương hóa thạch gần như đầy đủ, mà lại không được nghiên cứu đàng hoàng. Mà anh ấy lại muốn biết xem những gì mới tìm thấy có thể làm thay đổi cách suy nghĩ của ta về nguồn gốc loài người hay không. Tôi không nghĩ là sẽ có thay đổi gì, tôi cho rằng sinh thể nhỏ thuộc họ người trong hang động kia chỉ là một ngõ cụt tiến hóa nữa, nhưng chính Brandon đã tìm thấy nó và lẽ ra Brandon phải có được cơ may nghiên cứu đánh giá. Chính tôi cũng sẽ nổi giận nếu như tôi có được một phát hiện quan trọng mà sự việc lại chuyển biến như thế.
- Tiến sĩ Brandon muốn làm gì với bộ xương ạ? Bob hỏi. Cháu từng được nghe nói đến cách xác định niên đại bằng cácbôn-14.
- Cách xác định niên đại bằng cácbôn-14 không phải là cách thức duy nhất để tìm hiểu xem một cá thể cổ xưa được bao nhiêu. Có những cách xác định niên đại khác nữa, và có nhiều cách để đánh giá xem một sinh thể gần với người đến mức độ nào. Ta luôn có vấn đề với việc này, bởi vì không ai có thể nói chính xác xem điều gì khiến một sinh thể trở thành người. Đó là vấn đề đi thẳng trên hai chân, hoặc vấn đề kích thước bộ não so với phần cơ thể còn lại, hoặc bộ răng...
- Răng à? Bob hỏi lại. Răng thì sao ạ?
- Bộ răng người bố trí trên hàm thành hình cung, - Terreano trả lời. Bộ răng của các loại linh trưỏng khác, như khỉ, thì xếp thành hình chữ u, với hai cạnh song song nhau. Có khác biệt về kích thước răng hàm nữa và...
- Cô hầu bàn mang đồ ăn sáng cho ta ra kìa, Hoffer nói. ơn Chúa.
- Xin lỗi, Terreano nói, tôi không có ý gây chán nản cho anh đâu, Elwood à.
- Cháu rất thích nghe, Bob vội vàng tuyên bố. Cháu hiểu tại sao tiến sĩ Brandon giận dữ đến thế. Nếu Newt MacFee cứ làm lộn xộn với người đàn ông tiền sử thì...
- Mà ông ấy sẽ như thế, Terreano nói. Mà chưa chắc gì là đàn ông.
- Anh Phil ơi, không nên bàn bạc chi tiết về khía cạnh này, Hoffer nói. Tôi không hiểu tại sao có được kết luận về vấn đề này lại quan trọng đến thế đối với một nhóm đông nhà khoa học.
Terreano mỉm cười.
- Công trình nghiên cứu của tiến sĩ có tính ứng dụng hơn, Terreano nói với ba thám tử. Nếu tiến sĩ Hoffer chứng minh được rằng nguyên nhân chứng ợ nóng là do cơ thể nổ lực chống lại bệnh cảm lạnh bình thường, thì tất cả chúng ta sẽ rất mang ơn.
- Rất có thể chứng ợ nóng được gây ra bởi một phản xạ miễn nhiễm, Hoffer cương quyết nhận xét. Tôi tin rằng những suy nhược trong hệ miễn nhiễm của ta gây ra phần lớn những rối loạn mà ta bị, còn bộ gen, mà ta đã thừa hưởng, chỉ chịu trách nhiệm về một vài vấn đề ít ỏi thôi, bất chấp những gì tiến sĩ Karl Birkensteen có thể nói...
Terreano buồn bã nhìn xuống khi nghe nhắc đến tên nhà di truyền học quá cố.
- Một con người tài giỏi, Terreano nghiêm trang nói. Một mất mát to lớn.
- Có thể, Hoffer nói. Nhưng kỹ thuật di truyền học cũng nguy hiểm không kém gì chia tách nguyên tử. Một khi đã bắt đầu rồi, thì biết dừng ở đâu?
- Tiến sĩ Karl Birkensteen thật sự hy vọng sẽ cải thiện được con người à? Hannibal hỏi. Hôm qua, chị Eleanor có kể với tụi cháu rằng ông ấy đã bắt đầu tạo ra được những chú tinh tinh thông minh hơn. Ông ấy thật sự tin rằng sẽ tạo ra được những con người thông minh hơn à?
Terreano có vẻ bối rối.
- Tôi không nghĩ ông ấy mường tượng đến một cái gì đó triệt để như một chủng tộc siêu nhân đâu, nhưng ông ấy nghĩ rằng có quá nhiều người sinh ra để sống ở một mức quá cơ bản. Ông ấy nghĩ rằng một con người, có bộ não kỳ diệu, không nên bỏ ra mười hai, mười sáu năm ở trường chỉ để học những kiến thức giúp anh ta kiếm sống.
- Láo xược! Elwood Hoffer thốt lên. Dám can thiệp vào công việc của tạo hóa như thế có thể gây ra những hậu quả kinh khủng. Những con thú của Karl Birkensteen là minh chứng cho việc này. Ông ấy bắn đủ thứ loại tia vào những con đực và con cái, rồi ông ấy nhét dồn dập đủ thứ hóa chất cho chúng. Ông ấy dạy được cho ngựa ở một chừng mực nào đó, đúng là tinh tinh có bộ não to và nhanh nhẹn. Tuy nhiên, tuổi thọ trung bình của chúng chỉ rất nhỏ so với động vật bình thường sống trong tình trạng bị giam cầm.
- Như thể mây con thú kia sống nhanh quá, Terreano nói. về cuối, Karl Birkensteen cố gắng làm chậm lại quá trình lão hóa. Ông ấy đã chế tạo được các loại hợp chất mà ông ấy tiêm cho tinh tinh theo nhiều cách thức, ông ấy nghiên cứu các loại hóa chất mà não tiết ra để gây ngủ hoặc gây thức.
Công trình nghiên cứu của ông ấy rất táo bạo và độc đáo. Chắc là ông ấy sắp được nhận Giải thưởng Spicer, là khoản tiền mà hội đồng quản trị Hội Spicer thưởng hằng năm cho nhà khoa học tại gia có công trình có thể có ích nhất đối với nhân loại. Nếu Karl Birkensteen thành công, cho dù một phần thôi, thì ông ấy đã có thể có được hơn một triệu đô la để xài tùy thích.
- Bây giờ thì sẽ như thế nào? Peter hỏi. Ai sẽ nhận được khoản tiền đó?
Terreano nhún vai.
- Ai biết được? Có thể tiến sĩ Hoffer sẽ chữa hết các bệnh loét dạ dày của ta, hoặc có thể James Brandon sẽ đưa ra những quan điểm mới mẻ về nguồn gốc loài người, hoặc...
- Nói về Brandon, Hoffer ngắt lời, nhìn ra kia đi.
Tất cả quay ra cửa sổ, nhìn thấy Brandon đang bước trên lề đường, tránh những người đi bộ khác, ông đang đi thẳng đến quán cà phê.
Terreano vẫy tay khi Brandon bước vào. Brandon lấy một cái ghế trông ở bàn bên cạnh, ngồi xuống cạnh Hannibal.
- Xong rồi! Brandon đột ngột thông báo. Tôi đã gọi điện thoại đi Sacramento. Tôi sẽ gọi lại sau giờ ăn trưa, lúc ông thống đốc rảnh để nói chuyện.
- Ông thống đốc sẽ đưa người tiền sử của anh ra khỏi hang động kia hả? Terreano hỏi.
Hoffer ngạc nhiên nhìn Terreano.
- Tôi cứ tưởng hai anh không nói chuyện với nhau.
- Đó là trước kia, Terreano đáp, James, anh nghĩ ông thống đốc sẽ giúp thật hả?
- Sao lại không? Brandon nói. Nếu nhà nước có thể chiếm hữu tài sản để xây đường sá trường học, thì sao không thể chiếm hữu để cứu lấy bộ xương hóa thạch kia? Tôi sẽ yêu cầu thống đốc tuyên bố toàn khu vực ấy là di tích lịch sử. Rất có thể còn nhiều hóa thạch trong vùng đồi kia, sẽ là một trọng tội nếu để mất các hóa thạch ấy chỉ vì tên MacFee muốn cho dân chúng vào để thu năm đô la đầu người!
Brandon ngưng nói. Từ công viên phía bên kia đường, tiếng kèn lại vang lên.
- Mười giờ kém năm, Hoffer nói. Buổi lễ sắp bắt đầu bây giờ, rồi khi xong, đám đông sẽ hành quân trên con đường để rhìn chằm chằm vào con người tiền sử của anh. Trễ quá rồi, Brandon ơi. Chuyện đó sẽ xảy ra, và anh không thể làm gì được để ngăn cản họ!
Chương 8
SỰ KIỆN KINH NGẠC
B
uổi lễ khai trương hang động bị trễ hơn dự tính. Khi Brandon, Terreano và Hoffer đi đến công viên cùng ba thám tử trẻ, thì MacFee đã ngồi sẵn trên bục cùng Thalia bên cạnh. Thalia mặc áo đầm in hoa văn trắng đen, đeo găng tay dài tận cùi chỏ. Ngồi cạnh vợ chồng MacFee có một người đàn ông gầy nhom mặc áo vét bằng vải sọc nhăn trông héo hon dưới ánh nắng mặt trời.
- Tay đó là Harry Chenoweth, thị trưởng, là chủ nhân hiệu thuốc, Terreano thì thầm với Hannibal. Ông ấy sẽ chủ trì buổi lễ, ông ấy rất thích đọc diễn văn.
Một người mặc bộ complê màu sẫm với cổ áo mục sư đến cùng ông bà MacFee và ông thị trưởng. Terreano bảo đó là vị linh mục Nhà thờ thành phố.
Một vài nhân vật quan trọng khác lên ngồi gần linh mục. Terreano nhận ra ông chủ nhà hàng Thợ săn Vui vẻ và người điều hành khách sạn. Người điều hành siêu thị cũng có mặt trên đó. Cũng như trợ lý điều hành, người phụ nữ làm chủ một cửa hàng bán quà lưu niệm. Chủ quán cà phê Lazy Daze đang hấp tấp băng qua đường, còn chủ garage đã đến ngồi ở hàng phía sau người điều hành siêu thị.
- Tất cả đã đóng cửa tiệm, Terreano nói. Cả thành phố có mặt ở đây ngày hôm nay. Người tiền sử có thể là cơ hội cho thành phố này phát triển. Phần lớn các cơ sở làm ăn đều sống lây lất qua ngày. Bây giờ có cơ hội để kiếm thật nhiều tiền. Không có ai trong thành phố mà không vui về việc này.
Hannibal nhìn quanh công viên thây gần như mọi tổ chức công dân đều có đại diện. Có nhóm Hướng đạo nam, và Hướng đạo nữ. Có nhóm Shriners, tuyệt đẹp với mũ màu đỏ, nhóm Elks, vui nhộn cầm cờ mang tên nhóm. Những người đàn ông trẻ từ phòng Thương Mại đeo rubăng đặc biệt trên vạt áo. Và có vài người đàn ông mặc complê đen, đội mũ lông trắng.
Ông bán kem đã xoay sở đậu được chiếc xe gần công viên và đang tích cực kinh doanh. Gần ông bán kem là một chàng trai trẻ cầm một đống bong bóng bơm khí hêli, được một bầy con nít bu quanh.
Khi công viên dường như không thể nào đông đúc hơn nữa, ông thị trưởng đứng dậy, vỗ vỗ vào micro, rồi đưa hai tay lên để ra hiệu im lặng.
Hannibal liếc nhìn Eleanor Hess. Eleanor đang theo dõi, vẫn với ánh mắt lo lắng như mọi khi.
- Thôi nào! ông thị trưởng yêu cầu. Xin tất cả hãy ổn định chỗ ngồi để ông Robertson, linh mục Nhà thờ thành phố, xin Chúa ban phước lành cho dự án mới của chúng ta. Sau đó băng nhạc của Trường trung học Centerdale, xin một tràng pháo tay cho băng nhạc này, sẽ dẫn đoàn trên con đường đi đến viện bảo tàng người tiền sử. Rồi cô Patty Ferguson của ta, quý vị đã từng biết đến cô như Hoa Hậu Quả Bơ ở hội chợ năm ngoái, sẽ cắt băng khánh thành hang động.
Ông thị trưởng dừng, nhìn đám đông.
- Patty ơi, cô đang ở đâu? ông gọi.
- Cô ấy đây! Có người la lên.
Từ đám đông, một cô gái thanh mảnh tóc vàng tiến lên. Đám đông hô hào khi cô bước lên khán đài.
Đột nhiên có một âm thanh dồn dập, rồi các vòi phun nước tưới cỏ trong công viên tự nhiên bật lên!
Mọi người la hét. Có người gào lên định bỏ chạy. Nhưng họ không thể. Đám đông quá đặc nghẹt.
Hannibal cảm nhận cú sốc của nước lạnh trên mặt và tay, rồi quần áo ướt sũng đi. Thám tử trưởng quay đầu định la một cái gì đó với Peter, nhưng Peter đột nhiên ngã quỵ sang một bên, mắt nhắm lại.
Đầu gối Hannibal sụm xuống, Hannibal không còn đứng được nữa. Thám tử trưởng cảm thấy như đang nổi, rồi chìm xuống như thể bị vùng lõm giữa hai ngọn sóng cuốn đi. Thậm chí Hannibal không kịp hoảng sợ lên trước khi bị bóng đen trùm lấy.
Mọi thứ rất lạnh. Hannibal ngửi thấy mùi đất. Hannibal bị chuột rút và bị một cái gì đó làm ngứa ngáy mũi. Hannibal mở mắt ra, thấy mình đang nằm dưới đất, mặt úp trên cỏ. Các vòi tưới bãi cỏ đã tắt.
- Cái gì... ? Một giọng nói quen thuộc hỏi.
Hannibal tự nâng mình dậy trên một cùi chỏ, rồi nhìn thấy Brandon. Đầu Peter đang nằm trên đùi Brandon.
Có tiếng rì rào và la hét, cả một công viên đầy người đang cố ngồi dậy. Đồng hồ trên tháp Nhà thờ thành phố bắt đầu gõ.
Hannibal nhìn lên tháp đếm tiếng chuông. Mười một giờ! Không hiểu sao, bằng một cách nào đó, Hannibal - và cả đám đông - đã bị bất tỉnh trong suốt hơn bốn mươi phút.
Rồi Hannibal nhớ lại: hệ thống phun nước phòng cháy tự động. Hẳn có kẻ đã cho một chất thuốc nào đó vào hệ thống phun nước phòng cháy tự động để làm cho cả thành phố ngủ!
Vài đứa bé đang khóc lóc ở một góc công viên, còn anh chàng bán bong bóng thì đang nhìn lên trời. Bong bóng đã bay đi mất - mất hết.
Hannibal cố đứng dậy. Cậu giúp Bob một tay khi John Du mục loạng choạng bước trên con đường từ nhà MacFee đến.
- Người tiền sử! John Du mục khoa tay múa chân hét lên với giọng khàn hơn bình thường. Hắn đi mất rồi! Có một cái gì đó đến và mang hắn đi rồi!
Chương 9
HANNIBAL SUY LUẬN
S
uốt vài tiếng, cánh đồng gần nhà Newt MacFee có một cảnh tượng náo nhiệt hỗn loạn. Người ở phòng cảnh sát trưởng chụp hình và rắc bột trong viện bảo tàng tìm dấu vân tay. Nhân viên các đài truyền hình phỏng vấn Newt và Thalia MacFee trong khi cặp vợ chồng này đang tức điên lên. Các phóng viên truyền hình còn phỏng vấn cả James Brandon. Trông tiến sĩ khá buồn chán. Truyền hình có nói chuyện với ông thị trưởng thành phố và vài thương nhân khác. Các phóng viên cũng phỏng vấn luôn John Du mục.
- Có một cái gì đó đến! John Du mục nói với phóng viên truyền hình. Tôi đang canh gác theo dõi, đúng theo chỉ thị của ông Newt, tôi nghe tiếng động phía sau lưng, tôi... tôi quay lại...
John Du mục thu mình lại, nhìn qua vai.
- Cái vật ấy! John Du mục nói. Một vật kinh khủng với con mắt to nhìn trân trân và... có ngà y như ngà voi! Không có gì giống người cả! Rồi tôi nằm dưới đất, cửa viện bảo tàng mở, khi tôi nhìn vào bên trong, thì con người chết tội nghiệp kia đã đi mất rồi!
- Ông ấy say rượu! Một người trong đám đông nói.
Nhưng John Du mục không hề uống rượu, còn người tiền sử thì đã thật sự biến mất.
Rốt cuộc, người ở đài truyền hình bỏ đi. Cảnh sát trưởng để lại hai người canh gác, rồi cũng lái xe đi về. Những người đứng xem rút dần hết. MacFee đứng bên kho thóc nói chuyện với người cảnh sát ở lại canh gác. Ba thám tử trẻ, đang lảng vảng gần đó, bước đến viện bảo tàng.
- Các cậu ơi, người cảnh sát đứng gần cửa viện bảo tàng nói. Các cậu không vào được.
Hannibal liếc nhìn cánh cửa hé mở.
- Kẻ đánh cắp bộ xương có chìa khóa, đúng không? Thám tử trưởng hỏi.
Người cảnh sát có vẻ ngạc nhiên, rồi nhìn cánh cửa.
- Cánh cửa không hề bị hư hại gì, Hannibal nói. Khung cửa cũng vậy. Nếu kẻ ngoại xâm phải bẻ khóa, thì sẽ còn lại dấu vết trên cửa và trên khung cửa.
Cảnh sát mỉm cười, rồi bước sang một bên.
- Được rồi Sherlock Holmes ơi, cảnh sát nói. Thử xem còn nói được gì cho tôi nghe nữa nào?
Hannibal bước vào viện bảo tàng cùng Bob và Peter.
Tòa nhà nhỏ không có gì bị xáo trộn ngoại trừ những vệt đen nơi đội lấy vân tay đã làm việc. Hannibal nhìn khắp, rồi băng qua phòng, nhìn xuống hang động có chiếu sáng. Lớp bẩn dưới nền hang bị xáo trộn ở chỗ từng có bộ xương, nhưng những chỗ còn lại vẫn phẳng.
Rồi Hannibal để ý thấy một dấu chân bên cạnh chỗ đã trưng bày bộ xương.
- Dấu chân này là của một kẻ mang giày đế cao su, Hannibal nói. Newt MacFee đi ủng cao bồi, John Du mục đi ủng có dây thắt với đế da. Do chỉ có MacFee và john Du mục từng vào đây trước khi vụ trộm xảy ra, thì suy ra rằng dấu chân này là của kẻ đã lấy trộm bộ xương. Tên trộm đi giày thể thao có hình ngôi sao ở giữa gót và ở đế giày.
Người cảnh sát gật đầu.
- Chúng tôi cũng đã suy ra như thế. Thợ chụp ảnh đã chụp dấu chân này. Ta không thể đi lục lạo tủ để tìm ra đôi giày tạo ra dấu vết này, nhưng nên có hình sẵn để làm chứng cớ.
Hannibal lấy thước cuộn trong túi ra, đo dấu chân. Nó dài hai mươi tám phân.
- Một người khá to lớn, Hannibal nói.
Người cảnh sát mỉm cười.
- Cậu rành nghề quá. Mai mốt, cậu sẽ trở thành thám tử hả?
- Hiện cháu đang là thám tử, Hannibal nói.
Thám tử trưởng không buồn giải thích nhận xét này. Thay vì đó, Hannibal ngạc nhiên nhìn xung quanh.
- Tại sao? Hannibal nói. Đó chính là điều cháu không hiểu. Có kẻ đã nhọc công rất nhiều. Rõ ràng có kẻ đã cho một thứ thuốc nào đó vào hệ thống phun nước tự động để làm cho cả thành phố ngủ đi...
- Chúng tôi cũng nghĩ thế, cảnh sát nói. Có người đã lấy mẫu nước từ các vòi phun nước mang về phòng thí nghiệm. Nước trong bể chứa phía trên thành phố cũng sẽ được thử nghiệm luôn. Nước được cấp từ bể chứa đó.
- Lạ thật, Hannibal nói. Y như một bộ phim khoa học viễn tưởng. Trong khi cả thành phố đang ngủ say, tên trộm đã khoác một bộ hóa trang kinh dị, làm cho John Du mục khiếp sợ và có lẽ đã xịt thuốc ông ấy để ông ấy bất tỉnh. Hoặc có thể hơi nước từ vòi phun nước cũng đã tác động đến John Du mục. Rồi tên trộm đột nhập vào viện bảo tàng, lấy bộ xương đi.
