Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

vua nguyen

1 | T r a n g 

HÀM NGHI

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia) 

Hàm Nghi

Hoàng đế Việt Nam

Chân dung thông dụng của Vua Hàm Nghi

Vua nhà Nguyễn

Trị vì

2 tháng 8, 1884 - 1885

Tiền nhiệm

Kiến Phúc

Hàm Nghi (chữ Hán: 咸宜; 3 tháng 8, 1871

– 4 tháng 1, 1943) là vị vua thứ 8 của nhà

Nguyễn, triều  đại phong kiến cuối cùng

trong lịch sử Việt Nam. Ngày nay, người

Việt Nam xem ông, cùng với các vua chống

Pháp Thành Thái, Duy Tân là 3 vị vua yêu

nước trong thời kì Pháp thuộc.[1]

Là em trai của vua Kiến Phúc, năm 1884

Hàm Nghi  được các phụ chính  đại thần

Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết

đưa lên ngôi  ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản

công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885,

Tôn Thất Thuyết  đưa ông ra ngoài và phát

hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.

Phong trào Cần Vương do ông phát  động

kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt.

Sau  đó, ông bị  đem an trí  ở thủ  đô Alger

của Algérie. Ông  đã mất tại  đây năm 1943

vì bệnh ung thư dạ dày.

Xuất thân

Vua Hàm Nghi tên húy là  Nguyễn Phúc

Ưng Lịch (阮福膺), còn có tên là  Nguyễn

Phúc Minh (阮福明). Ông là con thứ 5 của

Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai

và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6

năm Tân Mùi, tức 3 tháng 8 năm 1871(có

tài liệu ghi ông sinh ngày 22 tháng 7 năm

1872). Ông là em ruột của vua Kiến Phúc

Ưng  Đăng và Chánh Mông (hay  Ưng Kỷ),

tức là vua Đồng Khánh sau này.

Sau khi vua Tự  Đức mất (1883), mặc dù

các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường

và Tôn Thất Thuyết nắm trọn quyền hành

trong việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua

khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc tìm

người trong hoàng tộc có cùng chí hướng

để  đưa lên ngôi. Cả 3 vua Dục  Đức, Hiệp

Hoà và Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại

đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất

sớm, trở thành những phần tử không thể

không bị loại bỏ khỏi việc triều chính  đang

rối ren[2]

. Sau khi vua Kiến Phúc mất  đột

ngột,  đáng lẽ con nuôi thứ 2 của vua Tự

Đức là Nguyễn Phúc Chánh Mông lên ngôi,

nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất

Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất

quyền hành và 2 ông chủ trương dứt khoát

lựa chọn bằng được một vị vua ủng hộ lập

trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch.

Đây là 1 người có  đủ tư cách về dòng dõi,

nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của

kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân

tộc và quan trọng hơn hết là 2 ông có thể

định hướng nhà vua về  đại cuộc của  đất

nước một cách dễ dàng.

Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn,

dân dã với mẹ ruột chứ không  được nuôi

dạy tử tế như 2 người anh ruột  ở trong

cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng

Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ

người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6

Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884,

Ưng Lịch  được dìu đi giữa hai hàng thị vệ,

tiến vào  điện Thái Hòa  để làm lễ lên ngôi

hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó

Ưng Lịch mới 13 tuổi.

Thời gian tại kinh thành Huế

Khâm sứ Pierre Paul Rheinart thấy Nguyễn

Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập

vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết

nên gửi quân vào Huế bắt Triều  đình phải

xin phép. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất

Thuyết phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm

nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm

bằng chữ Nho. Hai ông phải viết lại, viên

Khâm sứ mới chịu và sau  đó  đi cửa chính

vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm

Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi

phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn

Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp

từ Tòa khâm sứ  ở bờ Nam sông Hương

sang  điện Thái Hoà làm lễ tôn vương cho

nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến

của triều  đình Huế  đã  đạt  được trong việc

bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn  đối

với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi

hỏi bất thành, họ  đành phải nhân nhượng

để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách

chấp nhận một sự việc đã rồi.

Lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 8 năm 1884,

phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm

sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé

cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng

thành Huế. Guerrier buộc triều  đình Huế

phải  để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ

3 | T r a n g 

Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua

đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất  định cự

tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả  được vào

cổng chính, còn lại các thành phần khác thì

đi cổng hai bên. Cả triều  đình Huế và phái

đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa

lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối

cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn

Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho

quân lính  đóng cửa chính  ở Ngọ Môn lại

nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để

về. Nhìn nhận về sự kiện này, Marcel

Gaultier đã viết:

"Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng

liêng  đối với thần dân mình. Vô tình vị vua

trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang

dội khắp nước: với ý chí cương quyết  độc

lập và dù người Pháp có đóng quan tại Huế,

triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái

độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ

chính  đề ra. Hội  đồng  ấy rất có lý  mà tin

chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của

nhà vua  để noi theo, xem thái  độ  ấy như

mệnh lệnh [chống lại người Pháp] không nói

ra bằng lời..."[3]

  ”

Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy

được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để

phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de

Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi

nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của

mình, 500 người,  đi vào cửa chánh là cửa

dành riêng cho  đại khách. Triều  đình Huế

xin  để quân lính  đi cửa hai bên, chỉ có các

bậc tướng lĩnh là  đi cửa chánh cho  đứng

với nghi thức triều  đình, nhưng de Courcy

nhất định không chịu.

