10
Y HỌC QU N SỰ
Câu 1:
Trình bày nguyên tắc tổ chức cứu chữa, vận chuyển thương bệnh binh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Câu 2:
Trình bày nội dung chủ yếu trong công tác quân y thời chiến.
Câu 3:
Trình bày công tác dự phòng nhiễm độc chất độc hóa học do chiến tranh.
Câu 4:
a. Kể tên các dạng bào chế sử dụng các dạng dược liệu tuyến y tế cơ sở.
b. Trình bày định nghĩa và cách bào chế dạng chè thuốc (trà thuốc).
Câu 5:
a. Kể tên các dạng bào chế sử dụng các dạng dược liệu tuyến y tế cơ sở.
b. Trình bày định nghĩa và cách bào chế dạng thuốc bột.
Câu 6:
Trình bày nội dung đảm bảo vệ sinh sinh hoạt và khi chiến đấu trong công sự kín.
Câu 7:
Trình bày vị trí, tầm quan trọng của công tác pha chế dã ngoại.
Câu 8:
Trình bày về các chất độc chiến tranh làm ô nhiễm nguồn nước.
Câu 9:
a. Nêu mục đích, tiêu chuẩn phân loại, cách phân loại thương binh.
b. Trình bày phân loại thương binh theo mức độ nặng, vừa và nhẹ.
Gợi ý: Tham khảo Bài giảng y học quân sự của Đại tá, Bác sĩ Bùi Xuân Quang để làm đề cương ôn tập
Câu 1: Trình bày nguyên tắc tổ chức cứu chữa, vận chuyển thương bệnh binh trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
1. Nguyên tắc chung: Tổ chức cứu chữa, vận chuyển TBBB theo tuyến trên
từng hướng hoặc từng khu vực, kết hợp việc cứu chữa theo tuyến vận chuyển, với
theo chỉ định về hậu phương với việc điều trị tại chỗ ở từng khu vực, kết hợp chặt
chẽ Quân y - Dân y.
2. Phân tích nguyên tắc:
2.1- Tổ chức cứu chữa vận chuyển TBBB theo tuyến: là chia việc cứu chữa
TBBB thành nhiều tuyến. Mỗi tuyến có nhiệm vụ cứu chữa nhất định. Các tuyến phải
tiến hành cứu chữa TBBB kịp thời, thống nhất và kế tiếp nhau.
2.2- Tổ chức cứu chữa, TBBB theo hướng: là trên từng hướng chiến dịch hoặc
trên từng hướng chiến dịch – chiến lược. Các tuyến Quân Y bố trí một cách hợp lý,
hoàn chỉnh, có tính tương đối độc lập để tạo ra một hệ thống cứu chữa TBBB liên
hoàn cho từng hướng. Ở từng hướng phải dựa trên các trục đường dọc đồng thời tận
dụng các trục đường ngang để tạo ra một thế bố trí tuyến Quân y liên hoàn ở từng
hướng và giữa các hướng.
2.3- Tổ chức vận chuyển TBBB theo khu vực: là căn cứ vào đặc điểm và địa
hình, sự hình thành các căn cứ chiến đấu và các căn cứ hậu phương mà bố trí các
tuyến Quân y trong địa phương của các binh đoàn chủ lực (nếu có), kết hợp các lực
lượng Y tế của nhân dân, nhằm tạo ra các hệ thống cứu chữa, vận chuyển TBBB trong
từng khu vực.
2.4- Kết hợp việc cứu chữa TBB theo tuyến vận chuyển theo chỉ định về hậu
phương với việc điều trị tại chỗ ở từng khu vực: là hai phương pháp tổ chức cứu chữa vận chuyển cơ bản trong chiến tranh BVTQ.