Còn lại câu hỏi là tại sao? Bộ xương cũ kỹ tự nó không có giá trị như vàng hay nữ trang. Bộ xương chỉ có tầm quan trọng khi dính liền với nơi đã được tìm thấy. Hai người quan tâm nhiều nhất đến bộ xương đã bị đánh cắp là MacFee và Brandon, mà cả hai đã bất tỉnh khi vụ trộm xảy ra.
- Một vụ án kỳ lạ, người cảnh sát đồng tình, và thậm chí chúng tôi cũng không biết gọi tội phạm này như thế nào nữa đây. Có phải là một vụ trộm cướp hệ trọng, và cần phải phái thật nhiều tiểu đội để điều tra, lần mò mọi manh mối? Hay chỉ là một vụ ăn cắp vặt, hay thậm chí một trò đùa tinh ác?
- Chú nghĩ cảnh sát sẽ tìm ra được tên trộm không? Bob hỏi.
- Khó mà tìm ra nổi, người cảnh sát trả lời có vẻ nản lòng. Các cậu biết không, có rất nhiều vụ trộm không bao giờ giải ra được. Vì có quá nhiều vụ, mà không đủ người. Tôi đoán rằng vụ bộ xương này rồi sẽ chỉ được lưu lại và hết.
Ba thám tử buồn bã im lặng.
Người cảnh sát bước ra cửa.
- Thôi, bây giờ các cậu nên ra về đi.
Ba thám tử ngoan ngoãn đi ra, băng qua bãi cỏ thuộc đất của Newt MacFee. Gần kho thóc, Thalia đã ra cùng với Newt và người cảnh sát thứ nhì. Có cả Eleanor, vừa mới lấy thư. Eleanor đang cầm một xấp nhỏ gồm báo chí và thư.
Newt MacFee đang cầm một phong bì và một bức thư. Khi đến gần hơn, Ba Thám Tử Trẻ thấy được rằng thư được viết bằng chữ in hoa to xanh lục.
Newt MacFee tái xanh. Ông nhìn thư, nhìn cảnh sát rồi nhìn vợ.
- Có... có biết thư nói gì không? MacFee giận dữ hỏi. Đọc đi! Đọc cái này đi!
Newt MacFee đưa thư lên để cho tất cả đọc:
TÔI ĐANG GIỮ NGƯỜI TIỀNG SỬ CỦA ÔNG VÀ SẼ GIỮ KỸ CHO ĐẾN KHI NÀO TÔI CÓ ĐƯỢC 10.000 ĐÔ LA. NẾU ÔNG KHÔNG ĐƯA TIỀNG cho tôi, thì TÔI SẼ MANG NGƯỜI TIỀNG SỬ ĐẾN MỘT NƠI ÔNG SẼ KHÔNG BAO GIỜ TÌM RA. ÔNG SẼ CÒN NHẬN ĐƯỢC TIN TÔI NỮA.
- Bây giờ thì ta đã biết, Hannibal nói. Ta đã hiểu tại sao có kẻ đã ăn cắp một đống xương: để đòi tiền chuộc!
Chương 10
DẤU CHÂN BỐN NGÓN
C
ảnh sát lấy thư đòi tiền chuộc khỏi tay MacFee, nhìn dấu bưu điện trên phong bì, rồi đọc lại thư.
- Tên trộm không giỏi đánh vần lắm, người cảnh sát nói, hắn viết sai đến ba từ. Nhưng hắn biết tính xa. Bức thư được gửi ngày hôm qua tại Centerdale.
Người cảnh sát cho thư vào túi áo.
- Ông MacFee ơi, ai giữ chìa khóa viện bảo tàng?
Newt MacFee lấy một chùm chìa khóa ra khỏi túi.
- Tôi giữ. Chìa khóa bảo tàng đây, MacFee nói. Chìa khóa duy nhất còn lại treo trong nhà bếp.
Eleanor chạy trở vào nhà, một hồi sau quay trở ra để báo rằng chìa khóa viện bảo tàng không còn treo trong nhà bếp nữa.
- Trên chìa khóa có nhãn, Eleanor nói, có lẽ nhờ vậy mà tên trộm đã biết rằng...
- Có lẽ thế, viên cảnh sát nói. Ông không khóa cửa sau nhà mà, phải không? Dân thành phố này luôn để cửa nhà mở. Tên trộm chỉ cần bước vào, lấy chìa khóa. Cho dù ông có khóa cửa, thì hắn vẫn có thể vào nhà bếp được. Ai cũng có thể mở ra cái khóa cửa kiểu cũ kia với một chìa khóa vạn năng, hoặc thậm chí với con dao nhíp.
Newt và Thalia MacFee tiu nghỉu rút về nhà. Eleanor cũng đi theo. Ba thám tử trẻ trèo lên gác xép, ngồi gần cửa sổ. Hannibal chau mày nhìn Bob và Peter.
- Không hiểu những ai biết về chìa khóa trong nhà bếp? Thám tử trưởng nói.
- Những ai biết à? Peter lập lại. Nhưng có cần phải biết không? Rất nhiều người giữ chìa khóa thứ nhì trong nhà bếp nhà mình, mà nếu cửa dễ mở như thế, thì..
- Ý cậu định nói rằng bất cứ ai cũng có thể lấy chìa khóa, Hannibal nói tiếp. Rất tiếc là đúng như vậy. Nhưng còn một điều làm mình thắc mắc nữa. Có dấu chân trong hang.
Bob có vẻ ngạc nhiên.
- Thì đã sao? Bob hỏi lại. Đó là dấu chân của tên trộm, hắn đi giày tennis hay giày thể thao. Có gì đâu nào?
- Các cậu có nhớ tình trạng hang động như thế nào tối hôm qua không? Hannibal hỏi. Lúc mà MacFee cho ta xem lần đầu tiên ấy?
Bob và Peter ra vẻ kinh ngạc.
- Đất xung quanh bộ xương bị giẫm bẩy, Hannibal nói rồi nhắm mắt lại như đang mường tượng bộ xương bị chôn vùi một nửa dưới đất. Rồi John Du mục bị ác mộng giữa đêm, khẳng định là đã nhìn thấy người tiền sử đứng dậy bỏ đi. Sau đó Newt MacFee mở cửa viện bảo tàng và tất cả chúng ta lại nhìn thấy người tiền sử vẫn còn đó. Lúc ấy, có dấu chân không?
Bob và Peter chau mày, rồi Peter nói:
- Không. Cậu đúng. Nhưng như vậy có nghĩa... có nghĩa rằng chắc chắn MacFee đã phải dọn dẹp, quét vùng đất xung quanh bộ xương cho phẳng lại.
- Ta sẽ tìm hiểu, Hannibal nói.
Thám tử trưởng trèo xuống gác xép, chạy qua nhà MacFee, gõ cửa.
Thalia MacFee mở cửa, rồi chồng bà cũng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Newt MacFee và Hannibal nói với nhau vài lời.
Hannibal quay đi, vội trở về kho thóc.
- MacFee nói ông ấy không hề dọn dẹp trong hang, Hannibal báo lại với Bob và Peter, và ông ấy nói rằng John Du mục cũng không thể dọn dẹp trong đó được. MacFee không bao giờ để cho John Du mục ở một mình trong đó, thậm chí một phút cũng không.
- Vậy có nghĩa là trong đêm, có kẻ đã vào quét đi những dấu chân ấy, Peter nói rồi hốt hoảng. Vô lý. Cửa khóa mà. Trừ phi... người tiền sử đứng dậy. Nhưng không thể có chuyện đó được!
- Dù sao đi nữa, đã có kẻ đã để lại một dấu chân trên bãi cỏ, Hannibal nói. Mình sẽ xuống làng vài phút. Hôm qua mình có thấy một cửa hàng bán các thứ làm đồ thủ công bên một lề đường, mình muốn mua đồ. Các cậu cứ ở lại đây và đề cao cảnh giác nhé.
Hannibal lại biến xuống thang, và lần này đi gần nửa tiếng. Khi trở về, thám tử trưởng cầm một gói trong tay.
- Bột thạch cao, Hannibal nói, mình muốn lấy mẫu đúc dấu chân ngoài đồng.
Hannibal tiến hành lục lạo trong đống linh tinh trên bàn thờ trong kho thóc và chẳng bao lâu có được một lon nước sơn rỗng và vài miếng gỗ đủ loại kích thước.
Hannibal cho thạch cao bột vào lon nước sơn, cho thêm nước từ vòi bên ngoài nhà MacFee vào. Rồi thám tử trưởng dùng cái đũa khuây cho đến khi có được một thứ sền sệt như kem bị chảy.
- Cậu định chứng minh được cái gì khi làm như thế? Peter hỏi trong khi ba thám tử băng qua bãi cỏ.
- Mình cũng không bịết, Hannibal trả lời. Có thể là chẳng được gì. Nhưng có một người đi chân không qua đó và mình nghĩ ta nên có chứng cớ về việc này trước khi dấu chân bị giẫm bấy lên hoặc bị gió thổi bay mất.
Khi ba thám tử tìm lại được dâu chân, Hannibal ngồi xuống, phun đều bằng cái bình keo xịt tóc đã mua lúc nãy.
- Keo xịt tóc để làm gì vậy? Peter hỏi.
- Để bảo vệ dấu chân và không cho các thứ bẩn và rác rưởi bám vào thạch cao, Hannibal nói.
Sau đó, Hannibal làm một cái khung thô sơ với bốn miếng gỗ lấy trên bàn thợ. Rồi thám tử trưởng dùng băng keo giữ chặt mây miếng gỗ với nhau, đặt khung quanh dấu chân.
Khi làm xong rồi, Hannibal thận trọng rót một lớp thạch cao trên dấu chân. Hannibal cắm vài que gỗ vào thạch cao để gia cố cho mẫu đúc, rồi chờ lớp thạch cao đầu tiên cứng lại một chút, Hannibal lại rót thêm thạch cao nữa.
- Hay quá! Peter kêu.
- Tiếc quá, bọn mình không có thân chủ nào để đánh giá những gì (íang làrỉvBob nói. Các cậu có nghĩ rằng Newt MacFee sẽ chịu thuê bọn mình không?
- Bộ cậu nghĩ Ba thám tử trẻ sẽ thích nhận ông ấy làm thân chủ hả? Hannibal bắt bẻ.
- Ồ, không đời nào! Peter kịch liệt phản đối. Ông ấy bủn xỉn quá, và mình cũng không thích bà vợ. Không hiểu làm thế nào chị Eleanor chịu được hai ông bà này.
Hannibal thở dài.
- Cái bà ở cửa hiệu bán thạch cao có biết mẹ của chị Eleanor, - thám tử trưởng nói. Bà Hess, mẹ chị ấy, rất xinh đẹp. Bà chủ cửa hàng nghĩ rằng Thalia MacFee ganh tị với cô em. Bà ấy có nói bóng gió rằng bà Thalia trả thù lên chị Eleanor. Bà ấy nói thẳng thừng rằng Newt MacFee keo kiệt đến nỗi ông ấy bắt chị Eleanor phải trả tiền ở và tiền cơm tháng. Mà ông ấy buộc chị ấy trả tiền từ khi bố mẹ chị ấy mất.
Bob có vẻ kinh ngạc.
- Nhưng lúc đó chị Eleanor mới lên tám mà! Làm sao chị ấy có thể trả tiền được? Bố mẹ chị ấy có để lại tiền cho chị ấy à?
- Họ có nhà ở Hollywood, Hannibal nói. MacFee cho thuê ngôi nhà đó và thu tiền thuê.
- Ô! Bob thốt lên. Bà bán thạch cao đã kể cho cậu nghe nhiều thế sao? Cậu làm thế nào mà buộc bà ấy nói nhiều thế?
- Mình nói mình đang cắm trại ở kho thóc nhà ông MacFee, rồi bà ấy hỏi ông ấy lấy mình bao nhiêu tiền. Khi mình trả lời, bà ấy chỉ lắc đầu rồi bắt đầu nói. Bà ấy còn nói cho mình biết rằng John Du mục không biết đọc biết viết gì cả. John Du mục kiếm sống bằng những việc vặt, bà ấy nghĩ Newt MacFee ăn gian John Du mục bởi vì John Du mục không biết ghi lại khoảng thời gian đã bỏ ra làm việc cho Newt.
- Nếu không biết đọc biết viết, thì chắc chắn John Du mục không thể nào viết bức thư đòi tiền chuộc, Bob nhận xét.
- John có thể là kẻ đồng loã, nhưng dù gì mình không nghĩ John Du mục có liên quan gì đến vụ này, Hannibal nói. Ông ấy có vẻ không đủ thông minh để được ai đó tin tưởng. Và mình nghĩ sáng nay ông ấy không hề đóng kịch. Ông ấy thật sự khiếp sợ. Vậy ta hãy loại bỏ ông ấy. Vụ án cũng đủ rối ren khi không có ông ấy.
- Vậy bọn mình nhận vụ này hả? Peter hỏi. Thân chủ của bọn mình là ai? Chị Eleanor à?
- Có nhất thiết phải có thân chủ không? Hannibal hỏi. Vụ bí ẩn tự nó không đủ hấp dẫn sao? Một người tiền sử hóa thạch, đã chết từ thời xa xưa, đã bị đánh cắp. Còn tên trộm thì đã đưa một chất gì đó vào hệ thống phun nước chữa cháy tự động, khiến cả thành phố ngủ say.
Bob mỉm cười.
- Câu chuyện điên khùng, nên mình rất thích.
Bob ngồi xuống đất, lấy quyển sổ tay từ trong túi ra, rút cây bút bi bắt đầu viết.
- Một người tiền sử mất tích, - Bob nói. Một chất gây mê bí ẩn nào đó trong hệ thống nước. Một bức thư đòi tiền chuộc, viết sai chính tả, nhưng điều đó có thể không quan trọng. Ý mình nói chuyện viết chính tả sai. Có thể là giả bộ. Rồi đến các nghi can.
Bob nhìn lên.
- Brandon? Bob nói. Tiến sĩ Brandon rất muốn đưa bộ xương ra khỏi hang, và ông ấy có thể gửi bức thư đòi tiền chuộc để che đậy.
- Tiến sĩ đang ngủ trong công viên lúc bộ xương bị lấy đi, Peter nhấn mạnh. Lúc tỉnh lại, mình đang nằm trên người ông ấy. Ê, nhưng mọi người dân thành phố đều ngủ trong công viên. Vậy không có nghi can nào cả!
- Ta không biết chắc là tất cả mọi người trong thành phố đều có đến dự buổi lễ hay không, Hannibal nói. Và dù gì đi nữa, tên trộm có thể có cách nào đó để tránh tác dụng của chất trong nước phun. Nếu vậy, mọi người trong thành phố đều có thể là nghi can.
- Chú ý, Bob nói. Chị Eleanor đang đến.
Hannibal nhìn quanh thấy Eleanor Hess đang băng qua bãi cỏ. Hannibal vội xoay người để ngồi giữa Eleanor và mẫu đúc thạch cao dưới đất.
- Chào chị, Hannibal nói khi Eleanor đã đến gần. Bọn em... đang bàn về những chuyện kỳ lạ vừa mới xảy ra hôm nay.
Eleanor gật đầu, rồi lưỡng lự một hồi như thể không tin chắc mình sẽ được đón nhận như thế nào, trước khi ngồi xuống đối diện với Ba thám tử trẻ.
- Chị... ơơ... chị chuẩn đi lên hội, và chị nghĩ có thể các em thích... đi cùng.
- Bọn em sẽ rất thích, Hannibal nói, và bọn em định...
- Bọn em không bắt buộc phải đi đâu, Eleanor nói, chị chỉ sợ các em không có gì làm.
Eleanor đột nhiên thốt lên.
- Mười ngàn đô la! Rất nhiều tiền! Dượng Newt đã lên thành phố gặp vài người để gom tiền lại và... và sẽ là một vụ rất lớn!
Rồi Eleanor oà khóc.
- Kìa chị ơi, đâu có gì quan trọng lắm đâu, Bob nói. Ý em nói là người tiền sử chỉ là một đống xương thôi. Đâu phải như một người thật, còn sống đang bị bắt giữ để đòi tiền chuộc, đúng không?
- Không. Nhưng dượng của chị nổi điên lên như thể vấn đề là người đang sống. Dượng tực giận làm chị phát khiếp. Dượng nói dượng bị mất tiền mỗi giây mà người tiền sử vắng mặt. Có lẽ cũng đúng thế thật. Người tiền sử có thể giúp dượng kiếm được nhiều tiền hơn là cửa hàng ngũ kim. Cửa hàng bán rất chậm.
- Chị có giúp ngoài đó không? Hannibal hỏi.
Eleanor gật đầu.
- Khi chị không làm việc ở trên hội. Nhưng chị thích ở trên hội hơn. Ở đó không có ai la lối ngoài tiến sĩ Brandon, mà ông ấy chỉ hơi nóng tính thôi, chứ không để bụng.
Eleanor đột ngột mỉm cười, hai má ửng hồng.
- Tiến sĩ Brandon rất tử tế. Tiến sĩ bảo chị nên đến trường, ở San Diego, hay một nơi nào đó.
- Sao chị không đi? Bob hỏi.
- Chị cần xe để đến trường, mà dì Thalia không cho. Dì bảo cho con gái đi học là phung phí tiền, dì còn nói chị không được quên chị xuất thân từ giai cấp nào.
- Nghĩa là sao? Peter hỏi.
- Có lẽ ý dì muốn nói chị sẽ tự cao nếu đi học đại học, Eleanor nói. Dì Thalia nói mẹ chị đã trở nên tự cao tự đại và cho rằng cái thành phố nhỏ này không xứng đáng với mình nữa, thế là mẹ bỏ đi, lấy ba chị, rồi xem chuyện gì đã xảy ra.
Eleanor ngưng nói, nét mặt trở nên nghiêm trang đau buồn.
- Dì làm chị rất buồn! Eleanor tuyên bố. Mẹ chị đã có thể bị tai nạn ôtô bất cứ nơi nào. Đâu cần học đòi làm sang hay hư hỏng thì mới bị xe buýt tông ở một ngã tư. Mẹ chị rất xinh, mái tóc tuyệt đẹp. Ba của chị cũng rất đẹp trai. Ba chơi đàn ô-boa cho hội yêu nhạc Los Angeles. Chị còn nhớ ba tập đàn. Ô-boa là một nhạc cụ rất tuyệt. Còn bây giờ ở nhà không có thứ nhạc nào, ngoại trừ radio và truyền hình.
Eleanor lại ngưng nói, nhưng rồi thốt lên lớn tiếng.
- Chị muốn bỏ đi! Chị đang để dành tiền. Chị có trên một trăm đô la dành dụm được nhờ công việc ở hội. Dượng Newt và dì Thalia lấy tiền thuê căn nhà ba mẹ chị ở Hollywood để trang trải cho các chi phí của chị, nhưng tiền hội là tiền của chị!
- Chị có hỏi dì dượng về tiền thuê nhà không? Hannibal hỏi. Nếu chị bỏ đi, thì dì dượng đâu cần đến số tiền đó cho các chi phí của chị nữa, đúng không?
Eleanor có vẻ ngạc nhiên.
- Nhưng chị không thể làm như thế được! Dì dượng sẽ giận lắm! Dì dượng có thể đuổi chị ra khỏi nhà.
- Thì có sao đâu? Peter nói. Chị cũng muốn bỏ đi mà.
- Nhưng chị biết đi đâu!
- Chị có thể đến cái nhà ở Hollywood, Bob gợi ý.
- Không, không thể. Có người sống ở đó rồi, Eleanor nói rồi đứng dậy. Chị đang dành dụm tiền, khi nào đủ rồi, chị sẽ bỏ đi. Các em có muốn lên hội cùng với chị không?
- Tụi em sẽ lên ngay, Hannibal nói, tụi em có một việc nhỏ phải làm ở kho thóc trước đã.
Ba thám tử nhìn theo Eleanor khi cô bỏ đi.
- Các cậu nghĩ có ngày chị ấy sẽ đi không? Peter hỏi.
- Không biết, Hannibal đáp. Chị ấy không thích ở đây, nhưng lại sợ đi nơi khác.
Thám tử trưởng quay sang mẫu đúc thạch cao. Bây giờ thạch cao đã cứng. Khi lấy ra khỏi đất, có hình một bàn chân trần.
- Tuyệt đẹp! Peter thốt lên.
- Hừm, người tiền sử lang thang có vấn đề với cái chân, Hannibal nói. Nhìn xem. Ta thấy được ngón chân cái, rồi một khoảng trống, rồi ba ngón chân nhỏ. Như thể ngón chân thứ nhì bị bẻ cong lên trên nên không để lại dấu ấn trên đất.
- Ngón chân khoằm! Bob kêu. Người tiền sử mà bị như thế à?
- Khó tin quá, phải không? Hannibal nói.Vvấn đề rắc rối về chân chỉ bị khi đi giày không vừa chân.