Phong trào Cần Vương

Phụ chính đại

thần Tôn Thất

Thuyết 

(1839 – 1913)

Đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5, 6

tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và

Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh

mạn vua mình như vậy, đem quân tấn công

trại binh của Pháp  ở  đồn Mang Cá.  Đến

sáng thì quân Pháp phản công, quân triều

Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế.

Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao

chiến trong  đêm và mời hoàng  đế trẻ Hàm

Nghi cùng Tam cung lên  đường. Nghe

chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi

đã thảng thốt nói: "Ta có  đánh nhau với ai

mô mà phải chạy"  [4]

. Vua Hàm Nghi ngồi

trong kiệu bị chao  đảo liên tục,  đầu bị va

đập nhiều lần vào thành kiệu rất  đau, sau

cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng

cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho

người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng

Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả

đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông

lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de

Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai

tháng phải tìm cách  để rước vua về.

Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin

rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết

cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai

tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de

Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo

Tahiti  ở Thái Bình Dương. Một thời gian

sau Nguyễn Văn Tường mất, xác được đưa

về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới áp lực

của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi  đành

từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.

Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hóa,

Quảng Bình.  Vua Hàm Nghi  đã phải chịu

nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng

hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn

vàn thiếu thốn, bệnh tật,  đói khát và sự

hiểm nguy về tính mạng luôn  đe dọa[5]

. Tại

Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần

Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy

chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che

chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng

bào các  địa phương từ Quảng Trị qua tới

đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh,

Quảng Bình  đã cho Hàm Nghi thấy  được

vai trò của bản thân mình nên nhà vua  đã

không còn cảm thấy bị cưỡng ép như

trước. "Nhà vua bị những gian lao mà luyện

thành người nhẫn nại và  đón cuộc phong

4 | T r a n g 

trần bằng thái  độ rất thản nhiên"[6]

. Dân

chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các

nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã

hai lần xuống dụ Cần vương trong  đó có

một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ

dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong

trào chống Pháp.  Tên của ông ta  đã trở

thành ngọn cờ của nền  độc lập quốc gia...

Từ Bắc chí Nam,  đâu  đâu dân chúng cũng

nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh[7]

.

Trong suốt thời gian kháng chiến của vua

Hàm Nghi, vua anh  Đồng Khánh và 3 bà

Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về

nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền

Pháp  ở  Đông Dương là Paul Bert cũng  đã

định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh

Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành.

Nhà vua thường nói mình  ưa chết trong

rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng

cương tỏa của người[6]

. Tại căn cứ địa lãnh

đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi

được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất

Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng

đề  đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia

nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp

trong vùng.

Tháng 9 năm 1888, suất  đội Nguyễn  Đình

Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá.

Nguyễn  Đình Tình lại dụ  được Trương

Quang Ngọc về  đầu thú. Sau  đó Nguyễn

Đình Tình  và Trương Quang Ngọc tình

nguyện với Pháp  đem quân  đi vây bắt vua

Hàm Nghi.  Đêm khuya 26 tháng 9 1888[8]

,

vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất

Thiệp bị  đâm chết. Nhà vua  đã chỉ thẳng

vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng:

"Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp

cho Tây". Vua Hàm Nghi khi  đó 17 tuổi,

chống Pháp được ba năm.

Từ cái  đêm  đó  ở bờ khe Tá Bào, huyện

Tuyên Hóa (nay là huyện Minh Hóa) tỉnh

Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang

vua Hàm Nghi về các  đồn Thanh Lạng,

Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và  đến  đồn

Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm

1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất

long trọng nhưng vua  đã tỏ ra không hiểu,

không nhận mình là vua Hàm Nghi. Viên

trung uý chỉ huy quân  đội Bonnefoy  đã

chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho

vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá

thư xuống bàn và làm như không có can hệ

gì  đến mình. Viên  đề  đốc Thanh Thuỷ là

Nguyễn Hữu Viết  được Pháp cử tới  để

thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như

không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là

Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình

đứng dậy vái chào.  Đến lúc  đó thì người

Pháp mới yên trí  đó là vua Hàm Nghi. Từ

Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm

Nghi qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới

cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888.