- Đối với binh đoàn chủ lực cơ động và các binh đoàn phòng thủ trên các hướng
chủ yếu, thường tập trung đánh lớn, đánh liên tục với sức cơ động cao, do đó số
thương binh hàng ngày thường có nhiều, có liên tục. Vì vậy không thể chỉ tổ chức cứu
chữa tại chỗ ở từng khu vực mà phải liên tục chuyển một phần TBBB (chủ yếu là
những TBBB nặng và vừa ...) theo chỉ định về các tuyến cứu chữa chuyên khoa
phía sau. Những TBBB nhẹ cần được giữ lại ở hậu phương các binh đoàn để điều trị
và bổ sung về các đơn vị chiến đấu. Chỉ trong những trường hợp cần thiết mới chuyển
một ohần TBBB nhẹ về tuyến sau. (xem sơ đồ 2)
- Đối với LLVT ND địa phương có thể tiến hành cứu chữa tại chỗ ở từng khu
vực, có điều kiện cũng có thể gửi về tuyến sau khi vượt quá khả năng cứu chữa.
2.5- Kết hợp chặt chẽ Quân y và Dân y trong công tác cứu chữa, vận chuyển
TBBB: đây là truyền thống tốt đẹp có từ thời kỳ chống Pháp đến nay, trong việc
kết hợp cứu chữa TBBB và nhân dân bị thương, ở vùng sâu, vùng xa nơi biên giới,
hải đảo, thềm lục địa... những vùng miền mà dân y chưa có cơ sở y tế thì quân y phải
đảm nhiệm cứu chữa cho bộ đội và nhân dân và ngược lại những nơi chưa có cơ sở
quân y thì dân y phải đảm nhiệm cứu chữa.
Câu 2: Trình bày nội dung chủ yếu trong công tác quân y thời chiến.
Tổ chức và tiến hành các biện pháp cứu chữa, vận chuyển TBBB và các mặt công tác điều trị dự phòng khác
Nội dung công tác điều trị dự phòng gồm: công tác tuyển quân, công tác quản lý sức khoẻ bộ đội, công tác giám định y khoa, công tác giám định pháp y, công tác điều trị TBBB
Tổ chức và tiến hành các biện pháp vệ sinh phòng dịch nhằm ngăn ngừa sự lây lan dịch bệnh trong quân đội, giữ vững sứ khoẻ bộ đội, giữ vững, quân số chiến đấu
Tổ chức tiếp nhận quản lý và phân phối vật tư quân y , tự lực pha chế và sản xuất 1 phần thuốc và trang bị quân y đáp ứng nhu cầu của đơn vị
Nghiên cứu các vấn đề y học Quân sự, trước hết về cứu chữa và vệ sinh phòng dịch trong chiến đấu. tổng kết kinh nghiệm các mặt công tác bảo đảm quân y.
Đào tạo bổ túc cán bộ , nhân viên quân y và tổ chức huấn luyện quân y cho quân đội
Tổ chức và tiến hành các biện pháp y tế nhằm bảo vệ bộ đội chống tác động xác thương của vũ khí huỷ diệt lớn
Hợp tác quốc tế với quân đội các nước theo quy định trong công tác bảo đảm quân y thời bình và thời chiến
Câu 3: Trình bày công tác dự phòng nhiễm độc chất độc hóa học do chiến tranh.
* Thực chất đây là công tác chuẩn bị. Làm tốt công tác này sẽ trực tiếp góp phần làm giảm tỷ lệ tử vong tàn phá cho bộ đội.
1. Đối với các nhân viên quân y
- Các nhân viên quân y phải được học tập, huấn luyện để có kiến thức toàn y diện về vũ khí hóa học, về những nguyên tắc và biện pháp cụ thể chống chống chiến tranh hóa học, phải hiểu rõ tính chất phức tạp của công tác bảo đảm quân y trong điều kiện chiến tranh, mà địch có thể sử dụng chất độc hóa học.
2. Đối với các phân đội quân y
- Các phân đội quân y từ tuyên trung đoàn trở lên phải xây dựng phương án bảo đảm quân y trong tình huống đích sử dụng vũ khí hủy diệt lớn, trong đó có vũ khí hóa học, phải thực hành diễn tập theo phương án đó một cách linh hoạt trong điều kiện cụ thể của quân đội ta.
3. Đối với bộ đội
- Huấn luyện bộ đội biết tự cấp cứu và cứu chữa lẫn nhau, sử dụng thành thạo và bảo quản tốt các trang bị phòng hóa các nhân.