Hannibal lấy thước ra đo dấu chân, vừa đủ hai mươi hai phân.
- Tên trộm để lại dấu chân trong viện bảo tàng là người rất to lớn, Hannibal nói. Kẻ đi chân không này thì lại nhỏ.
Peter thở gấp.
- Không lẽ là người tiền sử?
- Người tiền sử đã chết rồi, Hannibal nói. Đã chết từ thời xa xưa rồi. Mà người chết thì không thể nào đứng dậy bước đi. Thủ phạm có thể là bất cứ ai, hầu như bất cứ người nào. Nhưng không thể là một người đã chết!
Chương 11
NHỮNG TRANG NHẬT KÝ BỊ MẤT
B
a thám tử tìm thấy Eleanor Hess đang ở trong chuồng ngựa, chải lông cho Blaze, con ngựa đặc biệt của tiến sĩ Karl Birkensteen. Frank DiStefano cũng có ở đó, đang cúi qua vách ngăn chuồng, đứng xem.
- Nghe nói người tiền sử biến mất, Frank nói. Tiếc quá, tôi không được chứng kiến vụ này. Tôi phải nằm nhà với cơn đau bao tử.
- Thật đáng tiếc, Hannibal nói. Bây giờ anh đỡ chưa?
- Ồ, bây giờ thì khoẻ rồi. Cái bệnh này không bao giờ kéo dài lâu.
- Ở công viên rất lạ lùng, Peter nói. Mọi người lăn đùng ra ngủ say sưa.
- Đúng rồi! DiStefano nói. Đó là chuyện thường xảy ra ở đây. Thời gian ngủ trưa mà! DiStefano liếc nhìn Eleanor rồi nói tiếp : từ từ thôi. Đừng làm nhanh quá.
Rồi Frank DiStefano bỏ đi, lẳng lặng với đôi giày đế cao su.
Peter nhìn chằm chằm theo.
- Anh ấy đi giầy thể thao, - Peter nhận xét.
- Rất nhiều người đi giầy thể thao, Eleanor nói.
Eleanor đã chải lông ngựa xong. Eleanor cho ngựa vào ngăn chuồng bên cạnh, cất bàn chải, rồi trở về tòa nhà.
Ba thám tử đi theo Eleanor vào phòng làm việc cũ của Kart Birkensteen. Mấy chú tinh tinh nhảy lên song chuồng khi nhìn thấy Eleanor, la hét vui mừng.
- Được rồi! Được rồi! Eleanor cười rồi mở chuồng ra để mấy chú khi nhảy lăng xăng quanh mình.
- Tụi nó có vẻ mến chị quá, - Peter nói.
- Tụi nó dễ thương quá, phải không? Eleanor mỉm cười nói. Tụi nó thương chị thật, nhưng tụi nó rất nhớ tiến sĩ Karl Birkensteen.
- Đó là chuyện bình thường mà, Bob nói.
Hannibal không nói gì. Thám tử trưởng đang đứng gần bàn viết của nhà khoa học quá cố, mắt nhìn quyển sổ ghi hẹn. Thám tử trưởng mở sổ ra, lật nhanh các trang, rồi đột nhiên chăm chú lên hẳn.
Gần với trang ngày 28 tháng tư, phía bên tay phải, là trang 19 tháng năm.
- Hơn một nửa các trang tháng năm bị thiếu trong quyển nhật ký của tiến sĩ Karl Birkensteen, - Hannibal thông báo rồi chau mày. Lạ quá! Tiến sĩ mất đầu tháng năm mà, phải không? Em nhớ hôm đó lạnh lẽo, nhiều sương mù, như thường hay có vào đầu xuân.
Eleanor ngồi yên, mặt quay đi chỗ khác.
- Đó... đó là vào tháng năm, Eleanor nói thật nhỏ.
- Tại sao tiến sĩ lại xé đi mất mấy trang quyển nhật ký? Hannibal thắc mắc.
- Chị... chị không biết, Eleanor trả lời.
Eleanor đang bế một chú khỉ trong tay, ru nó như một đứa bé. Bob và Peter quan sát, thắc mắc và chăm chú.
- Chị đi cùng tiến sĩ Karl Birkensteen đến Rocky, Hannibal nói. Hôm chú ấy mất mà. Có lẽ nào những trang nhật ký bị mất có liên quan đến chuyến đi ấy không?
- Không, Eleanor trả lời. Không, chị... chị nghĩ là không.
- Chuyến đi Rocky có liên quan gì với mấy chú tinh tinh không? Hannibal vặn hỏi.
- Có thể. Cũng có thể. Chị không biết gì nhiều về công việc của chú ấy. Chị chỉ giúp chăm lo thú vật, và chị đi cùng chú ấy bởi vì... bởi vì chú ấy tử tế vả lại cảm thấy không khoẻ.
- Chú và chị tìm địa chỉ nào ở đường Harborview vậy? Ai sống ở đó? Hannibal hỏi dồn dập.
Eleanor có vẻ lo lắng căng thẳng rồi tằng hắng, cúi đầu xuống. Ba thám tử nhìn thấy một giọt lệ lăn trên má cô.
- Hôm nay chị không khoẻ, Eleanor nói. Xin lỗi nhé. Có lẽ các em nên đi về thì hơn.
Ba thám tử bỏ đi. Ngoài hành lang, ba bạn gặp bà Collinwood. Bà mặc chiếc tạp dề xếp nếp trên bộ váy đầm in hoa và đang đeo bộ tóc giả màu sậm có mớ tóc trắng.
- Mọi việc tốt chứ? Bà mỉm cười thật tươi nói.
Hannibal nghĩ rằng bà Collinwood hơi lăng xăng tích cực quá, nên có thể biết nhiều chuyện. Hannibal ra vẻ buồn rầu.
- Cháu e rằng cháu đã vô ý làm cho chị Eleanor buồn, thám tử trưởng nói. Cháu đã nhắc đến tên tiến sĩ Karl Birkensteen. Chị Eleanor đang khóc.
- Ôi! bà Collinwood lắc đầu kêu. Con bé rất thương ông ấy. Nhưng thật ra, tất cả chúng tôi đều rất yêu quy ông ấy. Ông ấy là người tử tế nhất ở đây.
- Cô có biết tại sao chú ấy đi Los Angeles vào hôm đó không? Hannibal hỏi. Vào hôm chú ấy mất ấy? Chú ấy có bạn bè gì ở đó không?
- Tôi không biết. Ông ấy ít nói lắm. Có lẽ có liên quan gì với lũ thú vật kia. Các cậu không tưởng tượng nổi ông ấy cuống quật lộn vì mấy con vật ấy như thế nào đâu. Tưởng như ông ấy đang nuôi dạy con cái, chuẩn bị cho chúng sẵn sàng đến trường vậy. Và khi con nào chết đi, thì ông ấy buồn rầu như thể đã mất đi người bạn thân nhất.
- Mấy con vật đó chết nhiều lắm không ạ? Thám tử trưởng hỏi.
- Nhiều. Rồi ông ấy giải phẫu để tìm hiểu nguyên nhân. Đôi khi ông ấy giải phẫu khi chúng còn sống. Và có lúc khi chúng đang ngủ, ông ấy chỉ đứng nhìn chúng.
Bà có vẻ đăm chiêu.
- Xưa kia chúng thường ngủ rất nhiều. Bây giờ có vẻ sống động hơn.
Có tiếng va, tiếng lẻng kẻng ở phòng cuối hành lang.
- Trời! Bà Collinwood kêu.
Bà vội đi đến một cánh cửa đang mở.
- Frank! Phải cẩn thận hơn chứ!
Frank DiStefano bước ra, một tay cầm chổi, tay kia cầm hai mảnh một cái dĩa trắng.
- Không hư hại gì nhiều, - Frank nói với thái độ láu cá như mọi khi. Không có gì trong đó mà.
- Lần sau sẽ khác, bà Collinwood nói.
Frank làm ngơ bỏ đi, gật đầu chào ba thám tử.
- Bao giờ cậu mới đi ra chợ lấy mấy thứ kia về? Bà Collinwood gọi với theo.
- Chúa ơi, cháu đi ngay bây giờ mà! Frank la trả lời. Phải từ từ chứ!
Bà Collinwood thở dài bực mình khi Frank biến mất qua một cửa cuối hành lang.
Khi bước ra, ba thám tử nhìn thấy DiStefano đang leo lên một chiếc xe cũ kỹ hai cửa đậu ngay trước nhà. Frank cho nổ máy.
- Ta phải cứng rắn với bọn đàn bà kia, Frank nói rồi mỉm cười vênh váo và mời ba thám tử đi qua giang.
Ba thám tử nhìn ra yên sau thấy một đống tạp chí để lộn xộn, một đôi ủng đầy bùn, một hộp khăn giây, mặt nạ lặn và một bộ đồ lặn.
- Cám ơn anh, Hannibal trả lời, tụi em chỉ đi đến chân đồi thôi mà.
DiStefano gật đầu rồi đạp ga chạy đi.
- Anh ấy miệng mồm ghê quá, Peter nói.
Hannibal chỉ kêu một tiếng “Hừm!” vì vẫn còn đang ngẫm nghĩ đến cuộc hội thoại vừa qua với bà Collinwood.
- Phải chi tiến sĩ Karl Birkensteen đừng quá kín đáo như thế, cuối cùng thám tử trưởng nói. Phải chi tiến sĩ Karl Birkensteen nói nhiều hơn với bà Collinwood về chuyến đi Rocky, thì có lẽ bây giờ bà đã có thể kể lại cho ta rồi. Bà Collinwood không phải là người hay giữ kẻ hoặc dối trá, còn chị Eleanor Hess thì khác hẳn. Mình chắc chắn chị Eleanor nói dối ta. Nhưng tại sao? Chị ấy giấu giếm điều gì?
- Một cái gì đó về người tiền sử? Bob gợi ý.
- Ai biết được? Hannibal thở dài.
Khi về đến cánh đồng nhà MacFee, Ba thám tử trẻ thấy Thalia MacFee đang đứng ngoài cửa sau.
- Có nhìn thấy Eleanor không? bà gọi.
- Chị ấy trên hội, Bob trả lời.
- Ôi! Thalia kêu. Lại quây quần với mấy con thú đó nữa rồi! Nếu được phép, chắc nó dám đưa mấy con vật đó về đây, nhưng tôi đã nói rõ cho nó biết là không ai được ở trong cái nhà này mà không trả tiền trọ.
- Dạ vâng, thưa cô, Hannibal đáp. À, lúc này một người cảnh sát có nói là nước trong hệ thống phun chữa cháy tự động đã thử nghiệm. Cô có biết người ta đã tìm thấy gì trong nước không?
- Không có gì cả, Thalia trả lời. Một người của cảnh sát trưởng vừa mới gọi. Không có gì trong hệ thống phun tự động, mà cũng không có gì trong bể chứa nguồn nước. Cảnh sát trưởng nghĩ rằng cả thành phố đã bị thôi miên tập thể!
Chương 12
TIẾNG ĐỘNG TRONG ĐỐNG TÀN TÍCH
H
annibal thở dài khi Thalia MacFee trở vào trong nhà.
- Mình không thể tin vào chuyện thôi miên tập thể, Hannibal nói với Bob và Peter. Ngoài ra, mình vẫn cảm thấy lo âu về nhà khoa học đã chết.
- Mình luôn thấy rằng người chết rất hay gây lo âu, Peter tuyên bố.
- Ý mình không muốn nói thế, Hannibal đáp. Mình nghĩ đến những trang nhật ký bị mất. Chắc chắn có một ý nghĩa nào đó. Mình rất muốn có cơ hội xem qua giấy tờ tài liệu của tiến sĩ Karl Birkensteen. Không biết có làm được việc này không.
- Mình nghĩ là không được đâu, Bob tiên đoán. Công trình ông ấy rất quan trọng, có lẽ những giấy tờ đó được khóa kỹ đâu đó.
- Hừm, Hannibal kêu.
Giọng điệu thám tử trưởng rất nghiêm nghị, nhưng rồi nét mặt lại sáng lên lại.
- Điều đáng lưu ý là Frank DiStefano không có mặt ở công viên sáng nay, - thám tử trưởng nói. Mình rất muốn biết còn ai vắng mặt lúc xảy ra vụ bắt cóc người tiền sử.
Bob chau mày.
- Tất cả những người bọn mình biết đều có mặt ở đó, ngoại trừ DiStefano và... và John Du mục.
Peter mỉm cười.
- Ê! Peter nói. Còn John Du mục, thì sao? Ta không nên quên ông này chỉ vì ông ấy cư xử như một kẻ ngốc nghếch. Có thể ông ấy chỉ giả vờ thôi, mà thật ra ông ấy cũng có đầu óc lắm.
- Như vậy thật vô lý, Bob nói. ông ấy ở đây nhiều năm rồi, phải không? Nếu thật sự thông minh, thì ông ấy đã bỏ đi từ lâu rồi.
- Vậy là ông ấy không khôn lắm, Hannibal kết luận. Có lẽ ông ấy cũng không được lanh lợi lắm nữa. Nhưng tối hôm qua ông ấy đã nhìn thấy một người tiền sử đi qua, mà ta có một mẫu đúc thạch cao của dấu chân người tiền sử đó. Người tiền sử đi đâu?
Peter nhìn về hướng khu rừng phía sau bãi có.
- Được rồi, Peter nói. Ta thử vào đó xem sao.
Trước tiên Ba thám tử trẻ đến chỗ mà Hannibal đã đúc mẫu dấu chân. Rồi đi từ từ tiếp. Ba thám tử đi đến chỗ cây rừng mà không thấy thêm dấu vết nào. Có một chỗ đất trần và gần như chắc chắn kẻ lang thang đi chân không đã đi ngã đó. Peter chỉ vào chỗ đó. Ba Thám Tử Trẻ đi men bờ, lẳng lặng tiến tới, rón rén di chuyển như thể có kẻ đang núp sau cây rình rập, chờ đánh đầu những ai đi theo.
Cuối cùng, rừng thưa đi, rồi ba thám tử vào một khu không có cây. cả ba đứng ở rìa rừng, quan sát đám cỏ và bụi gai xung quanh những tàn tích đổ nát của một tòa nhà cũ. Tường gạch bị đổ vỡ nhiều chỗ, mái nhà ngói đỏ rơi đây đó, để lộ vài cây xà nâng chịu.
- Có lẽ xưa kia đây là một cái nhà thờ, Bob nhận xét.
Không ai trả lời Bob. Ba thám tử băng qua khu rừng thưa, bước vào bên trong nhà đó.
- Các cậu có nghĩ rằng người tiền sử đã vào đây tối hôm qua không? Peter hỏi và lo sợ nhìn quanh mình.
- Không thể nào biết được, Hannibal đáp. Người tiền sử sẽ không để lại dấu vết gì trên nền nhà này.
Bob có một động tác lưỡng lự đi về phía trước nhà thờ. Có hai bậc thềm dẫn lên một chỗ cao hơn khu vực ba thám tử hiện đang đứng.
- Nếu có bàn thờ, thì sẽ nằm trên kia, Bob nói.Nhìn kìa. Có cánh cửa, chắc là để vào phòng khác. Có thế là chỗ thay đồ của linh mục hay cha xứ.
Ba Thám Tử Trẻ im lặng chờ đợi, vì một lý do không rõ, không ai muốn băng qua nhà thờ, leo lên hai bậc thềm, mở cánh cửa vào phòng kín.
Đột nhiên ba thám tử nghe một tiếng động khiến tim đập nhanh hơn.
Có kẻ đang di chuyển phía sau cánh cửa đóng kín! Có tiếng kêu rắc và tiếng sột soạt, rồi có một cái gì đó rơi xuống gạch nền.
Rồi lại im lặng.
Peter bước lùi, như để bỏ chạy.
Bob có động tác về hướng cánh cửa đóng kín. Peter nắm cánh tay Bob lại.
- Đừng! Peter thì thầm. Lỡ... lỡ hắn thì sao?
Peter không cần phải nói rõ hơn. Hai thám tử kia đã hiểu. Lỡ người tiền sử lại bước đi. Lỡ người tiền sử đã trốn thoát khỏi kẻ bắt giữ nó để đòi tiền chuộc, rồi bộ xương đã chết từ lâu bằng một cách nào đó lại có da có thịt trở lại, và sinh thể thời cổ xưa đang ở đó, núp trong phòng kín, có vũ trang!
- Vũ trang à? Vũ trang bằng cái gì?
Không thể có chuyện đó được! Hannibal dũng cảm tuyên bố.
Hannibal chạy tới, bước lên hai bậc thềm. Khi thám tử trưởng làm thế, có một tiếng động khác, một tiếng động như thể có kẻ đã chạm vào cửa, cào nhẹ cánh cửa.
Hannibal đặt tay lên tay cầm cửa nhưng lặng người đi. Thám tử trưởng nổi da gà.
Tay cầm cửa đang xoay trong tay Hannibal. Tự nó xoay! Rồi bản lề cũ kỹ kêu lên như để phản đối, và cánh cửa mở ra!
Chương 13
MỘT VỤ TRỘM KHÁC
C
- hào! Tiến sĩ Hoffer thốt lên, tay vẫn còn để trên tay cầm cửa phòng thay đồ. Các cậu làm tôi giật mình. Tôi không ngờ có người ở đây.
Hannibal vẫn còn run, nhưng cố mỉm cười.
- Tụi cháu đang thám hiểm, Hannibal nói.
Hoffer băng qua ngưỡng cửa phòng thay đồ, bước vào nhà thờ. Ba thám tử thấy được một căn phòng nhỏ phía sau ông, với cánh cửa dẫn ra ngoài.
- Các cậu nên cẩn thận, Hoffer nói. Đây là đất nhà tư nhân, thuộc dòng họ Lewinson. Họ sở hữu một căn nhà to lớn phía bên kia ngọn đồi. Tôi được phép vào đây, nhưng tôi sợ họ không thích người lạ đâu.
Tiến sĩ Hoffer ngồi xuống các bậc thềm ngăn cách khu vực bàn thờ với phần nhà thờ còn lại.
- Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn như xưa, Hoffer nói. Có một tòa nhà trống không ở vùng gần đây, thế là tôi bắt gặp ba cậu đang thám hiểm. Lúc còn trẻ tôi cũng làm y như các cậu. Khi bằng tuổi các cậu, có một ngôi nhà không người, gần nhà tôi ở Milwaukee. Chúng tôi tìm ra được một cửa sổ không khóa, đột nhập vào và lập trụ sở câu lạc bộ ở trên tầng mái. Chỗ đó rất thích, không bị những người như bố mẹ hay thầy cô tràn vào quấy phá.
Tiến sĩ Hoffer ngưng nói, nhảy mũi. Tiến sĩ lấy chiếc khăn tay, chậm mắt.
- Lại cái vụ sốt cỏ ấy mà, tiến sĩ nói. Tôi luôn hay bị dị ứng với các thứ. Chính vì thế mà tôi quan tâm đến hệ miễn nhiễm.
Tiến sĩ đứng dậy.
- Hôm nay đi như vậy là đủ rồi, ông nói. Có một cái gì đó trong không khí không thích hợp với tôi. Các cậu về làng bây giờ chưa? Tôi khuyên các cậu không nên thám hiểm xa hơn. Edward Lewinson có tiếng là hay bắn súng vào những kẻ xâm phạm đất nhà ông.
- Y như một người mà tụi cháu biết rồi, Hannibal trả lời. Newt MacFee.
- Vậy thì về làng đi, Peter nói.
Ba thám tử đi theo tiến sĩ Hoffer qua phòng thay đồ.
- Chú quan tâm đến bệnh dị ứng à? Hannibal hỏi trong khi cả nhóm đâm vào rừng. Nhưng chú đã trở thành nhà miễn nhiễm học. Cháu cứ tưởng những người lo về bệnh dị ứng là bác sĩ dị ứng chứ.
- Đúng vậy, Hoffer nói. Tuy nhiên điều này dẫn đến điều kia. Miến nhiễm cũng là một loại phản xạ dị ứng.
- Thế à? Bob kêu.
Hoffer gật đầu.
- Cơ thể ta có nhiều cách thức để bảo vệ. Cơ thể ta sản sinh ra một thứ gọi là kháng thể. Kháng thể tiêu diệt các vi khuẩn và virút xâm nhập vào, hoặc hủy bỏ những chất độc từ vi khuẩn hay virút. Chẳng hạn, nếu ta bị bệnh sởi, thì cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể để đấu tranh chống lại bệnh. Khi đã bị rồi, thì ta sẽ không mắc bệnh đó nữa, bởi vì kháng thể vẫn còn lại trong ta. Ta nói rằng cơ thể đã được miễn nhiễm chống lại bệnh sởi.
