vua nguyen
1 | T r a n g
HÀM NGHI
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Hàm Nghi
Hoàng đế Việt Nam
Chân dung thông dụng của Vua Hàm Nghi
Vua nhà Nguyễn
Trị vì
2 tháng 8, 1884 - 1885
Tiền nhiệm
Kiến Phúc
Hàm Nghi (chữ Hán: 咸宜; 3 tháng 8, 1871
– 4 tháng 1, 1943) là vị vua thứ 8 của nhà
Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng
trong lịch sử Việt Nam. Ngày nay, người
Việt Nam xem ông, cùng với các vua chống
Pháp Thành Thái, Duy Tân là 3 vị vua yêu
nước trong thời kì Pháp thuộc.[1]
Là em trai của vua Kiến Phúc, năm 1884
Hàm Nghi được các phụ chính đại thần
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết
đưa lên ngôi ở tuổi 13. Sau khi cuộc phản
công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885,
Tôn Thất Thuyết đưa ông ra ngoài và phát
hịch Cần Vương chống thực dân Pháp.
Phong trào Cần Vương do ông phát động
kéo dài đến năm 1888 thì Hàm Nghi bị bắt.
Sau đó, ông bị đem an trí ở thủ đô Alger
của Algérie. Ông đã mất tại đây năm 1943
vì bệnh ung thư dạ dày.
Xuất thân
Vua Hàm Nghi tên húy là Nguyễn Phúc
Ưng Lịch (阮福膺), còn có tên là Nguyễn
Phúc Minh (阮福明). Ông là con thứ 5 của
Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai
và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6
năm Tân Mùi, tức 3 tháng 8 năm 1871(có
tài liệu ghi ông sinh ngày 22 tháng 7 năm
1872). Ông là em ruột của vua Kiến Phúc
Ưng Đăng và Chánh Mông (hay Ưng Kỷ),
tức là vua Đồng Khánh sau này.
Sau khi vua Tự Đức mất (1883), mặc dù
các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường
và Tôn Thất Thuyết nắm trọn quyền hành
trong việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua
khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc tìm
người trong hoàng tộc có cùng chí hướng
để đưa lên ngôi. Cả 3 vua Dục Đức, Hiệp
Hoà và Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại
đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất
sớm, trở thành những phần tử không thể
không bị loại bỏ khỏi việc triều chính đang
rối ren[2]
. Sau khi vua Kiến Phúc mất đột
ngột, đáng lẽ con nuôi thứ 2 của vua Tự
Đức là Nguyễn Phúc Chánh Mông lên ngôi,
nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất
quyền hành và 2 ông chủ trương dứt khoát
lựa chọn bằng được một vị vua ủng hộ lập
trường chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch.
Đây là 1 người có đủ tư cách về dòng dõi,
nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của
kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn dân
tộc và quan trọng hơn hết là 2 ông có thể
định hướng nhà vua về đại cuộc của đất
nước một cách dễ dàng.
Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn,
dân dã với mẹ ruột chứ không được nuôi
dạy tử tế như 2 người anh ruột ở trong
cung. Khi thấy sứ giả đến đón, cậu bé Ưng
Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ
người ta dâng lên. Sáng ngày 12 tháng 6
Giáp Thân, tức ngày 2 tháng 8 năm 1884,
Ưng Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ,
tiến vào điện Thái Hòa để làm lễ lên ngôi
hoàng đế, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó
Ưng Lịch mới 13 tuổi.
Thời gian tại kinh thành Huế
Khâm sứ Pierre Paul Rheinart thấy Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập
vua, không hỏi ý kiến đúng như đã giao kết
nên gửi quân vào Huế bắt Triều đình phải
xin phép. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất
Thuyết phải làm tờ xin phép bằng chữ Nôm
nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt làm
bằng chữ Nho. Hai ông phải viết lại, viên
Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính
vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm
Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi
phải thủ vai, dưới sự hướng dẫn của Tôn
Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp
từ Tòa khâm sứ ở bờ Nam sông Hương
sang điện Thái Hoà làm lễ tôn vương cho
nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến
của triều đình Huế đã đạt được trong việc
bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối
với người Pháp thì sau những yêu sách, đòi
hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng
để tránh thêm những rắc rối mới bằng cách
chấp nhận một sự việc đã rồi.
Lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng 8 năm 1884,
phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm
sứ Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé
cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng
thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế
phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ
3 | T r a n g
Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua
đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định cự
tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào
cổng chính, còn lại các thành phần khác thì
đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái
đoàn Pháp đều mang tâm trạng không vừa
lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối
cùng cũng kết thúc êm thấm. Lúc phái đoàn
Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho
quân lính đóng cửa chính ở Ngọ Môn lại
nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để
về. Nhìn nhận về sự kiện này, Marcel
Gaultier đã viết:
"Vua Hàm Nghi đã giữ được tính chất thiêng
liêng đối với thần dân mình. Vô tình vị vua
trẻ tuổi đã làm một việc có ảnh hưởng vang
dội khắp nước: với ý chí cương quyết độc
lập và dù người Pháp có đóng quan tại Huế,
triều đình An Nam vẫn biểu dương một thái
độ không hèn. Thái độ ấy do Hội đồng Phụ
chính đề ra. Hội đồng ấy rất có lý mà tin
chắc rằng dân chúng trông vào thái độ của
nhà vua để noi theo, xem thái độ ấy như
mệnh lệnh [chống lại người Pháp] không nói
ra bằng lời..."[3]
”
Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy
được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để
phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de
Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi
nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của
mình, 500 người, đi vào cửa chánh là cửa
dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế
xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các
bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đứng
với nghi thức triều đình, nhưng de Courcy
nhất định không chịu.
Phong trào Cần Vương
Phụ chính đại
thần Tôn Thất
Thuyết
(1839 – 1913)
Đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5, 6
tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và
Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh
mạn vua mình như vậy, đem quân tấn công
trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến
sáng thì quân Pháp phản công, quân triều
Nguyễn thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế.
Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao
chiến trong đêm và mời hoàng đế trẻ Hàm
Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe
chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi
đã thảng thốt nói: "Ta có đánh nhau với ai
mô mà phải chạy" [4]
. Vua Hàm Nghi ngồi
trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va
đập nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau
cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng
cho lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho
người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng
Trị để lánh nạn. Chiều ngày 6 tháng 7 thì cả
đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông
lại ra trình diện với quân Pháp. Tướng de
Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai
tháng phải tìm cách để rước vua về.
Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin
rước vua về nhưng ông Tôn Thất Thuyết
cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai
tháng, cả gia đình Nguyễn Văn Tường bị de
Courcy đày ra Côn Đảo, sau đó đưa tới đảo
Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian
sau Nguyễn Văn Tường mất, xác được đưa
về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới áp lực
của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành
từ biệt Tam cung, lên đường đi Tân Sở.
Hàm Nghi ở Tân Sở rồi về vùng Tuyên Hóa,
Quảng Bình. Vua Hàm Nghi đã phải chịu
nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa núi rừng
hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn
vàn thiếu thốn, bệnh tật, đói khát và sự
hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa[5]
. Tại
Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần
Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy
chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che
chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của đồng
bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới
đất Lào cũng như trong vùng Hà Tĩnh,
Quảng Bình đã cho Hàm Nghi thấy được
vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã
không còn cảm thấy bị cưỡng ép như
trước. "Nhà vua bị những gian lao mà luyện
thành người nhẫn nại và đón cuộc phong
4 | T r a n g
trần bằng thái độ rất thản nhiên"[6]
. Dân
chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các
nơi nên lực lượng không mạnh. Nhà vua đã
hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có
một lần gửi thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và rất nhiều chỉ
dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong
trào chống Pháp. Tên của ông ta đã trở
thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia...
Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng
nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất hạnh[7]
.
Trong suốt thời gian kháng chiến của vua
Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà
Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về
nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền
Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng đã
định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh
Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không thành.
Nhà vua thường nói mình ưa chết trong
rừng hơn là trở về làm vua mà ở trong vòng
cương tỏa của người[6]
. Tại căn cứ địa lãnh
đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi
được Tôn Thất Thuyết cử con là Tôn Thất
Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng
đề đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia
nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp
trong vùng.
Tháng 9 năm 1888, suất đội Nguyễn Đình
Tình ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá.
Nguyễn Đình Tình lại dụ được Trương
Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn
Đình Tình và Trương Quang Ngọc tình
nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua
Hàm Nghi. Đêm khuya 26 tháng 9 1888[8]
,
vua Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất
Thiệp bị đâm chết. Nhà vua đã chỉ thẳng
vào mặt Trương Quang Ngọc mà nói rằng:
"Mi giết ta đi còn hơn là mi mang ta ra nộp
cho Tây". Vua Hàm Nghi khi đó 17 tuổi,
chống Pháp được ba năm.
Từ cái đêm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện
Tuyên Hóa (nay là huyện Minh Hóa) tỉnh
Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang
vua Hàm Nghi về các đồn Thanh Lạng,
Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn
Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng 11 năm
1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất
long trọng nhưng vua đã tỏ ra không hiểu,
không nhận mình là vua Hàm Nghi. Viên
trung uý chỉ huy quân đội Bonnefoy đã
chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho
vua Hàm Nghi xem nhưng nhà vua ném lá
thư xuống bàn và làm như không có can hệ
gì đến mình. Viên đề đốc Thanh Thuỷ là
Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để
thăm hỏi và nhận mặt thì nhà vua giả như
không hay biết. Nhưng khi thầy học cũ là
Nguyễn Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình
đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người
Pháp mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ
Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm
Nghi qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới
cửa Thuận An ngày 22 tháng 11 năm 1888.
Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm
Nghi bị bắt, vua Đồng Khánh sai quan lại
Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về
Huế. Nhưng người Pháp sợ dân tình sẽ bị
kích động khi thấy mặt ông vua kháng chiến
nên Pháp đã báo cho Viện Cơ mật rằng vua
Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về
kinh e có điều bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh
dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực
người Pháp đã có quyết định dứt khoát với
ông vua kháng chiến này là đày sang xứ
Algérie ở Bắc Phi. Rheinart đã báo cho vua
biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua
muốn thăm hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt.
Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp:"Tôi thân đã
tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha
mẹ, anh em nữa", rồi vua cáo từ về phòng
riêng.
(Xem thêm: Trận Kinh thành Huế 1885
Bài chi tiết: Phong trào Cần Vương)
Lưu vong
Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm
1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi
vào Lăng Cô. Trước phút rời xa quê hương,
nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm
xúc vì nỗi niềm riêng và vận nước nên đã
oà khóc.[9]
. Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng 12
năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống
chiếc tàu mang tên "Biên Hoà" vượt đại
dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên
biển, nhà vua bị say sóng liên miên nhưng
vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán
thán. Chiều chủ nhật, 13 tháng 1 năm
1889[10]
, cựu hoàng Hàm Nghi đến thủ đô
5 | T r a n g
Alger của Algérie. Lúc này nhà vua vừa
bước qua tuổi 18. Mười ngày đầu, cựu
hoàng Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la
Régence (Tòa nhiếp chính). Sau đó, ông
được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự
Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách Alger
5 cây số.
Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi
Ngày 24 tháng 1, Toàn quyền Tirman của
Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm
gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền
Tirman, cựu hoàng nhận được tin thân mẫu
là bà Phan Thị Nhàn (vợ thứ của Kiên Thái
Vương, hoàng tử thứ 26 của vua Thiệu Trị)
đã mất vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại
Huế.
Trong mười tháng tiếp đó, cựu hoàng Hàm
Nghi nhất định không chịu học tiếng Pháp vì
ông cho đó là thứ tiếng của dân tộc xâm
lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo
dài theo nếp cũ ở quê hương. Mọi việc giao
thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh.
Nhưng về sau, thấy người Pháp ở Algérie
thân thiện, khác với người Pháp ở Việt
Nam, nên từ tháng 11 năm 1889 ông bắt
đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, vua Hàm
Nghi có thể nói và viết tiếng Pháp rất tốt.
Cựu hoàng Hàm Nghi cũng giao du cùng
những trí thức Pháp nổi tiếng. Năm 1899
ông có sang thăm Paris và đến xem một
triển lãm của danh họa Paul Gauguin, về
sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh
hưởng bởi phong cách của Gauguin.
Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi đính hôn
với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1884, mất
năm 1974), con gái của ông Laloe chánh án
tòa Thượng phẩm Alger. Đám cưới của họ
trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô
Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle Laloe có
ba người con:
• Công chúa Như Mai sinh năm 1905
(mất năm 1999).
• Công chúa Như Lý sinh năm 1908 (mất
năm 2005).
• Hoàng tử Minh Đức sinh năm 1910 (mất
năm 1990).
Ngày 4 tháng 1 năm 1943, cựu hoàng Hàm
Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt
thự Gia Long, thủ đô Alger. Ông được chôn
cất ở Sarlat (Sarlat-la-Canéda), vùng
Aquitaine, nước Pháp. Trên mộ của vua
Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất
năm 1944. Ông ra đi mang theo nỗi hờn
vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong
tâm trí. [11]
Mộ vua Hàm Nghi ở Aquitaine, Pháp
Vinh danh
Vì có tư tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi,
cùng với các vua Thành Thái, Duy Tân
được xem là 3 vị vua yêu nước của Việt
Nam thời Pháp thuộc.[1]
Năm 2008, hài cốt
vua Hàm Nghi sẽ được đưa về mai táng tại
Huế[12]
. Năm 2009, ông được hội đồng
Nguyễn Phúc Tộc đưa về thời tại Thế Tổ
Miếu (hoàng thành Huế)
Niên hiệu (Hàm Nghi) của ông được đặt
cho một con đường ở Quận 1, TP/HCM.
6 | T r a n g
Năm 1957, trường Trung học Hà Nội được
dời về trường Quốc Tử Giám triều Nguyễn
ở Huế và đổi tên thành trường Trung học
Hàm Nghi.[13]
Trường bị giải thể năm 1975.
Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng 9 năm 2005
ngôi trường này chính thức được khai giảng
trở lại.[13]
Chú thích
1. a
Tuổi trẻ Online - Văn hóa - Giải trí:
Tìm dấu vua trong lòng dân
2. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua
trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí
thông tin Khoa học và Công nghệ, số
1(7), 1995.