4. Chuẩn bị thuốc men
4.1. Các thuốc tiêu độc. Được chia làm 2 nhóm chính:
- Nhóm kiềm gồm có:
Natrihydroxyt (NaOH), dung dịch Amoniac (NH3);
Canxihydroxyt Ca(OH)2;
Natribicacbonat NaHCO3;
Natricacbonat Na2CO3;
nước xà phòng...
=>Dùng để tiêu độc: Photgien; Diphotgien; Lơvizit; chất độc thần kinh loại G...
-Nhóm oxy hóa gồm có:
Canxi Clorua: 4 CaCl (CCl).4 H2O;
Canxihypoclorit;
Monocloramin CHSO NaCl, Dicloramin: C6H5SO2Cl2;
Canxihypoclorit có 2/3 phân tử kiềm 3 Ca (CCl)2;
2Ca(OH)2;
nước oxy già H2O2;
dung dịch thuốc tím...
=> Được dùng để tiêu độc Yperit Nitơ, Lơvizit, chất độc thần kinh loại V...
Cách sử dụng:
- Tiêu độc ở da: Natricacbonat 6%; Natricacbonat 3%, thuốc tím 2 – 5%,
Monocloramin 2 – 5%; Mỡ Unithiol 30% (chỉ dùng với Lơvizit)...
- Tiêu độc ở niêm mạc: Natricacbonat 2%; Cloramin 0,25 – 0,5%; thuốc
tím 1 – 2 %...
- Tiêu độc quân trang: Nước xà phòng 10%; Natricacbonat 12 – 25%;
Natricacbonat 10%; thuốc tím 1%; Amoniac 12 – 25%...
- Tiêu độc dụng cụ y tế: Natrihydroxyt 10%; Canxihydrosulfat...
4.2. Các thuốc chống độc đặc hiệu: (Antidot)
- Là thuốc có tác dụng làm giảm, hoặc hết nhanh các triệu chứng nhiễm
độc. cần chú ý là có nhiều loại chất độc chiến tranh nhưng vẫn không có thuốc
điều trị đặc hiệu.
Đối với chất độc thần kinh: Atropin, 2PAM.
Đối với HCN và các hợp chất của nó: Amylnitrit, Natrinitrit, Xanhmetylen, Natrithiosulfat (Na2S2O3), Glucoza...
Đối với Asen, thủy ngân và hợp chất: BAL, Unithiol....
4.3. Các thuốc điều trị triệu chứng:
Dịch thể để truyền tĩnh mạch: Glucoza 5%, 10%, 30%; Natriclorua 9%,
Natribicacbonat 14%; Ringerlactat; Manitol 10 – 15%; Dextran...
Thuốc trợ tim mạch: Uabain; Spactein; Coramin; long não; Adrenalin;
Noadrenalin; Aramin...
Thuốc kích thích trung tâm hô hấp: Lobelin; Xytiton; Corazon; Bemegrit;
Cafein... và một số thuốc khác để điều trị rối loạn hô hấp; thuốc giãn phế quản
(Amynophilin, Ephedrin); thuốc giảm tiết phế quản (Atropin)... oxy.
Các thuốc lợi tiểu: Lasix, Hypothiazid...
Các thuốc chống co giật, an thần: Sedusen; Amynazin; Gacdenan;
Cloranhydrat...
Các thuốc kháng sinh.
Các thuốc giảm đau: Mocphin; Promedol; Dolacgan.
Thuốc hấp thụ: Than hoạt tính.
Thuốc gây nôn: Apomocphin; bột ypeca...
Thuốc tẩy muối: Magnesium sulfat; Natrisulfat.
Các thuốc khác: thuốc chống dị ứng (Dimedron, Canxi clorua, Corticoit,
pypolphen...); thuốc chống tạo bọt (cồn)...
4.4. Chuẩn bị trang bị
Phương tiện phòng hóa cá nhân: Mặt nạ, quần áo phòng hóa, túi phòng độc
cá nhân.
Phương tiện phát hiện chất độc.
Cùng với công binh xây dựng phương tiện phòng hóa tập thể.