Lúc này, triều  đình Huế  đã biết tin Hàm

Nghi bị bắt, vua  Đồng Khánh sai quan lại

Thừa Thiên và bộ binh ra  đón  để  đưa về

Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị

kích động khi thấy mặt ông vua kháng chiến

nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua

Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về

kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh

dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực

người Pháp đã có quyết định dứt khoát với

ông vua kháng chiến này là  đày sang xứ

Algérie ở Bắc Phi. Rheinart đã báo cho vua

biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua

muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt.

Nghe vậy,  vua Hàm Nghi  đáp:"Tôi thân  đã

tù, nước  đã mất, còn dám nghĩ gì  đến cha

mẹ, anh em nữa", rồi vua cáo từ về phòng

riêng.

(Xem thêm: Trận Kinh thành Huế 1885

Bài chi tiết: Phong trào Cần Vương)

Lưu vong

Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm

1888, vua Hàm Nghi bị  đưa xuống tàu  đi

vào Lăng Cô. Trước phút rời xa quê hương,

nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm

xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên  đã

oà khóc.[9]

. Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng 12

năm 1888, vua Hàm Nghi bị  đưa xuống

chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt  đại

dương  đi Bắc Phi. Do không quen  đi trên

biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng

vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán

thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm

1889[10]

, cựu hoàng Hàm Nghi  đến thủ  đô

5 | T r a n g 

Alger của Algérie. Lúc này nhà vua vừa

bước qua tuổi 18. Mười ngày  đầu, cựu

hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la

Régence (Tòa nhiếp chính). Sau  đó, ông

được chuyển về  ở Villa des Pins (Biết thự

Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger

5 cây số.

Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi

Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của

Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi  ăn cơm

gia  đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền

Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu

là bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Kiên Thái

Vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị)

đã mất vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại

Huế.

Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm

Nghi nhất định không chịu học tiếng Pháp vì

ông cho  đó là thứ tiếng của dân tộc xâm

lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo

dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao

thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh.

Nhưng về sau, thấy người Pháp  ở Algérie

thân thiện, khác với người Pháp  ở Việt

Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt

đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm

Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt.

Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng

những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899

ông có sang thăm Paris và  đến xem một

triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về

sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu  ảnh

hưởng bởi phong cách của Gauguin.

Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi  đính hôn

với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884, mất

năm 1974), con gái của ông Laloe chánh án

tòa Thượng phẩm Alger.  Đám cưới của họ

trở thành một sự kiện văn hóa của thủ  đô

Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có

ba người con:

•  Công chúa Như Mai sinh năm 1905

(mất năm 1999). 

•  Công chúa Như Lý sinh năm 1908 (mất

năm 2005). 

•  Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 (mất

năm 1990). 

Ngày 4 tháng 1 năm 1943, cựu hoàng Hàm

Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt

thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn

cất  ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng

Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của vua

Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất

năm 1944. Ông ra  đi mang theo nỗi hờn

vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong

tâm trí. [11]

Mộ vua Hàm Nghi ở Aquitaine, Pháp

Vinh danh

Vì có tư tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi,

cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân

được xem là 3 vị vua yêu nước của Việt

Nam thời Pháp thuộc.[1]

 Năm 2008, hài cốt

vua Hàm Nghi sẽ được đưa về mai táng tại

Huế[12]

. Năm 2009, ông  được hội  đồng

Nguyễn Phúc Tộc  đưa về thời tại Thế Tổ

Miếu (hoàng thành Huế)

Niên hiệu (Hàm Nghi) của ông  được  đặt   

cho một con đường ở Quận 1, TP/HCM.

6 | T r a n g 

Năm 1957, trường Trung học Hà Nội được

dời về trường Quốc Tử Giám triều Nguyễn

ở Huế và đổi tên thành trường Trung học

Hàm Nghi.[13]

 Trường bị giải thể năm 1975.

Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng 9 năm 2005

ngôi trường này chính thức được khai giảng

trở lại.[13]

Chú thích

1.  a

 Tuổi trẻ Online - Văn hóa - Giải trí:

Tìm dấu vua trong lòng dân 

2. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua

trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí

thông tin Khoa học và Công nghệ, số

1(7), 1995. 

3. Marcel Gaultier. Le Roi Proscrit. Hà Nội,

Impr. d'Extrême-Orient, 1940, tr. 40 - 41. 

4. Phạm Văn Sơn. Việt Nam cách mạng

cận sử. Sài Gòn. Khai Trí phát hành,

1963, tr. 38. 

5. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua

trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí

thông tin Khoa học và Công nghệ, số

1(7), 1995. 

6.  a

 Phan Trần Chúc. Vua Hàm Nghi. Hà

Nội, Chinh Ký, 1952, tr. 142. 

7. Ch. Gosselin. L' Empire de l' Annam.

Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237. 

8. Về ngày vua Hàm Nghi bị bắt các tài

liệu chép lại mâu thuẫn nhau. Có thể là

một trong các ngày 26 tháng 9, 30 tháng

10, 2 tháng 11 năm 1888, 14 tháng 11. 