3. Marcel Gaultier. Le Roi Proscrit. Hà Nội,
Impr. d'Extrême-Orient, 1940, tr. 40 - 41.
4. Phạm Văn Sơn. Việt Nam cách mạng
cận sử. Sài Gòn. Khai Trí phát hành,
1963, tr. 38.
5. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua
trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí
thông tin Khoa học và Công nghệ, số
1(7), 1995.
6. a
Phan Trần Chúc. Vua Hàm Nghi. Hà
Nội, Chinh Ký, 1952, tr. 142.
7. Ch. Gosselin. L' Empire de l' Annam.
Paris, Perrin et Cie, p. 239, 237.
8. Về ngày vua Hàm Nghi bị bắt các tài
liệu chép lại mâu thuẫn nhau. Có thể là
một trong các ngày 26 tháng 9, 30 tháng
10, 2 tháng 11 năm 1888, 14 tháng 11.
9. Phạm Văn Sơn. Việt Nam cách mang
cận sử và Phan Trần Chúc. Vua Hàm
Nghi.
10. Những ngày này các tài liệu cũng ghi
khác nhau.
11. Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua
trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí
thông tin Khoa học và Công nghệ, số
1(7), 1995.
12. Đưa hài cốt vua Hàm Nghi về Việt Nam
13. a
Huế: Trường Hàm Nghi sau 30 năm
Tham khảo
• Nguyễn Quang Trung Tiến. Vị vua
trưởng thành từ niên thiếu. Tạp chí thông tin
Khoa học và Công nghệ, số 1(7), 1995.
Nguôn: http://vi.wikipedia.org/
7 | T r a n g
THÀNH THÁI
(Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Thành Thái
Hoàng đế Việt Nam
Vua nhà Nguyễn
Trị vì: 1889 - 1907
Tiền nhiệm: Đồng Khánh
Kế nhiệm: Duy Tân
[hiện] Hậu duệ
Tên húy: Nguyễn Phúc Bửu Lân
Niên hiệu: Thành Thái (1889 - 1907)
Thụy hiệu: Hoài Trạch Công Hoàng Đế
Triều đại: Nhà Nguyễn
Hoàng gia ca: Đăng đàn cung
Thân phụ: Dục Đức
Thân mẫu: Từ Minh Hoàng hậu Phan Thị Điểu
Sinh: 14 tháng 3, 1879
Mất: 24 tháng 3, 1954
An táng: An Lăng (lăng Dục Đức)
Vua Thành Thái (chữ Hán: 成泰; 1879 – 1954)
là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, trị vì từ 1889
đến 1907. Do chống Pháp nên ông, cùng với
các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu
nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc.
• Thuở nhỏ
Vua Thành Thái tên húy là Nguyễn Phúc Bửu
Lân (阮福寶嶙), còn có tên là Nguyễn Phúc
Chiêu (阮福昭). Ông là con thứ 7 của vua Dục
Đức và bà Từ Minh Hoàng hậu (Phan Thị
Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão, tức
14 tháng 3 năm 1879. Năm ông bốn tuổi, vua
cha Dục Đức bị phế và chết trong tù. Đến nǎm
được chín tuổi, vì ông ngoại là Phan Đình Bình
(làm quan Thượng thư bộ Hộ) bị vua Đồng
Khánh bắt giam rồi bỏ cho chết, vì mắng Đồng
Khánh, nịnh bợ và thân Pháp, khi Đồng Khánh
ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi đầu hàng.
Bửu Lân lại phải cùng mẹ Tư Minh, lên kinh đô,
chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.
Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua Đồng Khánh
lâm bệnh qua đời. Khi đó con vua Đồng Khánh
mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, triều đình
Huế xin ý kiến của Khâm sứ Trung kỳ Pierre
Paul Rheinart. Ở tòa khâm sứ lúc này có ông
Diệp Vǎn Cương đang làm thông ngôn. Diệp
Vǎn Cương lấy bà cô ruột của Bửu Lân, và
cũng có cảm tình thương hại vua Dục Đức, nên
cố tìm cách cho cháu mình lên ngôi. Ông dịch
cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác
với ý của Viện cơ mật. Vì thế Bửu Lân được
chọn lên ngai vàng. Bà Phan Thị Điểu nghĩ tới
cảnh vua Dục Đức và thảm kịch bốn tháng ba
vua trước đây nên khóc lóc, không đồng ý, phải
khuyên giải mãi mới ưng thuận.
• Cai trị
- Lên ngôi
Ngày 2 tháng 2 năm 1889 Bửu Lân lên ngôi lấy
hiệu là Thành Thái. Khi đó Bửu Lân mới 10
tuổi. Triều Thành Thái khác các triều trước ở
chỗ lễ đǎng quang không có Truyền quốc bửu
tỷ ấn ngọc. Lúc trước, khi rời khỏi kinh thành
8 | T r a n g
Huế, vua Hàm Nghi đã mang theo và đánh mất
tại tỉnh Quảng Bình. Cho nên lúc tại vị vua
Đồng Khánh đã phải dùng một ấn ngọc khác.