Câu 4+ 5:
a4+5 Kể tên các dạng bào chế sử dụng các dạng dược liệu tuyến y tế cơ sở?
Bào chế thuốc đông y: Dạng chè thuốc (trà thuốc), dạng thuốc bột, dạng viên tròn, dạng thuốc cốm, dạng cao thuốc, dạng rượu thuốc
b4. Trình bày định nghĩa và cách bào chế dạng chè thuốc (trà thuốc).?
* Định nghĩa: Chè thuốc là dạng thuốc có một hay nhiều dược liệu khô hỗn hợp
lại. Những dược liệu này đã được chia thành mảnh nhỏ đều nhau. Đôi khi còn cho vào
hỗn hợp một số hóa chất tinh dầu, cao thuốc thích hợp. Khi dùng thì hãm với nước sôi
để uống. Thành phần chè thuốc: có 2 phần.
- Dược liệu: bao gồm các dược liệu có trong đơn thuốc.
- Dung môi: thường dùng là nước (nên dùng nước mưa).
* Cách bào chế:
- Xử lý dược liệu: Làm sạch dược liệu, sao tẩm (nếu cần) rang thuốc hoặc sấy
khô giòn – Phân chia từng dược liệu thành những mảnh nhỏ có kích thước khoảng 3mm.
+ Nếu trong thành phần chè thuốc có chất lỏng như cao thuốc thì phun đều vào dược liệu rồi mới sấy khô và pha trộn (tinh dầu thì cho vào sau cùng).
- Pha trộn, dược liệu: Các dược liệu đã được xử lý xong, căn cứ vào liều lượng quy định cho từng gói chè, cân riêng từng dược chất rồi trộn đều với nhau, đóng gói vào túi Polyetylen (PE) hoặc gió giấy chống ẩm.
- Chè thuốc hãm vào nước sôi để uống, khi hãm cần chú ý những điểm sau:
Với những dược liệu như hoa, lá hoặc dược liệu có tinh dầu... thì hãm trong 10-15 phút.
Với dược liệu là rễ, vỏ, quả thì hãm trong 30 phút đến một giờ.
Với những dược liệu là thân củ, hạt thì hãm trong 20 phút đến 30 phút.
- Nước thuốc hãm xong không nên để quá lâu, chỉ dùng trong 24 giờ.
bC5. Trình bày định nghĩa và cách bào chế dạng thuốc bột
* Định nghĩa: Thuốc bột là 1 dạng thuốc mà dược liệu ở thể rắn được phân chia tới độ nhỏ nhất định. Thuốc bột có 2 loại:
- Thuốc bộ đơn: TP thuốc chỉ có 1 dược chất
- Thuốc bột kép: TP thuốc gồm 2 dược chất trở lên
* Cách bào chế
- Thuốc bột đơn: Tuỳ theo tính chất của dược liệu mà áp dụng phuong pháp thích hợp.
Nếu dược liệu là khoáng chất thì đem tán ngay thành bột, rồi sấy.
Nếu dược liệu là thảo mộc thì trươc khi tán thì phải xử lý, chế biến(lựa chọn, sao tầm, sấy khô), rồi rây bột.
Thuốc phải mịn, phải rây qua các cỡ rây thích hợp để đạt được yêu cầu đó. Theo dược điển Việt Nam quy định các cơ rây có độ mịn như sau:
Số rây
Kích thước lỗ rây
(tính bằng mm)
Cỡ bột
1
0,12
Rất mịn
2
0.15
Mịn
3
0,20
Mịn vừa
+ Bào chế thuốc bột thường dùng số 2, mịn (0,15mm) là phổ biến
- Thuốc bột kép:
Tán riêng từng thứ bột, và rây, để có cỡ bột như nhau.
Trộn đều các bộ trong cối theo nguyên tắc: bột có số lượng ít cho vào trước, bột có số lượng nhiều cho vào sau, lượng bột mỗi lần cho thêm vào bằng lượng bột đã có sẵn trong cối và chỉ cho vào khi bột trong cối đã trộn đều.
Trộn xong phải rây lại hỗn hợp bột bằng cỡ rây cũ.
+ Nếu trong đơn thuốc có chất độc thì cho chất độc đó vào nước.