Bây giờ giả sử cơ thể ta sản sinh ra kháng thể để phản ứng lại với những thứ không làm phiền đa số người khác. Ví dụ ta bị dị ứng một loại phấn hoa nhất định nào đó. Cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể phản ứng với phấn hoa, và sẽ cho ra một hợp chất hóa học gọi là histamine. Chất này khiến mũi ta sưng lên, nước mắt chảy ròng ròng.
Thế là hệ miễn nhiễm của ta cứu mạng ta khi đấu tranh chống lại bệnh tật, nhưng cũng có thể làm cho ta rất khổ sở khi vượt qua mức kiểm soát. Tôi tin còn nhiều bệnh tật của người là do hệ miễn nhiễm bị hư hỏng hơn là người ta nghĩ.
Tiến sĩ Hoffer có vẻ nghiêm trang.
- Hệ thống tự vệ là tài sản lớn nhất của ta, mà cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với ta. Trong phòng thí nghiệm, tôi có những con chuột sống trong lồng kính kín, được bảo vệ khỏi các bệnh lây nhiễm. Tôi đã thành công trong việc làm chập mạch hệ miễn nhiễm của chúng, chúng sẽ sống lâu hơn những con chuột không được bảo vệ. Dĩ nhiên là chúng đặc biệt dễ bị bệnh tật tấn công bởi vì chúng không có cách nào để tự vệ. Nhưng nếu tôi học được cách làm thay đổi phản ứng của chúng, điều hòa được hệ miễn nhiễm của chúng, thì chúng sẽ có thể sống được ngoài lồng kính mà vẫn tránh được những bệnh tật giết chết đồng loại.
Bây giờ thử tưởng tượng xem điều khiển được hệ miễn nhiễm có ý nghĩa như thế nào đối với loài người. Thử nghĩ đến một thế giới không có những bệnh tật khủng khiếp kia!
Hoffer gật đầu.
- Cũng rất đáng công chứ! Tiến sĩ nói. Những gì Karl Birkensteen làm với trí thông minh là hoàn toàn hão huyền, và có lẽ cũng nguy hiểm. Còn Brandon thì như một đứa trẻ đang vui đùa với những khúc xương bụi bặm. Những gì tôi làm rất thực tế và có tác dụng hệ trọng ngay lập tức.
Cả nhóm đã đến cánh đồng phía sau nhà MacFee. Hoffer đứng lại để bắt tay ba thám tử. Rồi ông ông đi tiếp, lên đồi về hướng hội.
Có bầu im lặng sững sờ khi ông đi. Rồi Peter nói :
- Được rồi. Mình đã được thuyết phục rồi. Mình xin đề cử tiến sĩ Hoffer nhận giải thưởng Spicer một triệu đô-la.
Hannibal chỉ gật đầu. Ba thám tử tiếp tục đi xuống đường đến quán cà phê.
Nay, đám đông trong thành phố đã thưa hơn, không còn phải chờ đợi để được xếp chỗ ngồi. Ba thám tử ăn tối sớm, bình tĩnh bàn luận về những sự kiện trong ngày.
- Một vụ rất kỳ quặc, Peter kết luận. Đúng là quái dị. Cả thành phố lăn đùng ra ngủ say, rồi một người tiền sử lang thang tản bộ.
- Mà ta đã có dấu chân của người tiền sử, Hannibal nói, nếu đúng là của người tiền sử. Ta có thể biết được gì từ dấu chân? Ta có nên đưa cho tiến sĩ Brandon xem không? Ông ấy đã quen suy luận ra mọi việc từ những manh mối như một mẩu xương hay một đâu chân trong bùn. Nếu có mối liên quan giữa đâu chân trên bãi cỏ và người tiền sử, thì ông ấy sẽ nhận thấy ngay.
- Babal ơi, không thể nào là người tiền sử được, - Bob nói.
- Có thể là không, nhưng có một dấu chân trần của người trên bãi cỏ, và John Du mục thề thốt là đã nhìn thấy một người tiền sử. Chắc chắn tiến sĩ Brandon sẽ rất quan tâm đến chuyện này, đúng không?
- Thôi được, Bob nói. Có lẽ nên thử.
Ba thám tử ăn xong bữa tối, vội đi về kho thóc, lấy mẫu đúc dấu chân từ trong túi ngủ của Hannibal. Rồi cả ba đi đến Hội Spicer, gặp ông Brandon trong phòng làm việc.
Brandon đang ngồi trước một bàn bày đầy giấy tờ sách vở. Ông nhìn lên khi ba thám tử bước vào. Ba thám tử sợ ông sẽ lên cơn tam bành la hét. Nhưng khi ông đóng quyển sách đang đọc, ba bạn thấy được rằng ông không giận dữ, chỉ đang tập trung vào những gì đang làm.
- Sao? Tiến sĩ hỏi. Có chuyện gì vậy?
- Tụi cháu muốn xin ý kiến, Hannibal nói, và có thể xin thông tin. Thưa tiến sĩ Brandon, tụi cháu đang ở trọ trong kho thóc ông Newt MacFee, và từ cửa sổ trên đó, tụi cháu thấy được viện bảo tàng. Tối hôm qua, có một vụ lộn xộn xảy ra tại đó.
Hannibal tiếp tục kể về chuyện kỳ lạ của John Du mục và việc tìm thấy dấu chân trên cánh đồng. Rồi thám tử trưởng lấy mẫu đúc dấu chân cho Brandon xem.
- Dĩ nhiên là không thể nào tin rằng người tiền sử đã bước đi trên cánh đồng, Hannibal nói. Nhưng có kẻ đã bước đi, mà chú thì quen với việc suy luận sự việc về con người qua những chứng cớ còn nhỏ hơn dấu chân này.
- Khi nghe cậu ăn nói như thế, tôi có cảm giác như đang sống lại một câu chuyện thám tử thế kỷ thứ mười chín, - Brandon mỉm cười đáp rồi bỏ mẫu đúc thạch cao lên bàn. Thôi được, nếu các cậu hy vọng về một sinh thể tiền sử, thì đây không phải, Brandon nói tiếp. Kẻ đã để lại dấu chân này quen đi giầy. Khi người ta đi chân không suốt, thì bàn chân phải rộng lớn, các ngón chân bẹt ra. Kẻ đã để lại dấu này có bàn chân thon hẹp. Ngoài ra lại có ngón chân khoằm nữa, điều không thể có đối với một người không đi giầy.
- John Du mục khẳng định là đã nhìn thấy một người tiền sử, Bob nói. John Du mục bảo kẻ đó có mái tóc dài bù xù và khoác tấm da thú.
James Brandon phá lên cười.
- Bộ các cậu thật sự nghĩ người tiền sử mặc quần áo à? Tôi không biết John Du mục tưởng mình nhìn thấy cái gì, nhưng kẻ để lại dấu chân này không phải là người tiền sử. Không những bàn chân quá hẹp, cho dù có giả sử rằng một sinh thể thuộc họ người chết rồi mà lại có thể đi lang thang, thì cái chân này to quá.
- To quá à? Peter ngạc nhiên hỏi lại. Nhưng chân rất nhỏ! Chỉ có hai mươi hai phân thôi.
- Sinh thể nguyên thủy rất nhỏ, Brandon đáp. Tôi có lấy số đo của bộ hóa thạch trong hang động, và xét kích thước bộ xương, tôi cho rằng người tiền sử của ta cao khoảng chín mươi lăm phân khi ở tư thế đứng thẳng đi lang thang. Kẻ để lại dấu chân này cao ít nhất một mét sáu.
Brandon bước đến một tủ kê tựa vào tường.
- Khi đi châu Phi, - ông nói, tôi may mắn tìm được một bộ xương hóa thạch đầy đủ cổ xưa gần hai triệu năm. Nó nhỏ hơn sinh thể họ người ở Citrus Crove, nhưng xem nó, các cậu sẽ có được khái niệm.
Brandon mở khóa hai cánh cửa tủ, kéo thật rộng ra.
Rồi ông đứng đó như bị hóa đá, há miệng nhìn kệ tủ trống trơn trước mặt.
- Mất rồi! Ông kêu khẽ.
Rồi ông hít thở thật sâu trước khi hét lên.
- Mất! Mất rồi! Có kẻ đã lấy cắp bộ xương họ người của tôi!
Chương 14
GHI CHÉP CỦA NGƯỜI ĐÃ CHẾT
C
hiều hôm đó, Hannibal dành được một chiến thắng nhỏ đối với Newt MacFee. Thám tử trưởng thông báo với MacFee rằng do có rất nhiều du khách đến Citrus Grove để xem người tiền sử nay đã bỏ đi, nên Hannibal, Bob và Peter sẽ dời ra khu cắm trại. MacFee vội vàng hạ phí từ mười đô-la xuống còn ba. Ba thám tử trả tiền rồi vừa rút về gác xếp vừa cười.
Ba bạn nằm một hồi trong bóng tối, cân nhắc các sự kiện trong ngày. Cuối cùng Peter nói :
- Điên rồ quá. Bây giờ người ta lại thích săn lùng các bộ xương cổ.
- Không hiểu bộ xương hóa thạch của tiến sĩ Brandon bị lấy mất khi nào, Bob nói. Tiến sĩ có nói là ông quá bận bịu việc khác nên đã không nhìn đến bộ xương đã hai ba tháng nay.
- Như vậy là hồi mùa xuân, Hannibal nói, vào lúc tiến sĩ Karl Birkensteen qua đời.
- Lại chuyện đó nữa, Peter càu nhàu. Karl Birkensteen không có dính líu gì với mấy bộ xương hóa thạch cả. Không có mối liên quan gì ngoại trừ rằng ông ấy từng sống ở đây.
- Có chị Eleanor Hess, Hannibal nói. Chị ấy nói dối về chuyện đi Rocky không? Chị ấy biết rằng tiến sĩ Karl Birkensteen đang tìm một địa chỉ ở đường Harborview. Theo logic, chị ấy phải biết địa chỉ chính xác và ai sống ở đó chứ?
- Đúng, Bob trả lời. Mà chị ấy không dám nhìn thẳng vào mặt cậu khi nói về chuyện này.
- Và tại sao các trang nhật ký của Karl Birkensteen lại bị mất? Hannibal nói tiếp. Ông Karl Birkensteen đã ghi chép gì trên những trang đó? Ông ấy tự xé đi mấy trang đó, hay ai khác đã xé?
- Ê! Peter ngồi chồm dậy trên túi ngủ. Giả sử Karl Birkensteen có liên hệ với một người nào đó ở Rocky, và ông ấy lại nhắc đến người tiền sử. Có thể nào ông ấy đã gieo nên ý nghĩ về vụ trộm tại đó không? Bọn mình đang nghĩ như tên trộm phải là một người ở Citrus Grove, nhưng cũng có thể là sai. Hôm nay thành phố đầy ắp khách tham quan mà!
- Cũng có khả năng đó, Hannibal nói, tuy nhiên Brandon đã phát hiện ra người tiền sử sau khi Kart Birkensteen chết rồi.
- Ồ! Peter kêu.
- Nhưng vẫn có thể có mối liên hệ nào đó, - Hannibal nói. Nhưng có thể là không trực tiếp. Phải chi ta có được những trang nhật ký đã mất. Và các ghi chép của tiến sĩ Karl Birkensteen. Các ghi chép về công trình nghiên cứu của ông ấy vào những ngày cuối đời ông có thể là một manh mối.
- Hoặc có thể có manh mối tại Rocky, Bob nói thêm. Cậu có nói rằng Karl Birkensteen đang tìm đường Harborview. Mình biết con đường đó. Đó là một con đường cụt ở cuối Sunset. Giả sử mình đến Harborview, bấm chuông rồi bảo rằng chiếc cặp tài liệu của tiến sĩ Karl Birkensteen bị mất và hỏi thử xem ông ấy có bỏ quên khi đến đó hồi tháng năm hay không. Dĩ nhiên là ông ấy chưa hề đến đó, nhưng chắc chắn mình sẽ có được một phản ứng nếu một người nào đó ở Harborview biết tiến sĩ. Mình có thể đi chuyến xe buýt đầu giờ sáng. Mình sẽ đến Rocky trong vòng vài tiếng.
- Hay lắm, Hannibal nói. Mình sẽ trở về hội xem có tìm ra giấy tờ của tiến sĩ Karl Birkensteen không. Có thể tiến sĩ Brandon sẽ đồng ý giúp mình. Chiều nay, ông ấy tỏ ra khá thân thiện đấy chứ.
- Còn mình sẽ đi Centerdale, Peter quyết.
- Ở Centerdale có gì? Bob hỏi.
- Mình không biết chắc, Peter nói, nhưng đó là thành phố kế tiếp trên con đường cao tốc, và thư đòi tiền chuộc người tiền sử được gửi từ thành phố đó. Có thể mình sẽ tìm ra được vài manh mối ở đó.
- Tốt, Hannibal nói.
Rồi thám tử trưởng nhắm mắt lại, lắng nghe tiếng chuông đồng hồ đang gõ ở tháp nhà thờ cuối đường. Cậu bắt đầu đếm tiếng gõ, nhưng không đếm xong. Hannibal thiếp ngủ đi, nhưng dường như chỉ một phút sau đó Hannibal lại mở mắt vì Peter đang lay dậy.
- Gần tám giờ rồi, Peter nói. Đi!
Bob đã dậy rồi. Ba thám tử ra rửa mặt đánh răng, rùng mình vì khí trời mát lạnh.
Ba thám tử ăn sáng ở quán cà phê trên con đường cái, rồi chia tay nhau. Hannibal đi ngược lại con đường để đến Hội Spicer.
Cửa trước tòa nhà lớn đang rộng mở. Thám tử trưởng nghe thấy tiếng bà Collinwood bên trong.
- Tôi dám thề là không có ở đây hôm qua, - bà Collinwood nói. Tôi nhìn rất kỹ.
Hannibal liếc nhìn vào bên trong. Bà Collinwood đang ở trong phòng khách. Sáng nay bà đeo bộ tóc màu nâu gần chấm vai.
- Em đã nói với chị là sẽ như vậy...- một người phụ nữ thứ nhì nói.
Người phụ nữ này mặc đồng phục xanh với chiếc tạp dề trắng, một tay cầm cây chổi lông gà. Bà đứng nhìn bà Collinwood đang chỉnh bộ tóc giả trước gương.
- Chị để lạc đâu đó mà, người phụ nữ nói.
- Không có bà Collinwood vẫn nói. Làm sao mà để lạc một bộ tóc giả được!
Người phụ nữ cầm chổi lông gà bỏ đi. Bà Collinwood để ý thấy Hannibal ở ngưỡng cửa.
- Nếu cậu đến tìm Eleanor, thì nó chưa đến, bà Collinwood nói.
- Tiến sĩ Brandon đến chưa ạ? Hannibal hỏi.
- Đến rồi, nếu cậu đủ gan đến chạm trán với ông ấy, bà Collinwood nói. Cậu đã biết phòng ông ấy rồi.
Hannibal cảm ơn rồi băng qua phòng khách, bước vào hành lang. Trước khi đến phòng làm việc của Brandon, Hannibal đã nghe tiếng của nhà khảo cổ học Brandon đang la hét, có tiếng và đập. Nghe như thể ông ấy đang ném đồ đạc.
Hannibal lưỡng lự trước cửa phòng, suy nghĩ xem có nên gõ cửa hay không.
Cửa đột nhiên mở ra.
- Cái gì đây? Brandon hét lên khi nhìn thấy Hannibal. Cậu muốn gì?
- Đừng có quát thằng bé như thế, - một người thứ nhì nói.
Chính là Terreano, đang thản nhiên ngồi trên chiếc ghế bành gần bàn viết của Brandon.
Brandon há miệng ra như định tiếp tục hét, nhưng rồi đột nhiên mỉm cười.
- Xin lỗi, ông nói. Mời vào.
Hannibal bước vào phòng làm việc. Thám tử trưởng nhìn thấy giấy tờ rãi đầy dưới sàn nhà, còn bàn máy đánh chữ thì lật đổ.
Terreano mỉm cười với Hannibal.
- Hơi bị lộn xộn. Tiến sĩ Brandon đang trút bớt đi các cảm xúc mạnh mẽ.
Brandon đỏ mặt, có vẻ lúng túng. Ông dựng bàn máy đánh chữ trở lên, kê gần bàn viết. Rồi ông lượm máy đánh chữ lên. Ống mực lăn xuống sàn, nảy tung đi.
- Đồ chết tiệt! Brandon hét lên
- Tiến sĩ Brandon chưa hề đánh ai cả, Terreano nói, nhưng anh ấy rất nghiêm khắc đối với đồ dùng.
- Bộ không điên lên sao nổi? Brandon hỏi. Tay khốn khiếp MacFee nói rằng tôi đã lấy cắp người tiền sử của hắn để bảo đảm khách tham quan khỏi giẫm lên, rồi tôi đã viết thư đòi tiền chuộc để cho mọi người tưởng rằng thủ phạm là kẻ khác. Rồi theo hắn, tôi mang bộ xương hóa thạch của tôi đi giấu để cho mọi người nghĩ có một thằng điền nào đó đang thích trộm mấy bộ xương.
Brandon nhìn Hannibal.
- MacFee dám cả gan gọi điện thoại nói như thế. Tôi muốn giết hắn quá!
- Anh James à, không ai nghĩ anh đã lấy cắp gì đâu, Terreano nói. MacFee đang tức tối vì mất người tiền sử. MacFee ăn nói bừa bãi thôi mà.
- Thưa tiến sĩ Brandon, vụ ăn cắp bộ xương hóa thạch của chú có phải là một việc rất lạ lùng không? Hannibal nói.
- Không phải lạ lùng, tiến sĩ Brandon quát lại, mà một việc bất lương!
- Nhưng có vẻ như có một tên trộm thứ nhì, đúng không ạ? Hannibal nói. Nếu giả sử như đúng kẻ đã lấy cắp bộ xương sinh thể họ người của chú trong tủ cũng chính là kẻ đã lấy cắp người tiền sử trong hang. Ai biết về bộ xương trong tủ của chú?
Brandon đột nhiên chăm chú hơn.
- Chúa ơi! Cậu nói rất đúng! Bộ xương của tôi tại Citrus Grove không hề được ai biết đến. Thì những người ở hội biết. Bà Collinwood. Tiến sĩ Terreano đây.
- Thế còn chị Eleanor Hess? Hannibal hỏi.
- Cái con bé nhát như cáy ấy hả? Brandon hỏi lại. Cấy không đủ gan lấy cắp, cho dù có biết đến sinh thể họ người của tôi. Mà... ừ dường như cô ấy có rình rập theo dõi tôi. Tôi từng bắt gặp cô ấy nhìn tôi. Cô ấy nhìn từ phía sau cửa, sau tủ. Kỳ lạ lắm.
- Bộ anh không biết sao? Terreano bật cười nói. Cô ấy phải lòng anh đó. Cô ấy có đầy đủ các triệu chứng. Cô ấy cứ đi đụng vào các thứ khi có anh gần đó, cô ấy làm rơi đồ đạc. Cô ấy còn rất trẻ. Chỉ là mối tình học trò dễ thương thôi mà.
- Chết tiệt! Brandon thốt lên rồi đỏ mặt.
- Chị Eleanor Hess đang ở một vị thế rất lạ lùng, Hannibal nhận xét, chị ấy biết việc làm của tất cả những người ở đây, và chị ấy cũng biết tất cả về ngôi nhà MacFee.
Brandon nhìn chằm chằm vào Hannibal.
- Sao cậu lại quan tâm dữ thế? Tiến sĩ Brandon hỏi.
- Tụi cháu là thám tử, Hannibal trả lời.
- Thám tử hả? Brandon phì cười.
- Dạ vâng, Hannibal vừa đáp vừa lấy một tấm danh thiếp nhỏ từ trong túi ra đưa cho Brandon.
Danh thiếp đề :
BA THÁM TỬ TRẺ
Điều tra các loại
???
Thám tử trưởng : HANNIBAL JONES
Thám tử phó : PETER CRENTCH
Lưu trữ và nghiên cứu : BOB ANDY
- Rất ấn tượng, Brandon nhận xét rồi chuyển tấm thiệp sang cho Terreano và nháy mắt.
- Tụi cháu không phải là amatơ, thưa chú, Hannibal trịnh trọng nói. Tụi cháu từng giải được những vụ bí ẩn mà các thám tử lớn tuổi hơn rất nhiều đã phải bó tay. Thường tụi cháu hành động nhân danh một thân chủ. Tuy nhiên lần này, tụi cháu không có thân chủ. Nhưng vụ bí ẩn một người tiền sử bị bắt cóc là độc nhất vô nhị. Tụi cháu rất mong tìm hiểu điều gì đã xảy ra.