9. Phạm Văn Sơn. Việt Nam cách mang

cận sử và Phan Trần Chúc. Vua Hàm

Nghi. 

10. Những ngày này các tài liệu cũng ghi

khác nhau. 

11. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua

trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí

thông tin Khoa học và Công nghệ, số

1(7), 1995. 

12. Đưa hài cốt vua Hàm Nghi về Việt Nam 

13. a

 Huế: Trường Hàm Nghi sau 30 năm 

Tham khảo

•  Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua

trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí thông tin

Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995. 

 Nguôn: http://vi.wikipedia.org/

7 | T r a n g 

THÀNH THÁI

(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)

Thành Thái

Hoàng đế Việt Nam 

Vua nhà Nguyễn

Trị vì: 1889 - 1907

Tiền nhiệm: Đồng Khánh

Kế nhiệm: Duy Tân

[hiện] Hậu duệ

Tên húy: Nguyễn Phúc Bửu Lân

Niên hiệu: Thành Thái (1889 - 1907)

Thụy hiệu: Hoài Trạch Công Hoàng Đế

Triều đại: Nhà Nguyễn

Hoàng gia ca: Đăng đàn cung

Thân phụ: Dục Đức

Thân mẫu: Từ Minh Hoàng hậu Phan Thị Điểu

Sinh: 14 tháng 3, 1879

Mất: 24 tháng 3, 1954

An táng: An Lăng (lăng Dục Đức)

Vua Thành Thái (chữ Hán: 成泰; 1879 – 1954)

là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, trị vì từ 1889

đến 1907. Do chống Pháp nên ông, cùng với

các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu

nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc.

•  Thuở nhỏ

Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Bửu

Lân (阮福寶嶙), còn có tên là  Nguyễn Phúc

Chiêu (阮福昭). Ông là con thứ 7 của vua Dục

Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị

Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão, tức

14 tháng 3 năm 1879. Năm ông bốn tuổi, vua

cha Dục Đức bị phế và chết trong tù. Đến nǎm

được chín tuổi, vì ông ngoại là Phan Đình Bình

(làm quan Thượng thư bộ Hộ) bị vua  Đồng

Khánh bắt giam rồi bỏ cho chết, vì mắng Đồng

Khánh, nịnh bợ và thân Pháp, khi Đồng Khánh

ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi  đầu hàng.

Bửu Lân lại phải cùng mẹ Tư Minh, lên kinh đô,

chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.

Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua  Đồng Khánh

lâm bệnh qua đời. Khi đó con vua Đồng Khánh

mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, triều đình

Huế xin ý kiến của Khâm sứ Trung kỳ Pierre

Paul Rheinart.  Ở tòa khâm sứ lúc này có ông

Diệp Vǎn Cương  đang làm thông ngôn. Diệp

Vǎn Cương lấy bà cô ruột của Bửu Lân, và

cũng có cảm tình thương hại vua Dục Đức, nên

cố tìm cách cho cháu mình lên ngôi. Ông dịch

cho Khâm  sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác

với ý của Viện cơ mật. Vì thế Bửu Lân  được

chọn lên ngai vàng. Bà Phan Thị  Điểu nghĩ tới

cảnh vua Dục  Đức và thảm kịch bốn tháng ba

vua trước đây nên khóc lóc, không đồng ý, phải

khuyên giải mãi mới ưng thuận.

•  Cai trị

 - Lên ngôi

Ngày 2 tháng 2 năm 1889 Bửu Lân lên ngôi lấy

hiệu là Thành Thái. Khi  đó Bửu Lân mới 10

tuổi. Triều Thành Thái khác các triều trước  ở

chỗ lễ  đǎng quang không có Truyền quốc bửu

tỷ  ấn ngọc. Lúc trước, khi rời khỏi kinh thành

8 | T r a n g 

Huế, vua Hàm Nghi đã mang theo và đánh mất

tại tỉnh Quảng Bình. Cho nên lúc tại vị vua

Đồng Khánh  đã phải dùng một  ấn ngọc khác.

Ngoài ra, di chiếu cũng không có. Vua Dục Đức

hay vua Đồng Khánh không truyền ngôi lại cho

vua Thành Thái. Không  ấn ngọc, không di

chiếu, nhưng lại có một toán lính Pháp bồng

súng đóng ở bên trong cửa Ngọ Môn.

Thành Thái là một ông vua trẻ có nhiều tính

cách  đặc biệt. Những ngày  đầu tiên, tuy  đã là

vua nhưng vì còn bé nên ông vẫn thích chơi

bời, nghịch ngợm. Một số quan phụ chính giúp

đỡ như Tuy Lý Vương, Nguyễn Trọng, Trương

Quang  Đản, thường có lời can ngǎn ông,

nhưng không được ông nghe lời. Các bà hậu ở

Lưỡng cung rất lo cho Thành Thái,  đã bắt ông

ra ở đảo Bồng Dinh trên hồ Tịnh Tâm và quản

thúc ông rất ngặt, để đưa vào khuôn phép. Một

thời gian sau, ông mới trở về Đại Nội.