+ Nếu bột thuốc có chất độc không có màu thì phải cho thêm 1 lượng bột màu vừa đủ để nhuộm giúp ta kiểm tra dễ dàng mức độ trộn đều của những chất độc đỏ hoặc hồng.
Cho vào cối dùng lúc với bột thuốc có độc
Nếu bài thuốc có chất lỏng:
+ chất lỏng dưới 2 giọt cho 1 gam bột: nhỏ từ từ vào đầu chày rồi trộn đều với bột.
+ lượng chất lỏng nhiều hơn: có thể làm cho bột ướt, thì có thể dùng một lượng tinh bột như bột ngô, bột củ dong độn thêm.
Câu 6: Trình bày nội dung đảm bảo vệ sinh sinh hoạt và khi chiến đấu trong công sự kín. (bài 14)
Không khí trong hầm kín
- Công sự kín là những cộng sự giúp cho bộ đội tránh được những tác hại của các vũ khí huy diệt lớn, hoặc bám trụ chiến đấu trong thời gian dài, nên cần chú ý hệ thống khí( đối lưu) khi đào hầm có hệ thống lọc (k phải đeo mặt nạ phòng độc )
- Chú ý nồng độ CO2, nếu tăng sẽ làm tăng thông khí phổi và làm thay đổi tần số hô hấp:
2,5% CO2, có trong hầm, thường chưa có ảnh hưởng gì.
4% Co2, tăng cường hô hấp, tăng hoạt động tim, tăng chuyển hoá, mệt mỏi, hoa mắt, ù tai.
6% CO2, thở gấp, mệt mỏi mắt đỏ, mạch chậm tim đập không đều, hồi hộp nhấc đầu hoa mắt,
7% CO2 không kiểm soát được việc mình làm.
10% CO2: -15% CO2: Xuất hiện run cơ.
Những biện pháp vệ sinh trong hầm kín:
- Kiểm tra sự thông khí: ống thông khí của hầm
- Tái tạo không khí: Có thể dùng các hoá chất như BIOXINATRY, KALI, HYDRXTNATRI, CANXI để hút nước và khí các khí CACBONIC ở trong hầm
VD: 2Na2O2 + CO2 🡪 2Na2CO3 + O2
2Na2O2 + H2O 🡪 2NaOH + O2
3. Những biện pháp vệ sinh trong hầm kín :
- Thường dùng các loại đèn dầu, nến sẽ sinh ra một lượng CO2 ảnh hưởng đến
sức khoẻ – nên cần chú ý ...
- Dùng ánh sáng thiên nhiên qua cửa kính nóc hầm gặp nhiều khó khăn (kính
không chịu được áp suất của sóng xung kích khi bom nổ); kính còn hay phản chiếu ánh sáng dễ bị địch phát hiện.
- Tốt nhất dùng ánh sáng điện (đèn pin, ắc quy, máy phát điện nếu được).
4. Chống tiếng ồn trong hầm :
- Chống tiếng ồn do máy móc vận hành (kê nệm, giảm âm ... )
- Tránh đi lại nói chuyện ồn ào không cần thiết
- Nút tai bịt tai khi bắn pháo.
5. Giải quyết chất thải: Phân nước thải và rác theo quy định chặt chẽ.
6. Phải dự trữ nước: để ăn uống, sinh hoạt tối thiểu.
Ngoài ra còn cần lưu ý một số chất độc ảnh hưởng đến sức khỏe như : CO, các
Ôxit Nitơ, CO2, SO2. Khói thuốc súng có nồng độ tính theo CO. giới hạn cho phép của
CO là 0,020mg/l, khi nồng độ CO từ 0,60 – 0,70mg/l chỉ chịu đựng được 5🡪6 phút.
Câu 7: Trình bày vị trí, tầm quan trọng của công tác pha chế dã ngoại. (Bài 17)
- Pha chế trong điều kiện dã ngoại là tiến hành pha chế thuốc men, dịch truyền
phục vụ thương, bệnh binh trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn rất nhiều so với điều
kiện tĩnh tại, về thời gian, cơ sở và phương tiện làm việc – so với thời bình.