- Tôi cũng thế, Brandon thành thật nói. Thôi được rồi, anh bạn trẻ à, tôi đồng ý với cậu rằng Eleanor Hess đang ở một tư thế rất kỳ quặc. Cô ấy là cháu của Newt MacFee, và cũng là nhân viên ở đây. Nhưng cô ấy không đủ gan thực hiện một vụ trộm đâu.
- Chị ấy rất thân với tiến sĩ Karl Birkensteen, Hannibal nói. Có thể nào có mối liên quan giữa vụ trộm cắp người tiền sử và chuyện đi Rocky của tiến sĩ Karl Birkensteen không?
- Lúc ông ấy chết hả? Terreano nói. Nhưng chuyện xảy ra gần ba tháng trước đây mà! Trước khi người tiền sử được phát hiện!
- Cho dù như thế đi nữa, Hannibal nói, các chú có biết tại sao tiến sĩ Karl Birkensteen đi Rocky không ạ?
- Không, Brandon chau mày trả lời. Anh ấy không hề tâm sự gì với chúng tôi cả.
- Cháu nghĩ rằng chị Eleanor biết, Hannibal nói, nhưng chị ấy cũng không chịu nói với ai cả. Trong quyển nhật ký làm việc của tiến sĩ Karl Birkensteen, có những trang bị mất. Những trang thuộc cuối tháng tư và đầu tháng năm. Không biết cháu có thể xem các ghi chép của tiến sĩ Karl Birkensteen trong những ngày đó không. Có thể có vài manh mối.
Brandon nhìn Terreano, rồi gật đầu.
- Mọi thứ vẫn còn trong phòng của Karl Birkensteen, Brandon nói với Hannibal. Giấy tờ ông ấy vẫn để nguyên.
Cả ba rời phòng của Brandon, đi trong hành lang đến phòng thí nghiệm của Birkensteen.
Có nhiều xấp giấy tờ ghi chép, được xếp cẩn thận trong những tập hồ sơ đề “Thời gian phản xạ”, “Mức độ khéo tay” và “Kỹ năng liên lạc”. Có những quyển sổ về kích thích hóa học và thời gian chịu tia X, với những tựa đề mà Hannibal không hiểu nổi.
- Phải nhờ đến một nhà di truyền học khác mới giải thích nổi, Terreano nói.
- Nhưng vẫn có thể có một cái gì đó, Hannibal gật đầu.Và mặc dù rất xa vời, nhưng có thể có mối liên quan với người tiền sử.
Phòng thí nghiệm im lặng trong khi Hannibal, Brandon và Terreano lật qua các ghi chép. Sau một hồi, Hannibal nói :
- Không có ghi chép gì về các thí nghiệm sau ngày mười tháng tư.
Brandon lật đến cuối quyển sổ đang cầm.
- Đúng, Brandon nói. Những ghi chép cuối cùng trong quyền này là ngày hai mươi lăm tháng ba.
Cả ba xem từng quyển sổ một và nhìn những lần ghi cuối cùng nhất. Không có ghi chép gì sau những ngày đầu tiên trong tháng tư.
- Nhưng anh ấy vẫn làm việc mà, Brandon nói. Anh ấy làm việc mỗi ngày. Và anh ấy làm việc rất có phương pháp. Chắc chắn phải có ghi chép. Các ghi chép này đâu rồi?
- Chuyện y như thế đã xảy ra với các trang nhật ký của chú ấy, Hannibal nói.
Có một chồng tạp chí trên bàn làm việc. Hannibal lấy một quyền lên, lật nhanh qua. Có ai đã nhét một tờ giấy ở giữa để đánh dấu trang. Tạp chí mang con dấu “Thư viện Bang Californie”.
- Tiến sĩ Karl Birkensteen đọc về tác dụng của Penthotal Natri lên chức năng nào, Hannibal nói.
- Penthotal Natri là một chất gây mê, Terreano nói. Làm tê liệt cảm giác và gây bất tỉnh.
Hannibal lấy một quyền thứ nhì. Đó là tờ “Tạp chí Hội Y học Mỹ” và chứa một bài báo về khí gây tê oxyt nitrat kali.
- Lại một chất gây mê khác, Brandon nói. Thường được dùng trong nha khoa. Còn được gọi là khí gây cười.
Có những tạp chí khác và những bài báo khác. Tất cả đều về một loại chất gây mê nào đó.
- Dễ hiểu thôi, Terreano nói. Thỉnh thoảng anh ấy mổ xẻ mấy chú tinh tinh mà. Anh ấy cần chất gây mê.
- Và hôm qua cả một thành phố đã bị làm cho thiếp ngủ đi, Hannibal thản nhiên nói.
Hannibal và hai tiến sĩ tìm kiếm trong phòng thí nghiệm. Cả ba không tìm thấy gì có thể được dùng làm chất gây mê. Không có ête, không có Penthotal Natri. Cũng không có Novocam.
Khi cuối cùng Hannibal rời phòng thí nghiệm, thì thám tử trưởng nghĩ đến Eleanor. Có lẽ nào Eleanor đã lấy các ghi chép đi không? Nếu có, thì tại sao? Và có phải Eleanor đã hủy đi các trang nhật ký không? Nếu có, thì để làm gì? Eleanor quá nhút nhát để có thể tham gia vào một vụ trộm.
Hay Eleanor dám làm?
Chương 15
CÂU HỎI VÀ THÊM NHIÊU CÂU HỎI NỮA
T
rước mười hai giờ trưa, Peter quyết định rằng mình đang phí thời gian vô ích. Centerdale lớn hơn Citrus Grove, nhưng không khác gì hơn. Có hai siêu thị, thay vì một, có bốn trạm xăng thay vì hai. Xe buýt không đỗ trước hiệu thuốc, mà dừng trước khách sạn Centerdale. Không có gì khả nghi cả. Ngoài ra Peter cũng không biết chính xác mình đang tìm gì.
Peter thở dài, hối tiếc vì đã không đi đến Hội Spicer cùng Hannibal. Suy nghĩ này vừa mới thoáng qua óc Peter, thì một chiếc xe cũ kỹ chạy ngang qua trước mặt Peter, rồi quẹo ngay góc.
Người lái xe là Frank DiStefano.
Peter chạy nhanh đến ngã tư, nơi anh chàng giúp việc đã quẹo. Cậu nhìn thấy DiStefano đang chạy xe vào lối đi dẫn đến một căn nhà tồi tàn. DiStefano đậu xe, mang cái gói giấy nâu vào nhà.
Peter chờ. Khoảng một hai phút sau, DiStefano lại bước trở ra, leo lên xe, de lui ra khỏi lối đi, chạy về hướng Peter.
Peter nhìn đi chỗ khác khi DiStefano đến gần góc đường. Sau khi DiStefano quẹo, rồi tăng tốc về hướng Citrus Grove, Peter đi bộ xuống con đường đến căn nhà nơi DiStefano đã đậu xe. Peter đứng nhìn căn nhà. Peter đang tự hỏi không biết kế tiếp mình phải làm gì, thì một chiếc xe chạy trên đường, rẽ vào lối đi. Xe dừng, một người phụ nữ mập tròn có mái tóc bạc cắt ngắn bước xuống xe.
- Cậu cần gì không? bà hỏi Peter.
- Dạ không, thưa cô.
Peter ngưng nói một hồi để nghĩ ra một cái cớ giải thích vì sao mình đang lãng vãng ngay đây, rồi mỉm cười thân thiện.
- Cháu đang định xin anh Frank DiStefano cho quá giang đi Citrus Grove. Cháu không biết anh ấy có trở lại đây không. Cháu vừa mới nhìn thấy anh ấy chạy xe đi.
- Ồ, cậu nên gọi cho Frank trước, người phụ nữ trả lời. E rằng Frank đi luôn cả ngày rồi.
Bà có vẻ quan tâm.
- Cậu không có cách nào để đến Citrus Crove à? Bà lo lắng hỏi. Cậu đừng đi nhờ xe lạ nhé. Nguy hiểm lắm.
- Dạ không, thưa cô, Peter trả lời, cháu có thể đi xe buýt.
- Thế thì tốt.
Bà mở thùng xe, lấy những túi đồ đi chợ ra. Peter vội ra tay giúp đỡ. Bà nói khẽ tiếng cảm ơn, rồi dẫn đường ra cửa sau nhà.
- Cô có phải là bà DiStefano không ạ? Peter hỏi.
- Mẹ của Frank hả? Không phải. Tôi chỉ cho cậu ấy thuê phòng trọ thôi.
Peter đặt các túi đồ xuống bàn nhà bếp.
- Cậu sống ở Citrus Grove à? Bà hỏi rồi không chờ câu trả lời bà nói tiếp. Cậu có ở đó hôm qua khi cái chuyện kỳ quặc kia xảy ra và mọi người lăn ra ngủ không? Chắc là có chất gì trong nước máy thành phố. Chính quyền nên xem kỹ nước.
- Họ đã làm thế, Peter đáp. Họ đã phân tích nước tại phòng thí nghiệm. Không có gì trong đó cả.
Người phụ nữ lắc đầu.
- Đáng sợ thật. Frank cũng đã có thể bị ngủ hôm qua.
Có bao nhiêu là ngày để bị bệnh, thì Frank lại bệnh đúng ngày hôm qua và lỡ mất chuyện giật gân kia. Dĩ nhiên là cũng may cậu ấy không thường bị bệnh, để nhạc ầm ầm bao nhiêu giờ. Ngày hôm qua, cậu ấy chỉ nằm giường ngáy khó khò cả buổi sáng. Nếu đi Citrus Grove, thì cậu ấy đã có thể kể lại mọi việc cho tôi nghe rồi. Thế nào cậu ấy cũng đã thấy được vài việc, nếu có mặt ở đó, mặc dù cậu ấy chỉ biết nghĩ đến mình đến nổi hầu như không biết gì về người xung quanh. Chính tôi cũng muốn đi xem người tiền sử, nhưng không biết đậu xe ở đâu?
- Dạ cháu không biết, Peter nói rồi bắt đầu bước lùi ra khỏi nhà bếp.
- Có cần phải nói lại với Frank rằng cậu đã đến không? Người phụ nữ hỏi. Cậu tên gì? Frank chẳng để ý gì đến tên tuổi người khác, nhưng biết đâu.
- Cháu tên Peter ạ, Peter trả lời. Có thể anh ấy sẽ không nhớ cháu đâu.
- Tôi sẽ nói lại, - bà hứa.
Peter rút lui, trở ra con đường chính, bắt chiếc xe buýt đi Citrus Grove.
Peter gặp lại Hannibal đang ngồi trên cái ghế xích đu cũ ở sân sau nhà MacFee. Hannibal lắng nghe Peter báo cáo lại chuyến đi Centerdale, rồi thở dài.
- Vậy nếu Frank DiStefano thật sự bị bệnh sáng hôm qua, thì không biết anh ấy có liên quan gì đến vụ bắt cóc không, nhưng có lẽ là không, - thám tử trưởng nói. Frank là người duy nhất ta biết mà không có chứng cớ ngoại phạm, nhưng bây giờ lại có rồi, thám tử trưởng nhún vai nói tiếp. Thế thì thua.
Peter nằm dài trên có. Hannibal ngồi nghiễn ngẫm suy tư, véo véo cái môi dưới theo kiểu báo hiệu một sự tập trung cao độ. Bob tìm thấy hai bạn tại đó khi trở về lúc bốn giờ chiều.
- Sao? Hannibal hỏi khi Bob xuất hiện trên lối đi.
- Tiến sĩ Karl Birkensteen có hẹn với bác sĩ Henry Childers vào ngày tiến sĩ mất, Bob đắc thắng thông báo. Nhà bác sĩ Childers trên đường Harborview. ông ấy là bác sĩ gây mê hành nghề tại bệnh viện St.Brendan ở Santa Monica. Khi mình hỏi bác sĩ xem tiến sĩ Karl Birkensteen có bỏ quên cái cặp tài liệu ở đó hồi tháng năm hay không, thì bác sĩ nhảy nhổm lên như bị ong đốt. Bác sĩ đã chờ Karl Birkensteen cả ngày, mà không thấy tiến sĩ tới. Dĩ nhiên là về sau bác sĩ biết tin rằng Karl Birkensteen đã chết.
- Bác sĩ gây mê à? Hannibal hỏi lại. Có phải là bạn của tiến sĩ Karl Birkensteen không?
- Không. Một người bạn ở Đại học Los Angeles của hai người có gợi ý hai người nên gặp nhau. Bác sĩ không biết tại sao Karl Birkensteen muốn gặp người bạn ở Đại học Los Angeles cũng không biết. Tuy nhiên, mình nghĩ việc ông ấy là một bác sĩ gây mê là rất thú vị, nên mình có hỏi thử bác sĩ xem có chất gây mê nào mạnh đến nổi có thể làm cho cả một thành phố thiếp ngủ đi trong vài giây.
- À! Hannibal kêu. Bác sĩ nói sao?
- Bác sĩ nói là không có. Bác sĩ có nghe về chuyện đã xảy ra ở đây ngày hôm qua, nhưng bác sĩ vẫn nói là không có chất nào như thế.
- Hừm! Hannibal nói.
Ngay lúc đó, Eleanor đến từ cổng sau, gật đầu chào ba thám tử, rồi tiến ra kho thóc, ông dượng đi theo Eleanor ra ngoài.
- Eleanor ơi, cháu đi đâu vậy? Newt gọi theo.
- Doris Clayton mời cháu đi ăn tối, Eleanor nói.
- Vậy nhớ không được về trễ, Newt cảnh báo.
Xe tải cẩu nổ máy, Eleanor de ra khỏi kho thóc.
Ông dượng đứng nhìn theo khi Eleanor lái đi.
Hannibal tiến đến gần, tằng hắng để MacFee quay lại nhìn thấy mình.
- Cháu đang muốn hỏi thăm, Hannibal nói, chú có nhận được thêm tin gì của kẻ bắt cóc không?
- Không, MacFee bực mình trả lời. Và chưa chắc gì tôi sẽ báo cho cậu biết đâu.
Rồi Newt MacFee bỏ trở vào nhà.
Buổi tối, ba thám tử ngồi ở quán cà phê Lazy Daze bàn luận về các chất gây mê, và lang thang trong thành phố.
Eleanor trở về nhà sau mười hai giờ khuya. Ba thám tử nằm trên gác xếp nghe tiếng Eleanor lái xe tải vào kho thóc. Rồi ba thám tử cũng nghe thấy Newt MacFee gọi với từ trong nhà, hỏi xem Eleanor đi đâu mà đến giờ này mới về. Sau đó, Eleanor vào nhà, các cửa sổ bị kéo rầm xuống, nhưng vẫn nghe tiếng nói chuyện lớn tiếng và tiếng khóc.
-Trời! Peter kêu. Chị ấy lớn rồi mà? Họ vẫn đối xử với chị ấy như một đứa bé.
- Chị ấy đủ lớn để bỏ nhà ra đi, Bob nói.
Cuối cùng trong nhà yên tĩnh lại. Ba thám tử thiếp ngủ đi. Sáng hôm sau, ba thám tử dậy sớm và ra ngoài trước khi mọi người dậy. Ăn sáng xong, ba thám tử gọi điện thoại cho Les Wolf để hỏi thăm xem bao giờ thì ông trở về Rocky. Ba thám tử mừng rỡ được nghe trả lời rằng ông Wolf cần ở lại Citrus Grove thêm một ngày nữa.
Ba bạn đi ngược lại con đường chính thì nhìn thấy Eleanor đang lái xe tải trên đường. Eleanor rẽ vào trạm xăng gần công viên, đổ xăng xe tải.
- Có lẽ hôm qua chị ấy đi với cô bạn kia dữ lắm, - Bob nói. Mới hôm qua mình thấy Newt MacFee đổ xăng rồi mà. Nếu sáng nay đã hết xăng rồi, thì...
Nhưng Bob ngưng nói bởi vì máy bơm xăng tắt đi sau khi chuông reng lần thứ nhì. Eleanor rút vòi xăng ra khỏi bình, đậy nắp lại, lấy tiền trong túi ra trả.
- Mười lít, Hannibal vừa nói vừa nhìn Eleanor chạy xe đi. Vậy là xe này đi khoảng bốn chục dặm. Chị ấy đã có thể đi xa đến tận Centerdale, đúng không?
- Có thể cô bạn gái đó sống ở Centerdale, Peter nói. Hay có thể chị ấy đi gặp người khác. Có thể chị ấy đổ xăng cho đầy lại, để ông dượng không thắc mắc xăng biến đi đâu hết.
- Ta không có cớ gì để nghi ngờ như thế cả, - Hannibal nhăn mặt nói. Thật ra ta không có lý do gì để nghi ngờ chị ấy về bất cứ điều gì. Tất cả đều là phỏng đoán. Có lẽ sẽ khôn ngoan hơn, và hữu hiệu hơn, nếu hỏi thẳng xem chị ấy có biết gì về người tiền sử hay không.
- Chị ấy sẽ không nói thật, Bob đáp, chị ấy đã nói láo về chuyện đi Rocky mà, đúng không?
- Có lẽ thế. Nhưng chị ấy có vẻ cô đơn quá, có thể chị ấy sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu được nói chuyện với một ai đó. Ta có gì mà mất đâu?
- Đúng, Bob đồng tình, nhưng nếu muốn nói chuyện với chị ấy, có lẽ cậu nên đi một mình. Thứ nhất là chị ấy sẽ khóc, và mình luôn khó xử khi người ta khóc. Thứ nhì là bọn mình không nên tỏ ra như đang kéo bè kéo bọn đi gặp chị ấy.
- Đồng ý, Hannibal trả lời.
Khi đến nhà MacFee, ba thám tử thấy Eleanor đã đi lên hội rồi, thế là Hannibal chia tay với Bob và Peter, đi tìm Eleanor. Thám tử trưởng định bấm chuông cổng, thì nghe tiếng Eleanor la hét.
- Trễ quá nghĩa là thế nào? Eleanor hét lên. Không thể nào có chuyện trễ quá!
Hannibal bước lui khỏi cửa. Cửa sổ phòng khách đang mở, Hannibal quay lại nhìn vào bên trong.
Không có ai trong đó. Đầu mấy con thú treo trên tường đang nhìn chằm chằm.
- Tôi không cần biết anh đã gọi ông ấy rồi, Eleanor nói. Cứ gọi lại đi. Nói ông ấy rằng đó chỉ là trò đùa!
Hannibal nhớ lại rằng có máy điện thoại treo tường ở trong hành lang ngoài các phòng thí nghiệm. Có lẽ Eleanor đang dùng điện thoại đó.
- Anh nói láo! Eleanor quát lên. Anh không hề làm việc đó vì tôi. Anh không quan tâm đến những gì xảy ra với tôi!
Có hồi im lặng ngắn, rồi Eleanor nói :
- Được rồi, anh sẽ thấy tôi dám làm gì.
Ống nghe điện thoại gác xuống cái rầm.
Hannibal bước ra xa cửa sổ. Một hồi sau, cửa trước mở ra thật mạnh và Eleanor bước ra, đầu ngẩng cao, môi mỉm chặt. Eleanor không nhìn trái không nhìn phải khi chạy nhanh xuống các bậc thềm ra ngoài cổng.
Hannibal đi theo, nhưng không gọi Eleanor. Thám tử trưởng đi được nữa đường thì thấy Eleanor băng qua cánh đồng bên nhà MacFee, mở tung cửa kho thóc ra. Bob và Peter ra cửa sổ gác xếp nhìn theo xe tải đang de ra. Eleanor cua gắt, rồi phóng nhanh trên đường, lao vào thành phố.
Bob và Peter đang bước ra khỏi kho thóc khi Hannibal về đến.
- Chị Eleanor đi đâu vậy? Peter hỏi.
- Mình không biết, Hannibal nói. Chị ấy giận dữ vì một điều gì đó. Mình nghĩ cuối cùng chị ấy sẽ ra tay.
- Sẽ không có một mình chị ấy, Bob nói. Newt MacFee mới đi ra ngoài cách đây khoảng mười phút, trông rất nghiêm trang cương quyết, còn bà vợ thì réo theo là không được tiêu thêm tiền nữa. Bà ấy nói đã phí quá nhiều tiền cho người tiền sử rồi. Ông ấy như không nghe và đi thẳng xuống thành phố.
- Tiền chuộc, Hannibal nói sau một hồi. Ông ấy sắp đi nộp tiền chuộc! Cuối cùng cũng có động tĩnh!
Chương 16
Bất Ngờ Hai Lần
DD
- i nào ! Hannibal ra lệnh. Ta hãy xem New MacFee giải quyết vụ nộp tiền chuộc như thế nào!
Thám tử trưởng chạy nhanh về hướng thành phố.
- Ông ấy định trả bằng cách nào? Peter hỏi khi đã bắt kịp Hannibal. Ông ấy không hề lấy xe đi.
- Vậy thì ông ấy đang dàn xếp, Hannibal hối hả nói. Đi!