Ngoài ra, di chiếu cũng không có. Vua Dục Đức
hay vua Đồng Khánh không truyền ngôi lại cho
vua Thành Thái. Không ấn ngọc, không di
chiếu, nhưng lại có một toán lính Pháp bồng
súng đóng ở bên trong cửa Ngọ Môn.
Thành Thái là một ông vua trẻ có nhiều tính
cách đặc biệt. Những ngày đầu tiên, tuy đã là
vua nhưng vì còn bé nên ông vẫn thích chơi
bời, nghịch ngợm. Một số quan phụ chính giúp
đỡ như Tuy Lý Vương, Nguyễn Trọng, Trương
Quang Đản, thường có lời can ngǎn ông,
nhưng không được ông nghe lời. Các bà hậu ở
Lưỡng cung rất lo cho Thành Thái, đã bắt ông
ra ở đảo Bồng Dinh trên hồ Tịnh Tâm và quản
thúc ông rất ngặt, để đưa vào khuôn phép. Một
thời gian sau, ông mới trở về Đại Nội.
Vua Thành Thái được đánh giá là người cầu
tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những
vị vua trước đây, ông học chữ Nho, học tiếng
Pháp và cũng cho cả con cái của mình cùng
theo học chữ Pháp. Không nói ra, nhưng rõ
ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể
giao tiếp với những người này với tinh thần
chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu
phục, học cả lái ca nô, xe hơi, làm quen với vǎn
minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân
chúng, ông thường xuyên đi vi hành. Thành
Thái cũng cho phép hoàng phi bị cấm cung đi
cùng với mình bằng xe. Và lần đầu tiên "dân
chúng quên cả nhìn mặt vua, lúc này không bị
tội phạm tất" [1]. Có một câu ca dao nói về sự
vi hành của vua Thành Thái mà nhiều người
cho đó là cố tình bôi nhọ ông:
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi
Ông để ý đến cả các loại vũ khí, đã giao cho
họa sĩ Lê Vǎn Miến (tốt nghiệp Trường Mỹ
thuật Paris) vẽ cho ông các khẩu súng Pháp.
Vua Thành Thái rất thích đọc những tân thư
chữ Hán của Trung Quốc và Nhật Bản. Nhờ đó
vua có tinh thần tự cường dân tộc và đầu óc cải
cách. Thành Thái làm thơ không nhiều, nhưng
có những bài xuất sắc. Ông cũng ham vǎn
nghệ, đánh trống tuồng khá thành thạo, có khi
lên đóng một vài vai tuồng ở Duyệt Thị Đường.
Có thể nói Thành Thái là hiểu biết khá toàn
diện.
- Tinh thần chống Pháp
Vua Thành Thái dần dần bộc lộ tinh thần dân
tộc rất cao. Ông khinh ghét những bọn quan lại
xu phụ. Một viên quan lớn là Nguyễn Thân đã
tiến con gái đến cho vua (là đệ nhất giai phi của
Thành Thái) song cũng không được ông trân
trọng. Có lần, cầu Long Biên ở Hà Nội, được
lấy tên Toàn quyền Pháp Doumer, xây dựng
xong, Hoàng Cao Khải đưa ra một danh sách
xin nhà vua ban thưởng cho những người có
công, nhà vua đã cười nhạt mà trả lời: "Ta có
biết mặt mũi những đứa nào đâu". Những
người Pháp thường xuyên gần gũi không được
ông trọng thị lắm vì vậy họ thường có thành
kiến với ông. Có những tài liệu nói là nhà vua
đã toan bí mật sang Trung Quốc, nhưng mới đi
đến Thanh Hóa đã bị người Pháp ngǎn chặn.
Lại có ý kiến cho rằng ông đã đồng tình giúp
đỡ... tạo điều kiện cho Cường Để xuất dương
theo Phan Bội Châu sang Nhật. Dưới triều
Thành Thái tuy vẫn còn có những cuộc vận
động chống Pháp, nhưng nhìn chung Việt Nam
cũng đã đi vào ổn định, nên đã có nhiều công
trình mới được xây dựng. Nhất là ở kinh đô
Huế, các bệnh viện, trường Quốc học, chợ
Đông Ba, cầu Tràng Tiền... đều được xây dựng
vào thời kỳ này. Như trường hợp trường Quốc
học Huế năm 1896, chính nhà vua đã gợi ý vấn
đề thành lập với
Thượng thư
Ngô Đình Khả.
Chính quyền
thực dân Pháp
phải đồng ý cho
tiến hành
những công
trình đó.