Vua Thành Thái  được  đánh giá là người cầu

tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những

vị vua trước  đây, ông  học chữ Nho, học tiếng

Pháp và cũng cho cả  con cái của mình cùng

theo học chữ Pháp. Không nói ra, nhưng rõ

ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể

giao tiếp với những người này với tinh thần

chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu

phục, học cả lái ca nô, xe hơi, làm quen với vǎn

minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân

chúng, ông thường xuyên  đi vi hành. Thành

Thái cũng cho phép hoàng phi bị cấm cung  đi

cùng với mình bằng xe. Và lần  đầu tiên "dân

chúng quên cả nhìn mặt vua, lúc này không bị

tội phạm tất" [1]. Có một câu ca dao nói về sự

vi hành của vua Thành Thái mà nhiều người

cho đó là cố tình bôi nhọ ông:

Kim Long có gái mỹ miều 

Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi 

Ông  để ý  đến cả các loại vũ khí,  đã giao cho

họa sĩ Lê Vǎn Miến (tốt nghiệp Trường Mỹ

thuật Paris) vẽ cho ông các khẩu súng Pháp.

Vua Thành Thái rất thích  đọc những tân thư

chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó

vua có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải

cách. Thành Thái làm thơ không nhiều, nhưng

có những bài xuất sắc. Ông cũng ham vǎn

nghệ,  đánh trống tuồng khá thành thạo, có khi

lên đóng một vài vai tuồng ở Duyệt Thị Đường.

Có thể nói Thành Thái là hiểu biết khá toàn

diện.

 - Tinh thần chống Pháp

Vua Thành  Thái dần dần bộc lộ tinh thần dân

tộc rất cao. Ông khinh ghét những bọn quan lại

xu phụ. Một viên quan lớn là Nguyễn Thân  đã

tiến con gái đến cho vua (là đệ nhất giai phi của

Thành Thái) song cũng không  được ông trân

trọng. Có lần, cầu Long Biên  ở Hà Nội,  được

lấy tên Toàn quyền Pháp Doumer, xây dựng

xong, Hoàng Cao Khải  đưa ra một danh sách

xin nhà vua ban thưởng cho những người có

công, nhà vua  đã cười nhạt mà trả lời: "Ta có

biết mặt mũi những  đứa nào  đâu". Những

người Pháp thường xuyên gần gũi không được

ông trọng thị lắm vì  vậy họ thường có thành

kiến với ông. Có những tài liệu nói là nhà vua

đã toan bí mật sang Trung Quốc, nhưng mới đi

đến Thanh Hóa  đã bị người Pháp ngǎn chặn.

Lại có ý kiến cho rằng ông  đã  đồng tình giúp

đỡ... tạo  điều kiện cho Cường  Để xuất dương

theo Phan  Bội Châu sang Nhật. Dưới triều

Thành Thái tuy vẫn còn có những cuộc vận

động chống Pháp, nhưng nhìn chung Việt Nam

cũng  đã  đi vào  ổn  định, nên  đã có nhiều công

trình mới  được xây dựng. Nhất là  ở kinh  đô

Huế, các bệnh viện, trường Quốc học, chợ

Đông Ba, cầu Tràng Tiền... đều được xây dựng

vào thời kỳ này. Như trường hợp trường Quốc

học Huế năm 1896, chính nhà vua đã gợi ý vấn

đề thành lập với

Thượng thư

Ngô  Đình Khả.

Chính quyền

thực dân Pháp

phải đồng ý cho

tiến hành

những công

trình đó.

Chân dung vua

Thành Thái

9 | T r a n g 

•  Bị ép thoái vị

Trước các ý tưởng cấp tiến của vua Thành

Thái, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Để

che mắt, Thành Thái giả hành  động như một

người mất trí. Khi các bản vẽ vũ khí của ông bị

phát hiện, Thành Thái giả điên, cào cấu các bà

cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi dụng cơ hội

này, người Pháp vu cho ông bị  điên, ép ông

thoái vị, nhường ngôi

cho con vì lý do sức

khỏe. Khâm sứ Pháp

còn nói thẳng là đã biết

ông có ý  đồ chống

Pháp, nên không  để

ông  ở ngôi  được. Còn

nếu Thành Thái muốn

tại vị thì ông phải ký

vào một tờ giấy xin lỗi,

tuyên bố với quốc dân

là có âm mưu chống

lại nước Pháp, nay

phải thành thực hồi

tâm. Nhưng ông  đã

ném tờ tuyên cáo thảo

sẵn  ấy xuống  đất, từ

chối.

Bảo Đại và Thành Thái ở Đà Lạt năm 1951 [1]

Ngày 29 tháng 7 năm 1907, nhân dịp Thành

Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số

quan lại  đã  được Khâm sứ Lévêque và Hội

đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque  đã

tuyên bố truất quyền và quản thúc Thành Thái

trong  Đại nội. Một Hội  đồng Phụ chính do

Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.

Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh

của Pháp vào  điện Càn Thành dâng vua dự

thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần

(trừ Ngô  Đình Khả), với lý do sức khoẻ không

bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản

dự thảo, Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ

"phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.

•  Lưu đày

Ngày 12 tháng 9 năm 1907, Thành Thái bị đưa

đi quản thúc  ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu

ngày nay).  Đến nǎm 1916 ông  đày ra  đảo

Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.

Ông cùng gia  đình thuê một căn nhà  ở thành

phố Saint Denis tại  đảo Réunion. Thành Thái

và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con tiếng Việt và

cả những nhạc cụ dân tộc như  đàn cò, sáo...

Ông tự phân công cho tất cả những người con

từ nhỏ  đến lớn  đảm nhận công việc trong gia

đình. Các công chúa phụ mẹ việc bếp núc, làm

vườn. Các hoàng từ người làm cận vệ cho

Thành Thái, người đảm nhận lo phân trầu cau,

điểm tâm sáng, người phụ dọn dẹp nhà cửa...

Khác với vua Hàm Nghi trước  đó, cuộc sống

của cha con cựu hoàng Thành Thái khá chật

vật. Già cả  ốm  đau, con cái nheo nhóc, ông

hoàng Bửu Lân nhiều lần bị chủ nhà  đòi tiền

thuê nhà, chủ nợ  đòi nợ. Năm 1925, vua Khải

Định biết tình cảnh ông, đã trích ngân sách gửi

sang cho ông 1.000 đồng, rồi sau thỉnh thoảng

lại cho tiền. Sau khi Khải  Định mất, không còn

khoản tiền  đó nữa, nên ngày 21 tháng 9 năm

1935, Bửu Lân phải viết thư gửi vua Bảo  Đại

xin nhà nước Bảo hộ Pháp cho một khoản tiền

để mua nhà, "hễ hết  đời" ông thì nhà nước sẽ

thu lại.

Đầu tháng 5 năm 1945 (sau khi vua Duy Tân

mất), nhờ sự vận  động của con gái và con rể

của ông, vợ chồng luật sư Vương Quang

Nhường, cựu hoàng Thành Thái mới được cho

về Việt Nam. Ông cùng gia  đình sống  ở Villa

Anna tại Cap Saint Jacques.

Tháng 3 năm 1953, ông  được phép về Huế

thăm lăng tẩm cha mẹ.

Ông mất ngày 24 tháng 3 năm 1954 và  được

an táng tại khuôn viên thành An Lăng (lăng Dục

Đức) tại xã An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh

Thừa Thiên, thọ 75 tuổi.

•  Con cái

Vua Thành Thái có 17 Hoàng tử và nhiều Công

chúa. Tên các Hoàng tử và Công chúa các tài

liệu ghi lại có những mâu thuẫn.

Hoàng tử

Lăng Dục Đức

                                                                                                                                      12 | T r a n g

Vua Duy Tân (chữ Hán: 維新; 1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn(ở ngôi từ

1907 tới 1916) sau vua Thành Thái.

Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ

ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Năm 1916, bí mật

liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, ông

dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày

3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo đảo Réunionở Ấn Độ Dương.

Trong  Thế chiến thứ hai (1939  - 1945)  ông  gia  nhập quân Đồng Minh chống phát  xít

Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi,

hưởng dương 45 tuổi

Ngày 24 tháng 4 năm 1987, thi hài ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi đưa

về an táng tại An Lăng, Huếcạnh lăng mộ vua cha Thành Thái.

Xuất thân

Vua  Duy  Tân  tên  húy  là  Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊),  còn  có  tên  là  Nguyễn

Phúc Hoảng(阮福晃), sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý, tức 19 tháng 9 năm 1900[1]

.

Ông là con thứ 5 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.

Vua  Thành  Thái  có  nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng

người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ muốn tìm chọn một người

nhỏ tuổi. Khi Khâm sứFernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua

Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình

cho người đi tìm  thì  thấy Vĩnh San đang

chơi đùa, mặt mày  lem  luốc. Không  kịp

đưa về nhà  tắm rửa, Vĩnh San ra trình

diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy

đồng ý ngay vì  họ thấy Vĩnh San có vẻ

nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua

quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành

8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là

Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp

không thành của vua Thành Thái.

Ảnh chụp vua Duy Tân năm 1907.

Cai trị

Lên ngôi

Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày

sau lễ đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại:

“...Un jour de trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans” (Một ngày lên

ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám)

Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là Tôn

Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dụcđể cai trị

Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Một tiến sĩ sinh họclà Ebérhard được

đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm

soát.