Ba thám tử bước trên con đường chính. Cả ba vừa đi ngang qua công viên nhỏ thì thấy MacFee bước ra khỏi quán cà phê Lazy Daze. Ông Carlson, chủ quán, đi cùng. Có thêm hai người nữa. Hannibal nhận ra ông quản lý hiệu thuốc. Trong khi cả bốn đang đi thẳng đến ngân hang, thì một người bước ra từ khách sạn vội nhập bọn.
- Đúng như mình nghi, Hannibal nói. Tất cả những thương nhân trong thành phố đều có lợi trong vụ kinh doanh người tiền sử, nên tất cả họ sẽ đóng góp vào khoản tiền chuộc.
Hannibal ngồi xuống băng ghế trong công viên. Qua cửa kính, Hannibal nhìn thấy ông quản lý ngân hàng bước ra từ sau bàn viết để đón nhóm người mới đến. Trông ông rất nghiêm trang khi bắt tay với Newt, gật đầu chào những người còn lại, rồi mời mọi người vào một phòng phía sau ngân hàng.
- Bây giờ bọn mình làm gì? Bob hỏi.
- Chờ đợi, Hannibal trả lời. Ta sẽ không phải chờ lâu đâu.
Năm phút sau, khi đồng hồ trên tháp nhà thờ gõ mười giờ, Newt MacFee bước ra khỏi ngân hàng, xách một túi tiền. Ông chủ quán cà phê đi cùng.
- À há! Hannibal thốt lên.
MacFee và bạn bè đi đến khu bãi đậu xe gần quán cà phê, leo lên một chiếc VolksWongen đang đậu ở đó, rồi chạy đi.
- Mình có cảm giác rằng họ sẽ không đi lâu đâu, Hannibal nói rồi hươ tay về hướng con đường.
Hai người đã bước vào ngân hàng cùng MacFee bây giờ đang bước ra cùng với ông quản lý ngân hàng. Họ đứng trên lề đường khoảng vài phút, có vẻ lo lắng lưỡng lự. Rồi họ bước vào quán cà phê Lazy Daze, ngồi gần quầy.
Ba thám tử chờ trong khi đồng hồ nhà thờ gõ mười giờ mười lăm, rồi mười giờ rưỡi. Sau đó Newt và bạn bè chạy xe về, đậu ở bãi. Khi họ bước vào quán cà phê, Newt MacFee không còn mang túi tiền nữa.
- Ta có dám nhập bọn không? Hannibal đề nghị.
Thám tử trưởng đứng dậy, băng qua đường. Sau khi phân vân một hồi, Bob và Peter cũng đứng dậy đi theo.
Ngoại trừ những người trong quán, người đứng quầy và cô hầu bàn đang cho đường cát vào hũ, thì không có ai khác khi Ba Thám Tử Trẻ bước vào. MacFee nhìn ba thám tử trưởng, rồi nhìn đi chỗ khác. Hannibal, Bob và Peter ngồi xuống một bàn cạnh nhóm người. Hannibal gật đầu với thái độ thân thiện.
- Các chú đang chờ cú điện thoại của kẻ bắt cóc, phải không? Hannibal hỏi.
MacFee há miệng ra, rồi ngậm lại.
- Các chú đã nộp tiền rồi, đúng không? Hannibal nói.
MacFee loạng choạng bước đến tóm lấy cổ áo Hannibal.
- Mày biết gì? MacFee hỏi. Mày... mày cũng là đồng bọn! Mày đã rình rập tụi tao suốt thời gian!
Hannibal không hề chống cự mà chỉ nói.
- Cháu không hề là đồng bọn của ai cả.
- Ê, Newt ơi, bình tĩnh đi chứ, - ông chủ quán nói. Newt MacFee chau mày, nhưng rồi thả áo Hannibal ra.
- Tụi cháu rất quan tâm đến các vụ tội phạm, Hannibal bình tĩnh nói. Không chỉ quan tâm thôi, mà còn xem đó như là thiên hướng. Tuy nhiên, tụi cháu không phạm tội. Mà tụi cháu chỉ giải các vụ án, và thường tụi cháu thành công.
- Thằng nhóc kiêu căng! MacFee làu bàu rồi trở về bàn.
- Bộ chú nghĩ tên trộm sẽ nói cho chú biết bộ xương nằm ở đâu à? Hannibal hỏi.
MacFee không trả lời, nhưng ông chủ quán cà phê lên tiếng.
- Chúng tôi... thì chúng tôi không có cách nào để biết chắc mà, đúng không? chúng tôi chỉ có thể hy vọng thôi.
Bob chống cùi chõ trên bàn, lớn tiếng đặt câu hỏi xem người ta có thể giấu bộ xương người tiền sử ở chỗ nào.
- Trong phim, Bob nói, kẻ xấu luôn giấu đồ trong các tủ khóa bỏ tiền tại các trạm xe buýt, Bob nói. Nhưng ở đây không có trạm xe buýt. Mọi người chờ xe buýt ngay trước hiệu thuốc.
- Nhưng có nhà ga, Hannibal nhận xét.
Trong quán cà phê im lặng như tờ. MacFee và ông chủ quán quay sang nhìn phía bên kia đường về hướng nhà ga nhỏ ở cuối công viên. Nhà ga trông vẫn vậy : đổ nát và dơ bẩn.
- Trời ơi! ông chủ quán cà phê thốt lên.
Có một vụ xô đẩy lộn xộn khi nhóm người lao ra khỏi quán. MacFee đi đầu khi cả bọn đến cửa.
Ba thám tử cũng chạy theo và chỉ cách phía sau vài mét khi MacFee đến trước cổng kho và đang cúi xuống nhìn qua cửa sổ trầy trụa bụi bẩn.
- Đừng chạm vào! Hannibal la lên. Có thể có dấu vân tay!
MacPee bỏ đi khỏi cửa sổ, lao vào tông cánh cửa. Ván gỗ bắt đầu nứt ra.
Đám đông xuất hiện như có phép lạ. Những người đang mua sắm chạy ra từ siêu thị, các bà nội trợ vội vàng bước ra khỏi nhà. James Brandon và Philip Terreano đang chạy ngang qua trong chiếc xe của Brandon, Brandon rẽ ngay vào công viên. Edwood Hoffer bước ra từ hiệu thuốc, đứng ở mép đám đông.
MacFee cứ tông liên tục vào cánh cửa. Cuối cùng có tiếng rắc to lớn khi gỗ vỡ đi và cửa mở ra.
Đám đông nhào vào nhà ga.
- Bước lui! MacFee hét lên. Không được chạm vào bất cứ gì!
Mọi người đứng sững lại.
Trong đó chỉ có độc nhất một cái rương méo mó nằm ngay giữa sàn nhà. Xung quanh có dấu vết trên lớp bụi chứng tỏ có kẻ đã kéo rương vào trong qua cửa sổ.
- Bộ xương ở trong đó à? Có người hỏi.
Ông chủ quán cà phê kéo nắp rương ra rồi kêu “Aaaa!”
James Brandon băng qua đám đông. Tiến sĩ nhìn xuống hài cốt trong rương : một đống những mảnh và khúc, khó nhận ra là xương, và một cái sọ đang nhìn lên trần nhà.
Brandon thở hổn hển, mặt tái mét đi, rồi máu dồn lên đỏ lại. Brandon quay sang MacFee.
- Cái này là cái gì? ông hỏi.
MacFee hoảng hốt bước lùi.
Philip Terreano đặt tay lên cánh tay Brandon.
- Anh James ơi, bình tĩnh nào, Terreano nói.
Rồi Terreano nói với MacFee.
- Có... có một vụ nhầm lẫn khủng khiếp, Terreano nói. Trừ phi tôi lầm to, đây là bộ xương của một sinh thể họ người châu Phi mà anh James Brandon đã mang về đây, và...
- Đừng hòng lừa tôi! MacFee quát lên. Đây là người tiền sử của tôi!
Brandon cố gắng tự kiềm chế.
- Các mẩu xương đều có dán nhãn, Brandon nói. Tôi đã làm nhãn để ghi rõ ngày và nơi tìm thấy các mẩu xương.
- Anh Carlson ơi! có người gọi từ bên ngoài. Anh MacFee ơi!
Đám đông chẻ ra để nhường đường cho người mới đến.
- Có người vừa mới gọi điện thoại, ông báo cáo lại, nói rằng nếu anh muốn tìm ra người tiền sử của anh, thì hãy nhìn vào cái rương cũ ở nhà ga.
Ông há miệng rồi nói thêm : “như anh đang làm.”
- Thấy không? MacFee la lên. Đây là những mẩu xương xuất xứ từ hang động của tôi. Phải như thế thôi. Nếu không, làm sao kẻ bắt cóc biết được xương đang ở đâu? Trừ phi... trừ phi tất cả đều là một vụ lừa đảo!
Bây giờ mắt MacFee mở to lên vì giận dữ.
- Vụ lừa đảo! MacFee hét lên. Ngay từ đầu! Đều là lừa đảo!
MacFee lao đến Brandon, toan bóp cổ nhà khoa học.
- Ông đã cho bộ xương vào hang động của tôi! MacFee hét lên. Rồi ông giả bộ như vừa mới tìm thấy! Ông muốn người ta nghĩ ông giỏi giang lắm. ông đã lợi dụng tôi!
Brandon hươ nắm đấm ra, Terreano kéo Brandon lại.
- Kìa, kìa! Terreano nói. Bình tĩnh lại đi chứ!
Cảnh sát trưởng bước vào nhà ga, nhìn về hướng Brandon và MacFee. Đúng lúc đó Hannibal nhìn qua MacFee và Brandon thấy tiến sĩ Hoffer đứng ở mép đám đông. Hoffer đang nhìn Brandon, cặp mắt đen nhỏ sáng lên vì thích thú, nét mặt rất hài lòng.
Chương 17
HANNIBAL TÌM RA LỜI GIẢI
A
- nh James Brandon là một người có uy tín, Terreano tuyên bố. Anh ấy không cần quảng cáo rùm beng và chắc chắn không bao giờ tạo một vụ phát minh giả tạo!
- Chắc chắn là có như thế, MacFee nói. Chứ làm sao tên trộm biết rằng bộ xương đang ở đây?
Hannibal bước lên.
- Chính tên trộm đã bỏ bộ xương vào đây, - thám tử trưởng thản nhiên nói.
Brandon trừng mắt.
- Nghe này, thằng bé kia...
- Khoan đã! Hannibal la lên. Nghe đây! Quá hiển nhiên! Có hai bộ.xương hóa thạch, đúng không?
- Đúng, Brandon đáp.
- Đêm hôm trước nữa, ông MacFee đã thuê người mà các chú gọi là John Du mục đến canh gác viện bảo tàng để không cho ai vào đó. John Du mục cắm trại gần cửa vào viện bảo tàng, và trong đêm John Du mục đã bị đánh thức bởi một người mà ông ấy mô tả như người tiền sử. Ông ấy chạy đến kho thóc, nơi tụi cháu đang ngủ, và đánh thức tụi cháu. John Du mục nói với tụi cháu rằng người tiền sử đã băng qua cánh đồng, rằng người tiền sử có bộ tóc bù xù và khoác một tấm lông thú nào đó.
Cho dù John Du mục đã nhìn thấy cái gì đi nữa, thì đó không phải là người tiền sử có hài cốt đã nằm trong hang động. Cháu tin chắc rằng John Du mục đã nhìn thấy một kẻ tự hóa trang mình thành người tiền sử và bằng một cách nào đó đã có được chìa khóa viện bảo tàng, có lẽ là lấy từ nhà bếp ông MacFee. Tên trộm đã lấy bộ xương hóa thạch từ trong hang, thay thế bằng bộ xương hóa thạch của sinh thể họ người của châu Phi từng được cất trong phòng làm việc của tiến sĩ Brandon. Rồi tên trộm đã khóa cửa lại như cũ, băng qua cánh đồng để bỏ trên với bộ xương hóa thạch Mỹ.
- Điên rồ! Newt MacFee nói. Có kẻ làm một chuyện tào lao như thế để làm gì?
- Có lẽ có kẻ muốn làm mất uy tín tiến sĩ Brandon, Hannibal nói. Sớm muộn gì, bộ xương trong hang cũng sẽ được các chuyên gia xem xét. Các chuyên gia sẽ thấy được bộ xương đầy đủ của một sinh thể họ người châu Phi với các nhãn có tuồng chữ viết tay của tiến sĩ Brandon.
Terreano lắc đầu.
- Nhưng anh Brandon đã chụp hình bộ xương trong hang. Giả sử có hai bộ xương, từng nằm trong hang vào hai thời điểm khác nhau, thì sẽ có khác biệt, hiện rõ trên hình chụp.
- Hình chụp có thuyết phục được không? Hannibal hỏi lại. Đầu lâu của sinh thể họ người Mỹ bị chôn vùi một phần. Bất cứ ai cũng có thể khẳng định rằng tiến sĩ Brandon đã cắm bộ xương châu Phi xuống đất rồi chụp hình.
- Và ông ấy đã làm đúng như thế! MacFee tuyên bố. Ông ấy đã cắm thêm mấy khúc xương khác. Rồi có kẻ đã lấy cắp bộ xương. Bây giờ thì anh em chúng tôi bị mất trắng mười ngàn đô-la! Và không có gì để cho công chúng xem!
MacFee quay sang Brandon.
- Tôi sẽ kiện anh ra tòa! MacFee dọa rồi bỏ đi.
Brandon trừng mắt nhìn lại rồi cúi xuống, tiến hành lấy bộ xương hóa thạch ra khỏi thùng.
- Xin lỗi tiến sĩ Brandon, cảnh sát trưởng nói. Chúng tôi không thể để anh lấy bộ xương này đi. Chúng tôi buộc phải tịch thu cái rương này và tất cả những gì chứa trong thùng. Đây là tang vật.
Brandon bực mình nhăn nhó, rồi cũng bỏ đi. Khi người xem bắt đầu rút lui, thì ba thám tử cũng đi theo. Ba bạn đứng ngoài nắng trên con đường chính. Peter mỉm cười.
- Cậu đã giải ra vụ bí ẩn! Peter nói.
- Chưa hẳn, Hannibal nói. Mình chỉ vừa trình bày một cách giải thích khả dĩ. Ta sẽ không thật sự có được lời giải khi chưa biết ai đã nhập vai người tiền sử, ai đã làm cho cả thành phố ngủ. Còn nữa, bộ xương hóa thạch mà lần đầu tiên tiến sĩ Brandon tìm thấy trong hang hiện ở đâu?
Ba thám tử đi ngược lại trên con đường trở về nhà MacFee. Nhưng ba thám tử chưa đi được nữa khu nhà, thì nghe Frank DiStefano gọi. Người giúp việc ở hội đang đậu xe ngay khúc quẹo và nhìn đám đông vẫn còn tụ thành nhóm nhỏ gần nhà ga.
- Ê, có chuyện gì vậy? DiStefano hỏi. Tôi có lỡ mất chuyện gì vui không? Mọi người kia đang làm gì vậy?
- Bộ xương bị lấy cắp từ hang động hóa ra lại nằm trong cái rương ở nhà ga, Bob nói.
- Ô! Tuyệt! DiStefano kêu. Chuyện gì đã xảy ra? Có bắt được tên làm vụ ấy không? Hay MacFee và bạn bè đã nộp tiền chuộc?
- Họ đã nộp, Hannibal trả lời, lúc sáng nay. DiStefano gật đầu.
- Vụ làm ăn béo bở quá, DiStefano nói. Vậy bây giờ mọi người vui vẻ.
- Không hẳn vậy, Hannibal đáp. Có vài rắc rối. Thám tử trưởng đột nhiên nảy ra một ý.
- Anh có gặp chị Eleanor không? Hannibal hỏi.
- Không. Để làm gì? DiStefano lắc đầu nói.
- Em muốn hỏi chị Eleanor một chuyện, Hannibal nói. Em nghĩ có lẽ chị ấy đi Centerdale rồi. Anh đang định đi đến đó à?
- Ừ. Muốn đi nhờ hả?
DiStefano ngồi sau tay lái, cúi sang mở cánh cửa bên kia. Bob và Peter đẩy mặt nạ lặn sang một bên, trèo lên ghế sau. Hannibal ngồi cạnh DiStefano.
Xe chạy ngang qua các cửa hiệu và nhà ga, rồi qua hồ bơi thành phố, nơi trẻ con đang leo lên vấn nhảy để nhảy thẳng xuống nước.
- Vui quá hả? DiStefano nói. Mình cũng muốn được làm thế, nếu biết bơi.
Xe tăng tốc, ra khỏi thành phố trên con đường quanh co đến Centerdale.
Hannibal nhìn Peter. Peter đang cầm mặt nạ lặn, chau mày. Khi nhìn lên, mắt Peter đụng ánh nhìn của thám tử trưởng, và Hannibal lắc đầu nhẹ. Peter bỏ mặt nạ lặn trở xuống, ngã lưng ra ghế.
Hannibal liếc nhìn DiStefano. Frank DiStefano đang mỉm cười một mình trong khi lái xe.
Có một đống đồ vật nhỏ trên ghế giữa DiStefano và Hannibal : vài vỏ kẹo cao su, một cái hộp nhựa mất nắp, lon nước ngọt rỗng, phong bì nhàu nát với dòng chữ xanh lục sáng phía sau.
Hannibal cầm phong bì lên. Đó là danh sách những việc mà DiStefano phải làm. Trên danh sách có “Đổ xăng”. Có cả “Sửa xe A&L, sẵn sàng thứ 5” và “D/vụ Kh/học. Đường Wadlee.”
Hannibal bỏ phong bì trở xuống.
- Anh không biết bơi à, Hannibal nói với DiStefano.
- Không,
- Nhưng anh có mặt nạ lặn, Hannibal nhấn mạnh
- Ồ, cái đó hả. Không phải của tôi. Tôi giữ giùm bạn thôi.
- Thế à?
Giọng Hannibal trầm, căng thẳng và có một cái gì đó khiến DiStefano quay lại, rồi nhìn đi chỗ khác.
Bây giờ xe đã xa thành phố, chạy trên đường cao tốc có hàng cây mọc hai bên. DiStefano đạp nhẹ thắng rồi lắng nghe, đầu nghiêng sang một bên.
- Cái gì nữa vậy? DiStefano nói.
- Sao ạ? Hannibal hỏi lại.
- Máy xe bị kêu, DiStefano nói. Nghe không?
DiStefano dừng lại bên mép đường, thắng lại, rồi bước xuống xe.
Ngồi yên sau, Peter chau mày.
- Có nghe thấy gì đâu, Peter nói.
- Có lẽ tai cậu không được tốt lắm, DiStefano nói.
Bây giờ DiStefano đang đứng phía sau xe, cúi xuống nhìn ba thám từ trong xe, mỉm cười mỉa mai.
Hannibal thở dài.
- Mặt nạ lặn, thám tử trưởng nói. Bây giờ hiểu rồi. Trong phòng thí nghiệm của tiến sĩ Karl Birkensteen có chất gây mê, một chất gì đó tác dụng rất nhanh làm cho cả thành phố ngủ, rồi bay hơi đi không để lại dấu tích. Nhưng nếu không muốn thở phải chất đó và không muốn nó thấm vào da, thì phải dùng mặt nạ lặn và bộ đồ lặn. John Du mục cứ tưởng đã nhìn thấy một con quái vật một mắt có ngà voi. Thật ra, trong giây lát trước khi thiếp ngủ, ông ấy đã nhìn thấy mặt nạ lặn và cái ống thở.
DiStefano nhìn trân trân Hannibal, nét mạt trơ trơ.
- Chị Eleanor Hess đòi gặp anh sáng nay, Hannibal nói. Bây giờ chị ấy đâu rồi?
Rồi khi đã quá trễ, Hannibal nhìn thấy một chai xịt bằng nhựa trong tay DiStefano. Có lẽ nhét gần ghế tay lái. Bây giờ DiStefano đang đưa lên, nhắm thẳng vào Hannibal.
Peter hét lên, định trèo ra khỏi ghế sau.
DiStefano xịt vào mặt cả ba thám tử.
DiStefano bước lui, đóng sập cửa xe lại. Thám tử trưởng cảm thấy tứ chi mềm nhũn ra khi trượt xuống một bên ghế ngồi. Bóng đen dầy đặc trùm xuống. Nhưng cho dù đang ngất đi, Hannibal có được một giây phút hân hoan.
Bây giờ thám tử trưởng đã tìm ra lời giải!
Chương 18
TRỐN THOÁT, RỒI BỊ BẮT!
H
annibal tỉnh lại. Cậu biết mình đã tỉnh lại. Có mùi đất, gần Hannibal có tiếng thở và tiếng một cái gì đó đang di chuyển.
Nhưng vẫn tối thui!