- Pha chế dã ngoại được tiến hành ở trạm quân y trung đoàn, trạm quân y sư đoàn,
đội điều trị, đội phẫu thuật, bệnh viện dã chiến...
- Trong cuộc chiến tranh giải phóng trước kia đều phải thực hiện công tác pha chế
dã ngoại. Qua tổng kết các chiến dịch lớn trong chiến tranh giải phóng của ta trước đây, thì lượng dịch truyền sử dụng cho chống sốc là rất lớn: cứ 2000 thương binh vào trạm quân y sư đoàn thì cần 250 lít đến 500 lít dịch truyền, chưa kể dịch truyền để dùng trong phẫu thuật và các trường hợp cấp cứu và điều trị nội khoa khác. - Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, ở biên giới phía Tây Nam và biên giới phía
Bắc thương binh qua trạm Quân y trung đoàn thường có tỷ lệ bị sốc là 10%; trung bình
mỗi ca sốc sử dụng hết 1,5 lít dịch truyền. - Thương binh qua trạm quân y sư đoàn tỷ lệ sốc là 15%, trung bình mỗi ca sốc sử dụng 2,5 lít dịch truyền.
* Những khó khăn khi pha chế dã ngoại:
- Đơn vị phải cơ động chiến đấu nhiều.
- Nhiên liệu, nguồn nước để pha chế không phải ở đâu cũng có sẵn.
- Trang bị chưa được cải tiến gọn nhẹ, thích hợp với điều kiện dã ngoại.
- Pha chế ở trong hầm, hào nơi rừng núi, mưa gió, ẩm thấp là môi trường dễ bị nhiễm khuẩn nên công tác đảm bảo vô trùng là rất khó khăn.
- Những thương binh bị sốc nhẹ, còn có thể uống được thì cho uống nhằm giảm nhẹ tiêm truyền, các gói uống có tên là CoNak (Orazol) gồm:
Natri Clorua : 3,5 gam
Natri Bicacbonat : 2,5 gam
Kali Clorua : 1,5 gam
Glucoza : 20 gam
Dùng để pha trong 1 lít nước đun sôi để nguội để điều trị sốc nhẹ, mất nước.
- Tuyến quân y sư đoàn và đội điều trị phải tự pha chế đảm bảo khoảng 75%
lượng dung dịch.
- Ở các bệnh viện dã chiến quân đoàn, bệnh viện quân khu, được cấp nguyên liệu, để tự pha chế đảm bảo lấy nhu cầu dịch truyền cho mình.
Câu 8: Trình bày về các chất độc chiến tranh làm ô nhiễm nguồn nước. (bài 15)
* Các chất độc chiến tranh làm ô nhiễm nguồn nước là:
- Các chất độc hoá học.
- Vi sinh vật và các độc tố của vi sinh vật.
- Các chất phóng xạ.
1. Các chất độc hoá học:
Mức độ nhiễm độc phụ thuộc vào độc tính và hình thái vật chất của chất độc. Nguồn nước có thể bị nhiễm độc bởi:
- Các chất độc gây loét nát như: YPÊRIT, LƠVIZIT.
- Các chất phóng xạ .
1.1- Các chất gây loét nát:
- YPÊRIT: Rất ít hoà tan trong nước, độ hoà tan khoảng 0,7mg/lít. Ypêrit rơi xuống nước hoà tan chậm và thuỷ phân thành những chất không độc. Ypêrit thể hơi hoặc thể sương không làm nhiễm độc nước, chỉ cần đun sôi nước là dùng được.
- LƠVIZIT: Rất ít hoà tan trong nước hơn Ypêrit. Độ hoà tan là 0,2 – 0,5 mg/lít.
Nhưng Lơvizit thuỷ phân nhanh hơn và sau thuỷ phân vẫn còn giữ tính chất độc.