                                                                                                                                      13 | T r a n g

Khoảng năm 1912,  Khâm  sứ Georges  Marie  Joseph

Mahé mở một chiến dịch tìm  vàng ráo  riết. Mahé lấy

tượng vàng đúc từ thời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu

trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự

Đứcvà đào xới lung tung trong Đại Nộiđể tìm vàng. Vua

Duy  Tân  phản đối quyết liệt những hành động thô bạo

đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa

cung  không  tiếp ai. Toà  Khâm  sứ Pháp làm  áp  lực với

nhà  vua  thì  Duy  Tân  đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà

đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng  Toàn  quyền

Albert  Pierre  Sarraut từ Hà  Nội phải vào  giải quyết vua

Duy Tân mới cho mở Hoàng thành.

Ảnh Vua Duy Tân ngày 5 tháng 9 năm 1907

Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước

mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi

hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau

nên một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi

tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre). Nhưng

cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.

Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ chính, bắt buộc

các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng

các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết

kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó không những nhà vua có ác cảm

với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.

Dự định khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội

Việt Nam Quang Phục Hộiđược Phan Bội Châuthành lập từ 1912. Biết được vua Duy

Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết định móc nối.

Hai lãnh đạo của hội là Trần Cao Vânvà Thái Phiên bỏ tiền vận động người tài xế riêng

của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành  viên của

hội.

Hình Trần Cao Vân (1866 - 1916) - một trong những lãnh

tụ của Việt Nam Quang Phục Hội

Tháng 4 năm 1916, khi vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng

nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư

của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc

thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người

cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng

tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào

1 giờ sáng ngày 3 tháng 5.

Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang

Phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày

2 tháng 5, thực dân Pháp ra lệnh thu súng ở các trại lính

người Việt cất vào  kho  và cấm trại không cho một người

lính Việt nào ra ngoài.

                                                                                                                                      14 | T r a n g

Ảnh Duy Tân (ở giữa) và các bạn

Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và  Thái

Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc

đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo

lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là

Tôn Thái Đề và  Nguyễn Quang Siêu.  Họ

tới  làng  Hà  Trung,  lên  nhà  một hội viên

Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát

lệnh bằng súng  thần công ở Huế. Nhưng

chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu

lệnh, biết đã  thất bại, Trần Cao Vân và

Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng

Quảng Nam,  Quảng Ngãi.  Sáng  ngày  6

tháng 5 năm 1916, họ bị bắt.

Khâm sứ tại Huếvà Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông

không đồng ý:

“Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua

đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý

kiến với chính phủ Pháp.”

Pháp  bắt Triều đình  Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm

thảo bản án. Trần Cao Vânkhi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ

Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho

4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đềvà Nguyễn Quang Siêu. Bốn người bị

chém đầu ở An Hòa. Vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunionở Ấn Độ Dương cùng với

vua cha Thành Thái vào năm 1916.

Lưu đày

Sang đảo La Réunion

Ngày 3 tháng  11 năm 1916, gia đình vua Thành  Thái và Duy  Tân  lên tàu  Guadiana ở

Cap Saint-Jacques. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion

lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia

đình  cựu hoàng  sống trong một căn nhà  thuê  lại một người dân ở thành  phố Saint-Denis.

Ảnh  cựu hoàng  Duy  Tân  nghe  radio  ở nhà

riêng, Saint-Denis, La Réunion

Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không

hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình.

Duy  Tân  ghi  tên  học về vô  tuyến điện và  mở

tiệm Radio - Laboratoire  bán  hàng  sửa chữa

máy. Đồng thời, ông thi tú  tài ở trường trung

học Leconte de Lisle và  học thêm  ngoại ngữ,

luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp,

chỉ giao du với một nhóm bạn bè.  Ông  tham

gia  hội yêu  nhạc, học cưỡi ngựa và  thắng

nhiều cuộc đua. Cựu hoàng  Duy Tân  còn viết

                                                                                                                                       15 | T r a n g

nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le

Peuple (Dân  chúng),  Le  Progrès (Tiến bộ) dưới

biệt hiệu Georges Dry. Bài  Variations  sur  une

lyre  briée (Những biến tấu của một cây đàn  lia

gãy  vỡ) được  giải nhất văn chương của Viện

Hàn  lâm  Khoa  học và Văn chương La Réunion

năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam

Điểm, Franc-Macon  và  Hội địa phương bảo vệ

Nhân quyền và quyền Công dân.

Ảnh cựu hoàng Duy Tân đem cấp bậc sĩquan

quân đội Pháp

Trong  bài  Destin  tragique  d'un  Empereur

d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân đăng trong Revue

France-Asie, năm 1970,  tác  giả E.P Thébault,

một bạn thâncủa Duy Tân, ghi rằng: chỉ một lần

– một lần mà thôi – trong bức thơ ngày 5 tháng 6

năm 1936 gởi cho Marius Moutet, Tổngtrưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc

biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp".

Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ 1936 cho đến 1940, để xin phục

vụ trong Quân đội Pháp, ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn

đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau

này):  “...parait  difficile  à  acheter,  extrêmement  indépendant...intrigue  pour  quitter  la

Réunion et rétablissement trône d'Annam...” (Có vẻ khó mua chuộc,rất độc lập, mưu đồ

rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).

Tham gia Quân đội Pháp

Ngày  18  tháng  6 năm 1940,  Charles  de  Gaulle kêu  gọi chống Đức quốc xã.  Sự việc

nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đứcvà sau đó

lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh

trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng.

Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy

“nước Pháp tự do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp,

Duy Tân hưởng ứng và bằng đài  vô tuyến điện, ông đã thu  thập tin tức bên ngoài để

chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền

La Réunion (lúc đó theo Chính  phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba

tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và

đại tá Alain  de  Boissieu.  Bị giải ngũ vì  lý  do  sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La

Réunion là Capagory can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng

Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang

châu Âu.

Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng

Charles de  Gaulle  ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào  tháng  6 năm 1945 thì  Đức đã  đầu

hàng  ngày  8  tháng  5.  Ngày  20  tháng  7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ

tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc điạ (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.

Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những

sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm

1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uýtháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25

                                                                                                                                      16 | T r a n g

tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như

một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dươngcủa Pháp.

Gặp Charles de Gaulle và chuẩn bị về Việt Nam

Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi

ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:

“...Tôi  sẽ tiếp Cựu hoàng  (Vĩnh San) và  sẽ cùng  ông  xét  xem  chúng  tôi  sẽ làm được

những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời,

hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.”

Trong  tác  phẩm Histoire  du  Việt Nam de 1940 à  1952 sử gia Philippe  de  Villers nhận

xét:

Bảo Đạiđã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính

là  nhân  vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã  đầu quân vào

Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính

kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là

ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard.

Một bạn thân của Duy Tân là  E.P  Thébault kể lại trong bài  Destin  tragique  d'un

Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân:

Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp,

có  gắn bốn lon. Bây giờ Ngài  trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài  nói:

“Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế

Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu

tháng 3 (1946).” Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế

và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ

nữa.

Trong hồi ký Bên giòng lịch sử Việt Nam 1940-1975, linh mục Cao Văn Luậnghi lại rằng

mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có

tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích:

“Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể

chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều đó không trái với

quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi  thêm  quyền hành.  Chúng  ta  biết làm  gì  hơn

trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta

đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy

vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn  khốc mà  kết quả

chưa biết là thắng hay bại.”

Duy Tân đã từng tâm sự:

“Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho

một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam

ý thức được rằng họ là  một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước

Việt nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công

dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý

thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ

nào : cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng,

điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Namkhỏi cái họa phân chia.[2]

                                                                                                                                      17 | T r a n g

Tử nạn

Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ

Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc

13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm

1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki,

Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu,

hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đócó cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.

Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ

gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un

Empereur d’Annam, E.P Thébault viết:

Ngày 17 tháng 12 năm 1945 – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính

mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay

Thébault nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị

vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30

triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy.

Ngày  28  tháng  3 năm 1987,  hài  cốt của vua Duy Tân được gia đình  đưa từ M'Baiki,

Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa

về an táng tại An Lăng,  Huế,  cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành  Thái,  vào  ngày  6

tháng 4 năm 1987.

Ngày 5 tháng 12 năm 1992, thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại

lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.

Giai thoại

1 lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm ông hay ra đây nghỉ mát),

tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi:

 “Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?”

Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp:

 “Nước bẩn thì  phải tìm  cách  trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu

không ?”

1  lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn

Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đếtrẻ bèn ra câu đối:

 Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần.

Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi rồi đối lại:

 Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó.

Nghe đồn  Duy  Tân  phê  Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng. Nhà  vua

còn bảo:

 “Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới

có ý nghĩa.”

                                                                                                                                      18 | T r a n g

Gia quyến

Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được

2 năm bà xin về Việt Nam vì không  chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion,

ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly

hôn.

Những người con của ông với các bà vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ và được rửa tội

theo lễ nghi Công giáo. Một tài liệuviết các con ông đều không nói được tiếng Việtvà có

ít quan hệ với cựu hoàng Thành Thái. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học

tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm 1946, toà án thành phố Saint-Denis đồng ý

cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ

của mình. 5 người Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đổi thành  Georges  Vĩnh

San, Claude Vĩnh San v.v...

Các bà vợ và con cái:

1 - Bà Mai Thị Vàng, Đệ nhất giai phi, kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916. Khi đi lưu đày

theo  chồng bà  có mang 3  tháng  và bị sảy thai. Năm 1925, cựu hoàng  có gửi cho Hội

đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn li dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà

Vàng đi lấy chồng khác (lúc này bà 27 tuổi). Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến

cuối đời (bà thọ 75 tuổi) và thường ngâm:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

hay

Đá dù nát, “Vàng” chẳng phai

Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #longkk