Hannibal ngồi dậy, cảm nhận đất dưới tay. Có ai khóc thút thít trong bóng tối.
- Ai đó? Hannibal hỏi.
Hannibal thò tay mò mẫm đụng phải một ai bên cạnh. Có tiếng kêu khẽ.
- Chị Eleanor hả? Hannibal hỏi.
- Đừng! Eleanor la lên. Để tôi yên!
Peter rên rỉ đâu gần đó, còn Bob thì lầm bầm một cái gì đó.
- Chị đừng sợ, Hannibal nói và giữ giọng bình tĩnh. Em là Hannibal Jones đây. Peter ơi, cậu có sao không? Còn Bob?
- Mình bình thường, Peter nói. Bọn mình ở đâu vậy?
- Còn Bob? Cậu thế nào? Hannibal gọi.
- Tốt, Bob đáp.
- Chị Eleanor ơi, chị có biết chị em mình đang ở đâu không? Hannibal hỏi.
- Trong một nhà thờ cũ, Eleanor trả lời. Nhà thờ bỏ hoang, đổ nát. Có tầng hầm dưới đất nơi người ta để... người ta để xác chết!
Eleanor lại khóc nữa, to tiếng hơn, nức nở.
- Ta sẽ không bao giờ ra khỏi đây được! Sẽ không có ai đến đây!
- Úi chà! Peter rên lên.
- Hầm mộ nhà thờ, Hannibal nói, cái nhà thờ đổ nát. Nhưng mà... nhưng mà chị Eleanor ơi, phải có đường ra chứ. Làm thế nào mà ta lại rơi vào chỗ này được?
- Có cánh cửa sập ở đỉnh cầu thang, Eleanor nói, nhưng bị đóng rồi. Chị đã nhìn thấy cửa sập được một phút lúc Frank mở ra nhìn xuống, nhưng rồi hắn lại làm chị ngủ nữa.
- Bằng cái bình xịt, Hannibal nói.
Eleanor khịt mũi trong bóng tối, có vẻ như đang cố tự chủ.
- Chị giận Frank quá, Eleanor nói. Sáng chị đi gặp hắn. Chị nói với hắn chị sẽ gọi cho cảnh sát trưởng nếu hắn không chịu trả lại người tiền sử, và hắn sẽ bị bỏ tù. Hắn nói nếu hắn đi tù, thì chị cũng đi tù luôn. Nhưng chị không sợ!
- Rồi hắn dùng bình xịt để hạ gục chị, đúng không! Peter hỏi.
- Đúng. Rồi khi tỉnh dậy trong bóng tối ở đây, chị sợ quá. Chị la hét dữ dội, nhưng không có ai đến cả... và chị sợ phải dịch chuyển, lỡ có hố, có rắn hay cái gì đó khác. Sau một hồi lâu, Frank mở cửa sập ra, nên chị thấy được mình đang ở đâu. Chị leo lên cầu thang, nhưng hắn lại xịt cái chất đó vào chị, và chị lại ngủ nữa. Chắc là lúc hắn cho các em xuống đây.
- Chất trong bình xịt của Frank do tiến sĩ Karl Birkensteen phát hiện và chế ra, phải không? Hannibal hỏi.
- Phải. Chú ấy gọi nó là 4-23, bởi vì chú ấy dùng nó lần đầu tiên vào ngày 23 tháng tư. Chú ấy nói mấy chú khi sống nhanh quá và chết sớm quá, và chú muốn ngưng không cho chuyện này xảy ra. Chất mà chú ấy chế ra chỉ làm cho khi ngủ, thế thôi. Tiến sĩ Karl Birkensteen rất thất vọng, nhưng chú ấy nghĩ có thể các bác sĩ sẽ thích sử dụng chất này khi giải phẫu, bởi vì dường như không có phản ứng phụ.
- Thế là tiến sĩ đã đi Rocky để nói chuyện với bác sĩ gây mê, Hannibal nói, và tiến sĩ đã qua đời tại đó, trước khi kịp hoàn thành nhiệm vụ. Bọn em dễ dàng đoán ra phần còn lại. Chị đã nói với Frank DiStefano về chất đó, và chị hoặc Frank đã nảy ra ý làm cho cả thành phố ngủ mê để ăn cắp bộ xương hóa thạch.
Hannibal dự kiến sẽ có một trận nước mắt nữa, nhưng không có.
- Chị nghĩ sẽ đòi chỉ một ít tiền thôi, Eleanor nói. Chị chỉ cần vài trăm để ra đi, để sống cho đến khi tìm được việc làm. Frank đã qua mặt chị. Lẽ ra chị phải đoán rằng hắn sẽ như thế. Lỗi tại chị. Lần sau đừng hòng lừa chị!
- Hoan hô chị, Peter nói, nhưng ta nên tìm cách ra khỏi đây, nếu không sẽ không có lần sau.
Peter đứng dậy, thận trọng tiến một bước trong bóng tối, rồi thêm một bước nữa. Rồi Peter vấp phải một cái gì đó và xém ngã.
- Cầu thang, Peter kêu lên.
- Khoan đã, Bob nói.
Bob tìm đường đến chỗ Peter, hai tay giang trước mặt. Rồi cả hai từ từ leo lên cầu thang, tay vịn vào bức tường gạch của hầm mộ. Cuối cùng Bob và Peter không thể đi xa hơn nữa, bởi vì, như Eleanor đã nói, cửa sập đóng rất chặt.
Peter đứng khòm lưng dưới cửa sập, cố duỗi chân ra đẩy cửa lên, nhưng cửa không động đậy.
Bob dùng hai tay, nhưng vô ích.
- Chắc có đường ra, Bob nói.
- Không có, Eleanor tuyên bố, giọng nói run run nhưng không khóc nữa. Ta bị kẹt trong đây, và nếu Frank không trở lại giải thoát cho ta, thì ta sẽ.. ta sẽ...
- Đừng lo, Hannibal vội nói. Hắn sẽ đến.
- Có lẽ chỗ này nằm trên cao độ mặt đất, Bob nói. Khí mát tuồn vào qua khe hở trong tường.
Bob nắm chặt nắm tay lại, giọng thử bằng cánh tay, rồi thốt lên :
- Nhúc nhích! Gạch bị lỏng!
Bob dùng móng tay cào, thêm một ít vữa rơi xuống.
Rồi có tiếng cà mạnh khi Bob tháo một viên gạch ra khỏi tường.
- Úi chà! Bob thốt lên.
Viên gạch rơi xuống sàn hầm mộ.
- Cẩn thận chứ! Thám tử trưởng la lên trong bóng tối.
- Xin lỗi nhé, Bob đáp.
Bob đang nắm được viên gạch thứ nhì, và cào, kéo, lắc cho đến khi lấy ra được.
Viên gạch thứ ba lấy ra dễ dàng hơn, rồi đến viên thứ tư. Phía sau hàng gạch đầu tiên, có một lớp vữa ra ra khi vừa mới chạm vào. Phía sau có thêm một hàng gạch nữa.
Peter thò tay ra, dồn hết sức mình đẩy thật mạnh, hai viên gạch rơi ra ngoài, để lộ khu rừng thưa xung quanh nhà thờ.
Eleanor và ba thám tử nhìn thấy ánh mặt trời!
Sau đó rất dễ dàng. Bốn chị em xúm nhau đẩy gạch ra, cạo vữa đi, đẩy và giật. Chẳng bao lâu Bob vặn người chui ra được. Bob bị trầy trụa dơ dáy, các ngón tay chảy máu.
Một phút sau, ba tù nhân còn lại nghe tiếng cào bên ngoài. Bob đang đẩy đi những cây xà to và khối đá mà DiStefano dùng để chặn trên cửa sập. Trong khi chờ, Hannibal xem xét hầm mộ nhờ ánh sáng từ cái lỗ mới khoét trên tường. Hầm mộ là một phòng dài hẹp, không rộng lắm. Dọc theo bức tường bên trong, có những cái lỗ đen thui là các hốc xưa kia để quan tài. Hannibal rùng mình khi nghĩ rằng chính Ba Thám Tử Trẻ xém một chút cũng cần đến quan tài.
Cuối cùng Bob kéo cửa sập ra, Eleanor, Hannibal và Peter leo lên các bậc thềm.
Mặt mày Eleanor đen dơ, còn mắt thì đỏ hoe, quần bị rách một đường dài ở đầu gối, nhưng trông Eleanor rất cương quyết. Lần đầu tiên từ khi Ba thám tử trẻ gặp cô, Eleanor có vẻ biết chắc và tự tin về những gì mình muốn làm.
- Được rồi, Eleanor vừa nói vừa dẫn đầu cả bọn ra khỏi nhà thờ đổ nát. Ta phải đi tóm tay Frank trước khi hắn kịp tẩu thoát. Nếu ta không bắt hắn kịp, thì mọi người có thể bị rắc rối to. Hắn đã lấy các ghi chép trong nhật ký tiến sĩ Karl Birkensteen. Hắn đã có được công thức của chất 4-23!
- Nghĩa là hắn sẽ chế ra được cái chất làm cho người ta ngủ hả? Peter hỏi.
- Đúng. Khi đã biết rồi, thì không khó đâu. Vì Frank từng học qua hóa học khi bỏ trung học.
- Ôi! Peter thốt lên.
Bốn chị em chạy nhanh qua rừng, băng qua cánh đồng. Khi đến kho thóc, cả bốn thấy chiếc xe đang ở đó, chìa khóa còn cắm trên công tắc. Có lẽ Thalia MacFee vừa mới đi chợ về, bởi vì trong xe có những túi chất đầy đồ hộp, bánh mì và các loại thực phẩm khác.
Eleanor leo lên ngồi sau tay lái, thò tay đến chìa khóa.
- Ê, chờ đã! Peter kêu lên.
Peter mở cửa sau, nhảy lên xe. Bob trèo lên theo sau Peter. Còn Hannibal chạy nhanh vòng qua xe, leo lên ngồi cạnh Eleanor.
Thalia MacFee chạy ra từ cửa sau nhà, hét lên khi thấy Eleanor nổ máy, de xe ra khỏi kho thóc. Eleanor không trả lời bà dì. Eleanor sang số, tăng tốc về hướng thành phố.
-Ta đi đâu? Hannibal hỏi.
Lần đầu tiên, Eleanor có vẻ dao động. Eleanor giảm tốc độ, hoảng hốt nhìn Hannibal.
- Chị... chị nghĩ có thể đi Centerdale, Eleanor nói.
Hannibal có vẻ lo lắng.
- Chắc chắn Frank đang trốn chạy, thám tử trưởng nói. Thế nào hắn cũng sẽ lo sợ ta ra được khỏi hầm mộ, hoặc người ta thấy bốn chị em ta biến mất và người ta sẽ tìm kiếm.
- Nhưng chắc chắn hắn phải đi Centerdale! Eleanor kêu lên. Hắn sẽ không hấp tấp mà, đúng không? Làm sao hắn ngờ nổi ta có thể ra ngoài nhanh như thế! Nếu không bắt hắn lại, thì sẽ kinh khủng lắm. Hắn sẽ tự chế ra mấy chục lít theo công thức của tiến sĩ Karl Birkensteen. Hắn có thể làm cho cả đất nước này ngủ.
Eleanor rẽ vào bãi đậu xe gần quán cà phê.
- Chị sẽ đi gọi cảnh sát, Eleanor tuyên bố. Chị sẽ kêu mọi người phát lệnh truy nã Frank.
- Khoan đã, Hannibal nói rồi nhắm mắt nhớ lại danh sách những công việc phải làm trong xe của Frank DiStefano.
- Có chuyện gì vậy? Eleanor hỏi rồi nắm cánh tay tay Hannibal. Ê, đừng phí thời gian nữa nhé?
- Có gì đâu! Peter bảo. Babal đang cố nhớ ra một cái gì đó.
- Đường Wadlee, Hannibal nói. Đường Wadlee là ở đâu?
- Là một khu công nghiệp nhỏ ở Centerdale.
- Vậy thì đúng rồi! Hannibal thốt lên. Trên danh sách có một cái tên. D/vụ Kh/học. Có lẽ là Dịch vụ Khoa học. Chắc là tên một công ty bán hóa chất. DiStefano sẽ đi mua những thứ cần thiết để pha chế thêm chất gây ngủ.
- Ồ! Eleanor kêu.
Rồi Eleanor chạy ra khỏi xe, tìm tiền lẻ bước vào buồng điện thoại trong bãi đậu xe.
- Đây! Bob đứng phía sau đưa vài đồng lẻ.
Một đồng mười cents rơi vào máy điện thoại, rồi Eleanor quay số. Eleanor chờ khoảng mười giây rồi nói.
- Eleanor Hess gọi đây, Eleanor nói hai mươi giây sau, cháu của Newt MacFee. Kẻ lấy cắp bộ xương hóa thạch trong hang động Citrus Crove chính là Frank DiStefano. Ngay bây giờ, có lẽ hắn đang ở một công ty tên là Dịch vụ Khoa học trên đường Wadlee ở Centerdale, mua hóa chất để làm thêm cái chất đã khiến mọi người ngủ. Khi người của chú đi bắt hắn, thì phải hết sức cẩn thận. Hắn có thể làm cảnh sát ngủ hết, nếu không cảnh giác hắn.
Eleanor gác máy xuống. Eleanor và Bob chạy trở ra xe. Eleanor lái xe ra khỏi bãi đậu, đi về hướng Centerdale.
- Hy vọng cảnh sát trưởng nghe rõ, Eleanor nói.
- Chắc là nghe mà, Hannibal đáp.
Bây giờ xe đã ra xa khỏi thành phố. Bàn chân Eleanor đạp ga mạnh. Hàng cây hai bên đường lướt qua thật nhanh. Hannibal tỳ chân mạnh vào sàn và vịn chắc khi xe cua.
Không ai nói gì cho đến khi xe chạy qua một tấm biển thông báo đã vào lãnh địa Centerdale. Rồi Eleanor thắng lại hơi gấp, khiến xe hơi bị trượt khi giảm tốc xuống về giới hạn cho phép.
- Bây giờ không nên để bị cảnh sát thổi vì chạy quá tốc độ, Eleanor nói.
Xe chạy ngang qua hai siêu thị, nằm đối diện nhau hai bên đường, rồi Eleanor rẽ phải. Ba thám tử trẻ nhìn thấy những cửa hiệu nhỏ hơn và vài ngôi nhà, rồi đến các tòa nhà công nghiệp. Eleanor lại quẹo nữa.
- Đây là đường Wadlee, Eleanor nói, nhưng không thấy xe cảnh sát đâu cả.
Rồi bốn chị em để ý thấy một tòa nhà vuông vức không cửa sổ với xe cảnh sát đậu gần khu dỡ hàng. Xe của DiStefano cũng gần đó. DiStefano đang đứng gần xe cảnh sát trưởng, tay cầm bình xịt.
DiStefano quay lại, nhìn thấy xe đến, rồi trở về xe hắn.
Eleanor rẽ vào lối đi của công ty hóa chất. Ba thám tử thấy người trong xe cảnh sát đang gục đầu xuống tay lái, rồi thấy DiStefano đã ngồi sau tay lái xe hắn, mặt nhăn nhó, miệng la hét một cái gì đó. Tiếng máy xe của hắn vang lên khắp khu nhà. Hắn đang cố khởi động xe, nhưng xe đã chết máy.
Cuối cùng máy nổ được. Tiếng lốp xe kêu rít trên đường nhựa và DiStefano chạy nhanh ra đường.
Eleanor Hess bẻ mạnh tay lái.
Có cú nảy xóc lên, rồi tiếng loảng xoảng chói tai khi các bộ phận kim loại văng xuống đất. Eleanor đã chặn được đầu xe bên phải của DiStefano, làm vỡ nát thanh cản sốc của xe hắn vào bánh xe.
DiStefano thốt lên một tiếng chửi rủa, rồi leo ra khỏi xe. Hắn chạy về hướng Eleanor, tay cầm bình xịt.
Ngay lập tức, Peter thò người ra khỏi xe, tay cầm một cái gì cứng và màu tối. Peter ném vật đó trúng vào trán DiStefano. Hắn bước loạng choạng, thả rơi bình xịt, ngã xuống.
Sau đó là tiếng còi hụ và đèn chớp. Một chiếc xe cảnh sát thứ nhì chạy đến, dừng sát ngay trước xe của DiStefano. cảnh sát bước ra, súng chĩa sẵn. Cảnh sát nhìn xuống DiStefano, rồi nhìn Eleanor và Ba Thám Tử Trẻ.
- Phía sau xe có mấy túi đồ đi chợ, Peter tươi cười nói, mình hạ gục hắn bằng một quả cà tím!
Chương 19
ĐỘNG CƠ MỘT TRIỆU ĐÔ-LA
C
ảnh sát trưởng ngồi ở sân hiên phía sau tòa nhà Hội Spicer, thèm thuồng nhìn hồ bơi đang lấp lánh dưới ánh nắng
- Ta có rất nhiều chứng cứ chống lại DiStefano, - cảnh sát trưởng nói. Trên cái rương tìm thấy trong nhà ga cũ hôm qua có dấu vân tay của hắn. Ngoài ra, bà chủ cho hắn thuê nhà đã nhận ra cái rương. Hắn đã lấy cắp từ tầng mái nhà bà.
Cảnh sát trưởng nhìn khắp những người đã tập trung ở sẵn hiên. Newt và Thalia MacFee đã đến khi Terreano gọi. Eleanor Hess, qua đêm với bà Collinwood, đang ngồi gần bà. Thỉnh thoảng, bà Collinwood vỗ vỗ tay Eleanor như để trấn an.
Hannibal, Bob và Peter đã ở lại rất trễ với cảnh sát rồi quay về Citrus Grove cùng với Eleanor. Ba thám tử nhìn thấy hai vợ chồng MacFee đang đi trên đường, và đi theo.
Philip Terreano và James Brandon đã ra khỏi phòng làm việc. Tiến sĩ Hoffer, ở trong hồ bơi khi cảnh sát trưởng đến, vội leo ra khỏi hồ, khoác khăn lông lên người, rồi gia nhập nhóm người trên sân hiên.
- Người tiền sử của tôi thế nào rồi? Newt MacFee hỏi. Bao giờ thì tôi có thể nhận về?
- Bộ xương trong rương không phải là người tiền sử của ông! Brandon hét lên. Đó là xương sinh thể họ người mà tôi đã tìm thấy ở châu Phi!
- Có hai bộ xương khác nhau mà, Terreano nói. Nhất định phải có hai bộ xương khác nhau!
- Vậy sao không hỏi cô này? Thalia MacFee nói, chỉ vào Eleanor. Chắc chắn cô kia đã lấy mất mấy bộ xương, rồi giấu đi.
Eleanor ngẩng đầu lên thách thức.
- Không. Tôi không biết gì... ngoài những gì đã khai báo.
- Nếu mày đã khai bao nhiều như thế, thì sao chưa ngồi tù? Thalia hỏi rồi quay sang cảnh sát trưởng. Anh có muốn chúng tôi ghé qua đồn ký vào đơn kiện không? Cô ấy là kẻ đã giúp DiStefano mà, đúng không?
- Hiện cô Hess đang được bảo lãnh tại ngoại, cảnh sát trưởng trả lời.
- Bảo lãnh? MacFee gầm lên. Ai nộp tiền bảo lãnh cho nó? Tôi không bao giờ làm chuyện đó.
- Tôi nộp, James Brandon trả lời.
- Anh hả? Để làm gì? MacFee hổn hển hỏi.
- Bởi vì tôi thích thế, Brandon nói. Bất cứ ai từng sống bao nhiêu năm trong nhà ông đều có thể được tha thứ.
Thalia MacFee run lên vì tức giận.
- Anh không được nói thế! bà quát. Chúng tôi không hề phạm tội gì. Mà chính cô kia phạm tội! Vậy mà chúng tôi đã nhận nó về nuôi, cho nó một mái ấm!
Eleanor ngồi thẳng dậy trên ghế.
- Tôi chỉ muốn lấy lại chút đỉnh những gì thật ra là của tôi! Tôi muốn rời khỏi nơi này và đi làm việc ở San Dingo hay Los Angeles, và có thể học thêm một tí và... và có một chỗ riêng để tiếp bạn bè. Mỗi khi tôi có được ít tiền, thì dì lấy mất của tôi rồi nhắc là đã tốn bao nhiêu tiền để nuôi tôi. Tôi không muốn bị kẹt lại nơi này mãi mãi và bị dì dượng lấy tất cả!
Eleanor bước lại gần Thalia MacFee, khiến bà dì lui lại.
- Tôi không đòi hỏi nhiều, Eleanor nói. Có thế là khoảng năm trăm đô-la. Vậy mà bây giờ tôi sẽ được rất nhiều tiền. Tôi sẽ thuê luật sư và luật sư sẽ lo sao cho tôi được báo cáo lại về tài chính.