1.2- Các chất độc thần kinh:
- Sarin và Tabun: Sarin độc gấp 10 lần Tabun, Sarin và Tabun vào nước phân
huỷ thành những chất không độc. Nhiệt độ thấp, Sarin thuỷ phân chậm. PH kiềm thuỷ
phân nhanh, liều sarin có trong nƣớc chỉ chiếm 15 đến 20 phần triệu của nước cũng có
thể gây độc nguy hiểm. Đối với loài cá nhỏ ( cá vàng, cá duôi cờ ... )liều chết còn ít hơn vạn lần. Có thể dùng cá cho vào giếng, bể chứa, để phát hiện chất độc chiến tranh một cách đơn giản hơn so với phƣơng pháp hoá học.
2. Vi sinh vật và các độc tố vi sinh vật :
- Trong chiến tranh địch có thể sử dụng vũ khí vi sinh (vi trùng, vi rút, rickettsie, nấm... và độc tố của vi khuẩn ) dễ gây tác hại cho người, súc vật, cây cỏ, thực phẩm và nguồn nước.
- Nước có thể bị ô nhiễm do các vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm, tả, lị, thương hàn, phó thương hàn, lỵ amít, sốt làn sóng , tularemi lépto, viêm gan siêu vi ...
- Cho nên khi sử dụng cần phải đun sôi một giờ hoặc Clo hoá liều cao (20mg/lít).
- Kẻ địch có thể dùng độc tố vi trùng Botulisme (Clostridium botulinum) với liều: ngộ độc cho người 0,15gamma, liều chết người 0,30 gamma.
- Các loại độc tố botulisme bị nhiệt độ đun sôi phá huỷ, đặc biệt thuốc sát trùng Clo, iốt, thuốc tím liều thường có thể phá huỷ độc tố botulisme trong vòng 15 phút.
3. Nguồn nước bị ô nhiễm các chất phóng xạ :
- Trong chiến tranh địch có thể sử dụng vũ khí nguyên tử, khinh khí với các loại đầu đạn pháo, đầu đạn tên lửa và mìn bằng các nhiên liệu như Uran 235 hoặc Plutoni239.
- Các vũ khí này có thể làm ô nhiễm nguồn nước bằng các chất phóng xạ bao gồm:
+ Các mảnh nhiên liệu phân rã (bụi phóng xạ tạo ra trong khi nổ bắn lên khí
quyển rồi rơi xuống nguồn nước ).
+ Khi các đầu đạn và bom hạt nhân nổ sẽ tạo ra một lƣợng lớn hạt Nơtron, các hạt Nơtron này có khả năng biến các nguyên tố không mang tính phóng xạ (những chất phóng xạ cảm tính), thành những chất phóng xạ bao gồm các nguyên tố phóng xạ như: Natri, kali, iốt, Brom.
- Khi nổ trên mặt đất, đất có chất phóng xạ rơi vào nguồn nước nhưng nguy hiểm hơn là khi nổ dưới nước, lượng hạt Nơtron có thể sinh ra nhiều chất phóng xạ cảm tính nếu như nước có chứa nhiều muối khoáng hoà tan. Vùng nước tại chỗ vũ khí hạt nhân nổ và ở xa chỗ nổ hàng trăm Km cũng có cường độ phóng xạ rất lớn. Nguồn nước bị nhiễm phóng xạ rất nguy hiểm cho người và gia súc khi uống và
sử dụng sinh hoạt.
Các chất phóng xạ sẽ tự phân rã, đối với đồng vị phóng xạ ngắn hay chu kỳ bán huỷ độ vài giờ hay vài ngày thì nguồn nước sẽ rất trong sạch. Nhưng đối với các đồng vị phóng xạ dài ngày thì mặc dù số lượng ít cũng rất nguy hiểm cho người dùng.
- Các chất phóng xạ chiến tranh (CPXCT) mà đối phương sử dụng là chất thải
của các lò phản ứng tạo ra, do sự chiếu xạ các nguyên tố không mang tính phóng xạ,
để biến chúng thành nguyên tố phóng xạ các chất CPXCT có thể sử dụng ở dưới các
dạng khói, sương mù... có khả năng làm ô nhiễm đất, nước, cây cỏ chúng ngăn cản những hoạt động quân sự hoặc công tác hậu cần.
Câu 9:
a. Nêu mục đích, tiêu chuẩn phân loại, cách phân loại thương binh.