Chân dung vua
Thành Thái
9 | T r a n g
• Bị ép thoái vị
Trước các ý tưởng cấp tiến của vua Thành
Thái, người Pháp lo ngại tìm cách ngăn trở. Để
che mắt, Thành Thái giả hành động như một
người mất trí. Khi các bản vẽ vũ khí của ông bị
phát hiện, Thành Thái giả điên, cào cấu các bà
cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi dụng cơ hội
này, người Pháp vu cho ông bị điên, ép ông
thoái vị, nhường ngôi
cho con vì lý do sức
khỏe. Khâm sứ Pháp
còn nói thẳng là đã biết
ông có ý đồ chống
Pháp, nên không để
ông ở ngôi được. Còn
nếu Thành Thái muốn
tại vị thì ông phải ký
vào một tờ giấy xin lỗi,
tuyên bố với quốc dân
là có âm mưu chống
lại nước Pháp, nay
phải thành thực hồi
tâm. Nhưng ông đã
ném tờ tuyên cáo thảo
sẵn ấy xuống đất, từ
chối.
Bảo Đại và Thành Thái ở Đà Lạt năm 1951 [1]
Ngày 29 tháng 7 năm 1907, nhân dịp Thành
Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số
quan lại đã được Khâm sứ Lévêque và Hội
đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque đã
tuyên bố truất quyền và quản thúc Thành Thái
trong Đại nội. Một Hội đồng Phụ chính do
Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.
Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh
của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự
thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần
(trừ Ngô Đình Khả), với lý do sức khoẻ không
bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản
dự thảo, Thành Thái chỉ cười, ghi ngay hai chữ
"phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.
• Lưu đày
Ngày 12 tháng 9 năm 1907, Thành Thái bị đưa
đi quản thúc ở Cap Saint Jacques (Vũng Tàu
ngày nay). Đến nǎm 1916 ông đày ra đảo
Réunion cùng với con trai là vua Duy Tân.
Ông cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành
phố Saint Denis tại đảo Réunion. Thành Thái
và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con tiếng Việt và
cả những nhạc cụ dân tộc như đàn cò, sáo...
Ông tự phân công cho tất cả những người con
từ nhỏ đến lớn đảm nhận công việc trong gia
đình. Các công chúa phụ mẹ việc bếp núc, làm
vườn. Các hoàng từ người làm cận vệ cho
Thành Thái, người đảm nhận lo phân trầu cau,
điểm tâm sáng, người phụ dọn dẹp nhà cửa...
Khác với vua Hàm Nghi trước đó, cuộc sống
của cha con cựu hoàng Thành Thái khá chật
vật. Già cả ốm đau, con cái nheo nhóc, ông
hoàng Bửu Lân nhiều lần bị chủ nhà đòi tiền
thuê nhà, chủ nợ đòi nợ. Năm 1925, vua Khải
Định biết tình cảnh ông, đã trích ngân sách gửi
sang cho ông 1.000 đồng, rồi sau thỉnh thoảng
lại cho tiền. Sau khi Khải Định mất, không còn
khoản tiền đó nữa, nên ngày 21 tháng 9 năm
1935, Bửu Lân phải viết thư gửi vua Bảo Đại
xin nhà nước Bảo hộ Pháp cho một khoản tiền
để mua nhà, "hễ hết đời" ông thì nhà nước sẽ
thu lại.
Đầu tháng 5 năm 1945 (sau khi vua Duy Tân
mất), nhờ sự vận động của con gái và con rể
của ông, vợ chồng luật sư Vương Quang
Nhường, cựu hoàng Thành Thái mới được cho
về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Villa
Anna tại Cap Saint Jacques.
Tháng 3 năm 1953, ông được phép về Huế
thăm lăng tẩm cha mẹ.
Ông mất ngày 24 tháng 3 năm 1954 và được
an táng tại khuôn viên thành An Lăng (lăng Dục
Đức) tại xã An Cựu, huyện Hương Thuỷ, tỉnh
Thừa Thiên, thọ 75 tuổi.
• Con cái
Vua Thành Thái có 17 Hoàng tử và nhiều Công
chúa. Tên các Hoàng tử và Công chúa các tài
liệu ghi lại có những mâu thuẫn.
Hoàng tử
Lăng Dục Đức
12 | T r a n g
Vua Duy Tân (chữ Hán: 維新; 1900 – 1945) là vị vua thứ 11 của nhà Nguyễn(ở ngôi từ
1907 tới 1916) sau vua Thành Thái.
Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ
ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp. Năm 1916, bí mật
liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân, ông
dự định khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày ngày 6 tháng 5 và đến ngày
3 tháng 11 năm 1916 ông bị đem an trí trên đảo đảo Réunionở Ấn Độ Dương.
Trong Thế chiến thứ hai (1939 - 1945) ông gia nhập quân Đồng Minh chống phát xít
Đức. Ngày 26 tháng 12 năm 1945, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi,
hưởng dương 45 tuổi
Ngày 24 tháng 4 năm 1987, thi hài ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi đưa
về an táng tại An Lăng, Huếcạnh lăng mộ vua cha Thành Thái.