- Cô mà có tiền gì! Thalia MacFee hét lên.
- Cha tôi có bảo hiểm mà,đúng không? Eleanor hỏi lại.
Thalia mím chặt môi, nhìn đi chỗ khác.
- Rồi còn căn nhà ở Hollywood nữa, Eleanor nói. Nhà đó là của tôi mà, đúng không? Tiền thuê nhà suốt những năm vừa qua đi đâu hết rồi?
Newt MacFee tằng hắng.
- Kìa, kìa, cháu Eleanor, - ông nói. Không cần thiết phải thuê luật sư về chuyện này đâu. Nếu cháu muốn ra đi khỏi thành phố này, thì có trở ngại gì đâu, cháu đã đủ lớn để quyết định số phận mình mà. Dì dượng có thể tìm một căn hộ cho cháu ở San Dingo, hay ở Oceanside, rồi đưa cho cháu vài trăm để bắt đầu cuộc sống mới. Không cần phải làm lớn chuyện lên như thế.
- Vài trăm à? Eleanor la lên. Bộ dì dượng tưởng sẽ giải quyết xong chuyện này chỉ với vài trăm à?
- Một ngàn, Thalia nói. Không. Không, hai ngàn.
Eleanor trừng mắt nhìn dì.
- Năm ngàn nhé? Thalia hỏi.
- Mười! Eleanor nói.
- Thôi được, Thalia ơi, Newt nói. Mười ngàn. Và không ai có thể trách rằng chúng tôi đã không làm tròn phận sự.
Eleanor tựa lưng vào ghế trở lại.
- Lẽ ra tôi phải lên tiếng sớm hơn, Eleanor nói. Lần sau tôi sẽ khôn hơn.
- Và mạnh dạn hơn, Eleanor à, Terreano nói. Hãy can đảm lên. Ta luôn phải có kế hoạch.
- Còn về bộ xương, Newt MacFee nói. Tôi muốn...
- Rất tiếc, cảnh sát trưởng nói. Cảnh sát phải giữ cái rương và bộ xương cho đến khi giải quyết xong vụ DiStefano.
- Có lẽ mọi người cũng muốn tìm ra bộ xương kia, Hannibal nói. Bộ xương Mỹ ấy.
Mọi cái đầu quay về hướng thám tử trưởng.
- Bộ xương đang ở trong hầm mộ nhà thờ cũ, đúng không thưa tiến sĩ Hoffer?
Hoffer sượng người lại như bị hóa đá.
- Chú đã toan làm mất uy tín tiến sĩ Brandon, Hannibal nói tiếp. Chú muốn bảo đảm chắc chắn chú sẽ lấy được giải Spicer một triệu đô-la để chú có thể tiếp tục mấy cuộc thí nghiệm của chú. Chú đã vào viện bảo tàng cái đêm trước khi nó được khai trương. Đó là một phị vụ chuẩn bị rất tốt. Cháu đoán chú đã lấy chìa khóa viện bảo tàng trong nhà bếp ông MacFee, rồi đi làm thêm chìa khác trước đó. Chú Hoffer đã lấy đi bộ xương Mỹ trong hang động, thay bằng bộ xương châu Phi lấy từ tủ phòng làm việc của tiến sĩ Brandon. Rồi chú đã quét vùng đất xung quanh bộ xương.
Khi chú ra về với bộ xương trong hang, John Du mục đã nhìn thấy chú. Chú đã đề phòng trước khả năng này. Chú đã trùm mình trong bộ lông thú, và chú đội bộ tóc giả. Ông John Du mục tội nghiệp cứ ngỡ mình nhìn thấy người tiền sử.
- Thật vô duyên! Hoffer cười nhếch mép nói.
- Cháu chỉ bắt đầu nghi chú khi bộ xương sinh thể họ người của châu Phi được phát hiện ở nhà ga, Hannibal nói tiếp. Chú có biết nét mặt chú trông khoái chí như thế nào, khi vụ phát hiện xảy ra không? Điều đó đã đủ làm cho cháu suy nghĩ.
Cháu nhớ lại rằng trong nhà này có hàng chục bộ lông thú. Và đúng lúc người tiền sử bị mất, thì bà Collinwood kêu bị mất một bộ tóc giả, rồi lại tìm thấy trở lại. Việc này chứng tỏ thủ phạm phải là người của hội.
Rồi khi Peter, Bob và chính cháu băng qua cánh đồng, vào rừng đến đi tích nhà thờ cổ, thì chú đã nhìn thấy tụi cháu và lo sợ. Thế là chú đi theo để lo sao cho tụi cháu không phát hiện ra bộ xương. Chú đã vào nhà thờ, ngồi trên các bậc thềm tại đó, ngồi ngay trên cửa sập dẫn xuống hầm mộ. Chú ngồi ngay trên đó, để tụi cháu không nhìn thấy và mở ra.
- Đó chỉ là phỏng đoán thôi, Hoffer mỉm cười nói. Tôi xin bảo đảm với cậu rằng tôi không đi lang thang ban đêm, người trùm bộ lông thú. Nếu cậu không muốn bị rắc rối, thì cậu nên ngưng tố cáo bậy bạ đi.
- Có phần phỏng đoán, Hannibal thừa nhận, nhưng có chứng cớ rõ rằng. Chú là người cầu toàn. Người tiền sử không đi giầy, thế là chú không đi giầy. Chú đã đi chân không băng qua cánh đồng. Thưa tiến sĩ Hoffer, chú đã để lại một dấu chân, và cháu đã làm một mẫu đúc thạch cao dấu chân ấy, nên cháu biết chắc rằng tên trộm có bàn chân nhỏ và một ngón chân khoằm.
Mọi ánh mắt nhìn chằm chằm xuống chân trần của Hoffer. Hoffer bắt đầu thụt chân lại, như thể có thể giấu kín đôi chân dưới ghế. Nhưng rồi ông nhận ra rằng làm như thế vô ích. Ông đứng dậy, ngón chân khoằm bên phải hiện rõ trước mắt mọi người.
- Tôi đi thay đồ và gọi luật sư đây, - ông nói.
- Anh Hoffer, sao anh lại có thể làm thế? Terreano nói với giọng nhẹ nhàng nhưng nét mặt buồn bã.
Hoffer không dám nhìn vào mắt Terreano. ông đi vào nhà, cảnh sát trưởng đi theo ông.
Brandon mỉm cười.
- Tôi cũng sẽ đi gọi luật sư đây, Brandon nói. Tôi phải thử xin một lệnh tòa nào đó để không cho MacFee chộp lấy bộ xương đó một lần nữa, ít nhất trong một khoảng thời gian nhất định.
Brandon đứng dậy, bước vào nhà qua cửa phòng khách.
- Không làm nổi đâu! MacFee nói. Bộ xương đó là của tôi!
- Chưa chắc à nhe, MacFee ơi, Terreano đáp. Dù sao, ông đâu phải bà con họ hàng gần gì với người tiền sử!
Chương 20
ÔNG HITCHCOCK KHÂM PHỤC
V
ài ngày sau khi trở về Rocky, Ba thám tử trẻ đến tìm A. Hitchcock - nhà đạo diễn từng danh. Ông Hitchcock niềm nở đón tiếp ba bạn và hỏi ngay :
- Sao, vụ bắt cóc người tiền sử đến đâu rồi?
Bob đã bỏ ra hai ngày để đánh máy lại vụ án. Bob trao quyển ghi chép cho ông Hitchcock, rồi ngồi trở xuống trong khi nhà đạo diễn đọc qua hồ sơ về các sự kiện ở Citrus Grove.
- Hay quá! ông Hitchcock nói sau khi đọc xong. Nhưng cũng dễ sợ thật. DiStefano xém thoát được cùng với công thức chất gây ngủ, đúng không?
- Mặc dù rất bất cẩn, Hannibal gật đầu đáp, nhưng hắn xém thành công. Điều lạ lùng là động tác thận trọng duy nhất của hắn đã làm cho hắn sa lưới. Hắn đã tiêu hủy những trang nhật ký nơi tiến sĩ Karl Birkensteen đã ghi lại cuộc hẹn với một bác sĩ gây mê và có thể là có ghi lại những việc khác có liên quan đến chất gây ngủ. Khi cháu phát hiện ra quyền lịch bị thiếu nhiều trang, thì chị Eleanor cứ nói chị ấy không biết tại sao. Nhưng cháu biết chắc chị ấy biết.
- Tội nghiệp con bé Eleanor khờ khạo, ông Hitchcock nói. Các cậu có nghĩ rằng DiStefano định bỏ đi thật và bỏ cô ấy lại trong hầm mộ không? Và bỏ cả các cậu nữa?
- Ai biết được? Hannibal trả lời. Có lẽ hắn không bận tâm nghĩ đến những gì có thể xảy ra với Eleanor và tụi cháu đâu.
- Trí óc hắn nhảy lung tung như cóc vậy, Peter nói. Hắn không chú ý đến những gì hắn làm. Chẳng hạn như để trên xe mặt nạ lặn có ống thở mặc dù hắn không biết bơi.
- Hắn lấy tiền chuộc dưới cái bàn trong vùng nghĩ trên đường đi giữa Citrus Grove và Centerdale, Bob nói, rồi hắn nhét vào thùng xe. Đôi giầy hắn đi để trộm người tiền sử vẫn còn để dưới giường hắn ở Centerdale. Với tấm hình chụp dấu chân trong hang, cảnh sát trưởng đã có chứng cớ.
- Điều gì đã giúp cậu nghi ngờ hắn khi về cuối? ông Hitchcock hỏi. Hắn có chứng cớ ngoại phạm cho khoảng thời gian người tiền sử bị đánh cắp mà.
- Có lẽ là do hắn không bao giờ hiện diện khi có một chuyện gì đó xảy ra, Hannibal nói. Lúc nào hắn cũng xuất hiện sau. Hắn không ngủ trong công viên cùng mọi người khi vụ trộm xảy ra. Cái hôm tìm thấy bộ xương trong rương, thậm chí hắn không thèm băng qua đường đến nhà ga xem chuyện gì đang xảy ra, trong khi bất cứ người tò mò nào cũng muốn tận mắt xem.
Ngoài ra hắn là kẻ duy nhất dường như có liên quan đến mọi yếu tố vụ án. Hắn biết chị Eleanor Hess, nên hắn có thể biết về chìa khóa trong nhà bếp MacFee. Và qua Eleanor, hắn có thể biết về cái chất gây ngủ của Karl Birkensteen. Hắn biết giờ giấc làm việc của hội và kế hoạch khai trương hang động,
Chứng có ngoại phạm đối với thời gian xảy ra vụ trộm của hắn nghe vững vàng, nhưng cháu nhận ra rằng bà chủ thuê nhà của hắn thật ra không nhìn thấy hắn, mà chỉ nghe hắn ngáy thôi. Hóa ra hắn thu tiếng ngáy trên một cuộn băng dài một tiếng rưỡi, rồi bật máy lên. Hắn bảo chủ nhà rằng hắn không được khoẻ, bật cuốn băng ghi âm lên, trèo qua cửa sổ đi đến Citrus Grove. Hắn không sợ bà chủ sẽ vào phòng xem hắn ra sao, bởi vì bà ấy không bao giờ làm thế. Bà ấy biết hắn không thích bị theo dõi.
Hắn chạy xe đến bể chứa nước của Citrus Grove, có lẽ bằng các con đường phụ để không bị thấy. Hắn cho thuốc ngủ vào nước, rồi bật các vòi nước lên. Dĩ nhiên là hắn cài lại thời gian để vòi nước phun ra đúng mười giờ hai mươi.
Khi các vòi nước phun vừa khởi động, hắn đeo mặt nạ lặn đến viện bảo tàng, xịt thuốc vào John Du mục, lấy cắp chìa khóa viện bảo tàng trong nhà bếp nhà MacFee, rồi ra tay. Hắn cho bộ xương hóa thạch vào bị, mang ra nhà ga. Bộ xương đã nằm trong rương phòng hành lý nhà ga trước khi mọi người tỉnh lại.
Vài điều trên đây chỉ là phỏng đọán, bởi vì DiStefano không chịu nói, nhưng ta có thể suy ra những gì đã xảy ra. Ta có nhân chứng nhìn thấy xe của DiStefano đậu gần bể chứa và Eleanor đã nhìn thấy hắn mang mặt nạ lặn rời khỏi hội trước khi xảy ra vụ trộm. Dĩ nhiên là chất gây ngủ được lấy từ phòng thí nghiệm tiến sĩ Karl Birkensteen.
Chị Eleanor hốt hoảng khiếp sợ khi hắn đòi mười ngàn đô-la, thay vì một hai ngàn, nhưng chị lại sợ không dám tiết lộ âm mưu này.
- Tội nghiệp cô bé khờ khạo, ông Hitchcock lại nói nữa. Cô ấy sẽ ra sao?
- Chị ấy sẽ làm nhân chứng chống lại DiStefano, Peter trả lời, nhưng có lẽ chị ấy sẽ bị quản chế một thời gian. Chị ấy rất xấu hổ vì đã tham gia âm mưu này.
- Chị ấy đã tự nguyện khai ra mọi việc thật chi tiết, Hannibal nói thêm. Chị ấy công nhận rằng chị ấy đã nói xấu Newt và Thalia MacFee phía sau lưng hai người, mặc dù chị ấy không dám công khai chống lại dì dượng. Chị ấy bức xúc vì cách họ đối xử với chị, và chị ấy căm ghét họ vì chị ấy không bao giờ có tiền trong khi chắc chắn hai người thu được tiền thuê nhà rất cao. Và chị ấy cũng sợ không dám tự mình ra đi.
- Nhưng ai đã nghĩ ra cái vụ lấy cắp bộ xương hóa thạch để đòi tiền? ông Hitchcock hỏi. Có phải Eleanor không? Có phải cô ấy nghĩ rằng đó là một cách để trả đũa?
- Chị Eleanor không nhớ chắc ai đã nghĩ ra trước, Hannibal trả lời. Chị ấy đã nói với DiStefano về công thức của tiến sĩ Karl Birkensteen. Sau khi Karl Birkensteen chết, các thành viên hội đồng quản trị hội quyết định xem qua giấy tờ tài liệu của ông để quyết sẽ phải làm gì. Khi nghe được tin này, DiStefano đã gợi ý với Eleanor rằng thật là uổng khi để một chất hay như thế mất đi. DiStefano nói là có thể kiếm được tiền với một chất làm cho mọi người ngủ, rồi lại bay hơi không để lại dấu vết.
Nhưng chị Eleanor lại nói chị ấy tưởng là hắn nói đùa, và chị ấy có nói một câu đại loại như thế này : “Ta có thể làm dượng Newt ngủ, rồi lấy người tiền sử của dượng mang đi bán cho một viện bảo tàng khác.” Chị ấy khẳng định mình chị nói đùa, nhưng DiStefano đã chộp cái ý này và trả lời “Ta sẽ không bán người tiền sử, mà ta sẽ đòi tiền chuộc.”
Chị Eleanor vẫn nghĩ DiStefano nói giỡn, nhưng càng nói, thì càng thành hình. Eleanor biết rõ làm như vậy là sai trái, và chị ấy cũng không thích gì DiStefano. Chị ấy nói hắn luôn muốn có được một cái gì đó từ con số không. Nhưng hắn cứ nói suốt về chuyện chị ấy sẽ không bao giờ có được sự công bằng từ ông bà MacFee, rồi hắn cười khi tưởng tượng sẽ vui như thế nào khi làm cho cả thành phố ngủ say. Cuối cùng chị Eleanor đồng ý làm và chỉ cho hắn biết thuốc và công thức của Karl Birkensteen nằm chỗ nào, và cả làm thế nào để lấy được chìa khóa viện bảo tàng. Chị ấy không bao giờ nghĩ rằng DiStefano sẽ đòi mười ngàn đô-la, và chị ấy cũng không ngờ hắn sẽ trên đi cùng với công thức chất gây ngủ và có thể dùng để gây thêm tội ác ở một nơi khác.
- Hầu như không có giới hạn tội phạm đối với một chất như thế, ông Hitchcock gật đầu nói. Hắn có thể cướp ngân hàng, quét sạch các cửa hàng vàng bạc, làm bất ở những gì hắn muốn.
- Hắn sẽ thừa thời gian mà làm bất cứ những gì hắn muốn, Bob nói. Hắn sẽ bị buộc tội tống tiền, trộm cắp và bắt cóc, chưa kể để tội chống lại người thi hành công vụ bắt giữ hắn. Ngoài ra, sử dụng chất gây mê đối với một người khác để có thể phạm tội cũng là một trọng tội, nên hắn sẽ bị thêm tội này nữa. Hắn là một tên lừa đảo thứ dữ. Hắn cứ nghĩ hắn sẽ không bao giờ bị tóm. Không hiểu sao hắn lại tin thế.
- Đó là điểm yếu của hầu hết bọn tội phạm, ông Hitchcock nói. Bọn chúng nghĩ là sẽ không ai tóm nổi bọn chúng. Nhưng còn Hoffer? ông này ở đâu?
- Ông ấy đã rời Hội Spicer, trong nhục nhã, Hannibal trả lời. Có lẽ ông ấy chỉ sẽ bị nộp phạt thôi, nhưng ai cũng biết rằng ông ấy đã có hành động tồi tệ nhằm làm mất uy tín tiến sĩ Brandon. ông ấy sẽ không duy trì nổi uy tín của chính mình. Và dĩ nhiên là ông ấy sẽ không được nhận giải Spicer. Hội đồng hội đã quyết định rằng năm nay sẽ không có ai nhận cả.
Điều trớ trêu trong chuyện này là lẽ ra Hoffer đã có thể nhận được tiền, nếu ông ấy ngồi yên không quậy phá Brandon. Công trình của ông ấy thật sự có giá trị.
- Còn bộ xương? ông Hitchcock hỏi nữa.
- Cả hai bộ xương đều được giữ kỹ ở đồn cảnh sát trưởng, Hannibal trả lời. Chỉ sẽ được trả lại khi hai vụ DiStefano và Hoffer được giải quyết xong. Newt MacFee đang giận điên lên vì vẫn chưa khai trương được viện bảo tàng. Tiến sĩ Brandon đang đi Sacramento để gặp thống đốc xin biến ngọn đồi nhà MacFee thành khu bảo tồn để chính ông ấy và Terreano có thể khai quật thêm các bộ xương hóa thạch. Tiến sĩ Brandon cũng hy vọng rằng sẽ lấy được bộ xương để nghiên cứu trước khi trưng bày cho công chúng xem.
Chị Eleanor sẽ đời đến nhà ở Hollywood. Người thuê nhà đó đã báo với MacFee rằng họ sẽ dời nhà, nên chị ấy sẽ sống trong ngôi nhà đó và biến nó thành nhà trọ cho những cô gái muốn lên thành phố mà không có chỗ ở. Như vậy chị ấy sẽ có chút ít thu nhập trong khi đi học, và chị ấy sẽ không cô đơn.
- Rất hay, ông Hitchcock tán thành. Còn cái chất gây mê kỳ lạ kia?
- Khi bị bắt, trong túi DiStefano có mẩu giấy, Peter đáp. Lúc cảnh sát mở còng ra để cho hắn vào xà lim, ngay lúc sắp kiểm người hắn, thì hắn đã nuốt mất tờ giấy. Cảnh sát nghĩ đó là công thức chất gây mê. Có lẽ DiStefano đã tiêu hủy mất ghi chép của tiến sĩ Karl Birkensteen. Không tìm thấy bất cứ nơi nào khác.
- Vậy chuyện kết thúc có hậu, ông Hitchcock nói.
- Ngoại trừ là ta sẽ không bao giờ biết được chất gây mê kia có lợi cho nhân loại hay không, Hannibal nói.
- Thêm một điều cuối cùng, ông Hitchcock nói. Hannibal, làm thế nào cậu đoán được chỗ Hoffer giấu người tiền sử?
- Cháu chỉ đoán thôi, Hannibal thừa nhận, nhưng hầm mộ là nơi hợp lý nhất. Hoffer không dám giấu bất cứ chỗ nào khác trong hội, và khó mà có thời gian chôn giấu giữa đêm khuya, khi đang đi chân không và chỉ khoác mỗi tấm lông thú.
Người của cảnh sát trưởng đã tìm thấy bộ xương trong một hốc hầm mộ. Các hốc đều trống, các thi hài đã được dời đến nghĩa trang Centerdale khi nhà thờ bị bỏ hoang, còn đất thì bán đi mất.”
Ông Hitchcock mỉm cười.
- Đây là một vụ lạ lùng, khá điên rồ, và tôi rất khâm phục tài điều tra của các cậu. Tôi sẽ rất hân hạnh viết vài hàng mở đầu.
HẾT
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com