Mục đích:
- Chọn nhóm thương binh theo từng nhóm theo yêu cầu cấp cứu và điều trị.
- Nhanh chóng phát hiện số thương binh cần được cấp cứu ngay tại tuyến này hay kịp thời chuyển thương binh về tuyến sau.
Tiêu chuẩn phân loại
- Dựa vào tình trạng cụ thể của tổn thương và tình trạng toàn thân của thương binh.
Công tác phân loại chọn lọc: tiến hành trên tất cả các tuyến, Tại từng tuyến, còn phải căn cứ cụ thể vào:
Nhiệm vụ của tuyến đó
Hoàn cảnh diễn biến của chiến sự
Số lượng thương binh nhiều hay ít
Cách phân loại thương binh
- Phân loại thương binh theo nặng, vừa và nhẹ
- Phân loại thương binh theo yêu cầu cấp cứu và chuyển vận
b. Trình bày phân loại thương binh theo mức độ nặng, vừa và nhẹ.
- Phân loại thương binh theo mức độ nặng, vừa và nhẹ về chuyên môn nói lên yêu cầu về chất lượng và khối lượng công tác cấp cứu điều trị; mặt khác giúp cho chỉ huy đánh giá mức tổn thất về lực lượng chiến đấu thường dùng trong báo cáo thống kê của đơn vị.
+ Loại nặng: vết thương lớn, đe dọa nhiều đến tính mạng thương binh hoặc để lại thương tật lớn không còn khả năng quay lại chiến đấu,
+ Loại vừa: vết thương trung bình, ít nguy hiểm đến tính mạng, còn đủ khả năng chiến đấu.
+ Loại nhẹ: vết thương nhỏ, thời gian điều trị ngắn, thương binh còn đủ khả năng chiến đấu.
-Tiêu chuẩn phù hợp để xếp loại phải kết hợp toàn thân và tổn thương tại chỗ.
Câu hỏi phụ làm bài tập
- Ở tuyến quân y đại hội (Qyc): Có cơ số quân y là túi y tá. đủ cho một trận đánh.
- Ở tuyến quân y tiểu đoàn ( Qyd): Có cơ số quân y là túi y sĩ. Để Qyd làm nhiệm vụ bổ sung cấp cứu cho những TB từ tuyến chuyển về.
- Ở tuyến quân y trung đoàn (trạm Qye): được trang bị cơ số Y. Cơ số Y là cơ số thuốc chiến thương và bông băng, để Qye làm nhiệm vụ cứu chữa tối khẩn cấp và khẩn cấp cho 25 TB qua trạm Qye.
+ Cơ số Y là khối lượng thuốc chiến thương, bông băng, chỉ khâu phẫu thuật đủ
để cứu chữa 25TB qua trạm Qye , bị thương do vũ khí thông thường, trong đó có
20-25% TB được cứu chữa tối khẩn cấp và khẩn cấp; thời gian cứu chữa có thể từ 7 đến 10 ngày.
- Ở tuyến quân y sư đoàn (trạm Qyf): Hay đội điều trị, bệnh viện dã chiến được trang bị cơ số thuốc chiến thương và bông băng để các phân đội quân y này bảo đảm nhiệm vụ cứu chữa khẩn cấp và một phần cơ bản, mang tên cơ số K. Mỗi cơ số K đảm bảo cứu chữa cho 50 TB từ tuyến Qye chuyển về.
+ Tuyến quân y sư đoàn bộ binh và tuyến sau: (đội điều trị, bệnh viện dã chiến). cơ số K, để cứu chữa 90TB (do vũ khí sát thương) qua trạm Qyf, đội điều trị và bệnh viện dã chiến, trong đó có từ 40 đến 60% TB được cứu chữa khẩn cấp và cơ bản. Thời gian điều trị từ 20-25 ngày.
Truyền dịch
TB qua trạm Qye thường có tỷ lệ bị sốc là 10%; trung bình mỗi ca sốc sử dụng hết 1,5 lít dịch truyền.
TB qua trạm Qyf tỷ lệ sốc là 15%, trung bình mỗi ca sốc sử dụng 2,5 lít dịch truyền.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com