Xuất thân
Vua Duy Tân tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊), còn có tên là Nguyễn
Phúc Hoảng(阮福晃), sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý, tức 19 tháng 9 năm 1900[1]
.
Ông là con thứ 5 của vua Thành Thái và bà hoàng phi Nguyễn Thị Định.
Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng
người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ muốn tìm chọn một người
nhỏ tuổi. Khi Khâm sứFernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua
Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình
cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang
chơi đùa, mặt mày lem luốc. Không kịp
đưa về nhà tắm rửa, Vĩnh San ra trình
diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy
đồng ý ngay vì họ thấy Vĩnh San có vẻ
nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua
quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành
8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San là
Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp
không thành của vua Thành Thái.
Ảnh chụp vua Duy Tân năm 1907.
Cai trị
Lên ngôi
Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày
sau lễ đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại:
“...Un jour de trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans” (Một ngày lên
ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám)
Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm sáu đại thần là Tôn
Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dụcđể cai trị
Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Một tiến sĩ sinh họclà Ebérhard được
đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm
soát.
13 | T r a n g
Khoảng năm 1912, Khâm sứ Georges Marie Joseph
Mahé mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy
tượng vàng đúc từ thời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu
trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự
Đứcvà đào xới lung tung trong Đại Nộiđể tìm vàng. Vua
Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo
đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ. Duy Tân ra lệnh đóng cửa
cung không tiếp ai. Toà Khâm sứ Pháp làm áp lực với
nhà vua thì Duy Tân đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà
đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Toàn quyền
Albert Pierre Sarraut từ Hà Nội phải vào giải quyết vua
Duy Tân mới cho mở Hoàng thành.
Ảnh Vua Duy Tân ngày 5 tháng 9 năm 1907
Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước
mà hai nước Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi
hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau
nên một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi
tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre). Nhưng
cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.
Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ chính, bắt buộc
các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng
các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết
kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó không những nhà vua có ác cảm
với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.
Dự định khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội
Việt Nam Quang Phục Hộiđược Phan Bội Châuthành lập từ 1912. Biết được vua Duy
Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết định móc nối.
Hai lãnh đạo của hội là Trần Cao Vânvà Thái Phiên bỏ tiền vận động người tài xế riêng
của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, một thành viên của
hội.
Hình Trần Cao Vân (1866 - 1916) - một trong những lãnh
tụ của Việt Nam Quang Phục Hội
Tháng 4 năm 1916, khi vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng
nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư
của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và Thái Phiên. Duy Tân đọc
thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người
cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng
tham gia khởi nghĩa. Khởi nghĩa dự định được tổ chức vào
1 giờ sáng ngày 3 tháng 5.
Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang
Phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày
2 tháng 5, thực dân Pháp ra lệnh thu súng ở các trại lính
người Việt cất vào kho và cấm trại không cho một người
lính Việt nào ra ngoài.
14 | T r a n g
Ảnh Duy Tân (ở giữa) và các bạn
Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái
Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc
đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo
lối thường dân đi cùng hai người hộ vệ là
Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ
tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên
Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát
lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng
chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu
lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và
Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng
Quảng Nam, Quảng Ngãi. Sáng ngày 6
tháng 5 năm 1916, họ bị bắt.
Khâm sứ tại Huếvà Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông
không đồng ý:
“Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua
đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý
kiến với chính phủ Pháp.”
Pháp bắt Triều đình Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm
thảo bản án. Trần Cao Vânkhi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ
Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho
4 người Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đềvà Nguyễn Quang Siêu. Bốn người bị
chém đầu ở An Hòa. Vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunionở Ấn Độ Dương cùng với
vua cha Thành Thái vào năm 1916.
Lưu đày
Sang đảo La Réunion
Ngày 3 tháng 11 năm 1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở
Cap Saint-Jacques. Đến ngày 20 tháng 11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion
lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia
đình cựu hoàng sống trong một căn nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis.
Ảnh cựu hoàng Duy Tân nghe radio ở nhà
riêng, Saint-Denis, La Réunion
Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không
hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình.
Duy Tân ghi tên học về vô tuyến điện và mở
tiệm Radio - Laboratoire bán hàng sửa chữa
máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường trung
học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ,
luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp,
chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham
gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và thắng
nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết
15 | T r a n g
nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le
Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới
biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une
lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia
gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện
Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion
năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam
Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ
Nhân quyền và quyền Công dân.
Ảnh cựu hoàng Duy Tân đem cấp bậc sĩquan
quân đội Pháp
Trong bài Destin tragique d'un Empereur
d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân đăng trong Revue
France-Asie, năm 1970, tác giả E.P Thébault,
một bạn thâncủa Duy Tân, ghi rằng: chỉ một lần
– một lần mà thôi – trong bức thơ ngày 5 tháng 6
năm 1936 gởi cho Marius Moutet, Tổngtrưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc
biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp".
Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ 1936 cho đến 1940, để xin phục
vụ trong Quân đội Pháp, ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn
đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau
này): “...parait difficile à acheter, extrêmement indépendant...intrigue pour quitter la
Réunion et rétablissement trône d'Annam...” (Có vẻ khó mua chuộc,rất độc lập, mưu đồ
rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).
Tham gia Quân đội Pháp
Ngày 18 tháng 6 năm 1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức quốc xã. Sự việc
nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu hàng phát xít Đứcvà sau đó
lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh
trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng.
Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy
“nước Pháp tự do” và nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp,
Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để
chuyển cho Lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền
La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông phục vụ ba
tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng Legentilhomme và
đại tá Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La
Réunion là Capagory can thiệp cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng
Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang
châu Âu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng
Charles de Gaulle ở Paris. Duy Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu
hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng 7 năm 1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ
tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc điạ (9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng 10 năm 1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những
sự thăng cấp liên tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm
1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uýtháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25
16 | T r a n g
tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như
một con bài chính trị trong kế hoạch mật tái chiếm Đông Dươngcủa Pháp.
Gặp Charles de Gaulle và chuẩn bị về Việt Nam
Ngày 14 tháng 12 năm 1945, Charles de Gaulle tiếp cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi
ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:
“...Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được
những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời,
hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam.”
Trong tác phẩm Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952 sử gia Philippe de Villers nhận
xét:
Bảo Đạiđã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính
là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào
Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính
kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là
ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard.
Một bạn thân của Duy Tân là E.P Thébault kể lại trong bài Destin tragique d'un
Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân:
Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một bộ đồ nhà binh rất đẹp,
có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres, trước hý viện Pháp. Ngài nói:
“Như vậy là xong rồi, quyết định rồi! Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế
Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu
tháng 3 (1946).” Từ nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế
và Đông Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ
nữa.
Trong hồi ký Bên giòng lịch sử Việt Nam 1940-1975, linh mục Cao Văn Luậnghi lại rằng
mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông có
tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích:
“Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông Dương. Họ có thể
chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều đó không trái với
quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì hơn
trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương? Chúng ta
đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối chống nóng nảy
vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh tàn khốc mà kết quả
chưa biết là thắng hay bại.”
Duy Tân đã từng tâm sự:
“Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép tôi để ngỏ cửa cho
một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất cả các con dân Việt Nam
ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thức đẩy họ dựng lên một nước
Việt nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công
dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý
thức được tình huynh đệ của họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ
nào : cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng,
điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Namkhỏi cái họa phân chia.[2]
”
17 | T r a n g
Tử nạn
Ngày 24 tháng 12 năm 1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ
Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc
13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng 12 năm
1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki,
Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu,
hai trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đócó cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường dân.
Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ
gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng trong Destin tragique d’un
Empereur d’Annam, E.P Thébault viết:
Ngày 17 tháng 12 năm 1945 – mười hôm trước khi tử nạn – Duy Tân có linh cảm tính
mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay
Thébault nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ không trị
vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30
triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy.
Ngày 28 tháng 3 năm 1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki,
Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa
về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6
tháng 4 năm 1987.
Ngày 5 tháng 12 năm 1992, thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại
lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.
Giai thoại
1 lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm ông hay ra đây nghỉ mát),
tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi:
“Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?”
Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp:
“Nước bẩn thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn vào trong đó, hiểu
không ?”
1 lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn
Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đếtrẻ bèn ra câu đối:
Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần.
Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi rồi đối lại:
Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó.
Nghe đồn Duy Tân phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số mạng. Nhà vua
còn bảo:
“Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới
có ý nghĩa.”
18 | T r a n g
Gia quyến
Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được
2 năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion,
ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly
hôn.
Những người con của ông với các bà vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ và được rửa tội
theo lễ nghi Công giáo. Một tài liệuviết các con ông đều không nói được tiếng Việtvà có
ít quan hệ với cựu hoàng Thành Thái. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học
tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam. Đến năm 1946, toà án thành phố Saint-Denis đồng ý
cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ
của mình. 5 người Suzy, Georges, Claude, Roger và Andrée đổi thành Georges Vĩnh
San, Claude Vĩnh San v.v...
Các bà vợ và con cái:
1 - Bà Mai Thị Vàng, Đệ nhất giai phi, kết hôn ngày 16 tháng 1 năm 1916. Khi đi lưu đày
theo chồng bà có mang 3 tháng và bị sảy thai. Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội
đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn li dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà
Vàng đi lấy chồng khác (lúc này bà 27 tuổi). Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến
cuối đời (bà thọ 75 tuổi) và thường ngâm:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
hay
Đá dù nát, “Vàng” chẳng phai
Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com