Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

PHẦN MỘT


1. Tự ngôn của Zarathustra

Tác phẩm dành cho tất cả và không dành cho một ai.

Năm ba mươi tuổi, Zarathustra rời xứ và hồ lên núi. Trên núi cao, Zarathustra hưởng thụ tinh thần và nỗi cô đơn của mình triền miên không hề mỏi mệt trong suốt mười năm. Nhưng sau cùng, tâm hồn Zarathustra biến đổi; một buổi sáng nọ, thức giấc cùng bình minh, Zarathustra tiến đến trước mặt trời và thốt ra những lời sau:

Hỡi thiên thể vĩ đại kia! Hạnh phúc của mi sẽ ra sao nếu không có những người mà mi soi chiếu?

Mười năm nay kể từ khi đến với hang đá của ta, mi sẽ chán nản mệt mề với ánh sáng và quỹ đạo của mi, nếu không có ta cùng con ó và con rắn của ta.

Nhưng chúng ta đã đợi chờ mi mỗi sáng mai, chúng ta đã dùng phần dư thừa của mi và đã cảm tạ mi.

Giờ đây, ta đã chán ngán sự khôn ngoan của ta, như con ong đã hút quá nhiều mật. Ta cần có những bàn tay vươn về với ta.

Ta muốn ban cho và phân phát, mãi đến lúc những kẻ hiền minh giữa loài người lại trở nên hạnh phúc vì sự điên cuồng của họ, và những kẻ nghèo nàn được sung sướng vì sự giàu có của mình.

Chính vì thế ta phải đi xuống tận những chiều sâu tương tự như mi mỗi buổi chiều khi mi biến mình sau biển cả, mang theo ánh sáng rạng rỡ cho thế giới dưới lòng đất, hỡi vì tinh tú giàu sang vô lượng kia!

Ta phải biến mất như mi, ta phải lặn tắt [1] - nói theo những người mà ta khát khao xuống cùng họ.

Vậy thì, hỡi con mắt tĩnh lặng kia ơi, hãy chúc phúc cho ta, mi, kẻ có thể ngắm nhìn mà không thèm thuồng đố kỵ một hạnh phúc dẫu có quá đà.

Mi hãy chúc phúc cho chén rượu muốn tràn, cho chất nước óng vàng chảy tuôn từ đó và mang theo khắp nơi phản ánh hạnh phúc tối đại của mi.

Mi hãy nhìn đây! Chén rượu này lại muốn cạn không và Zarathustra muốn trở lại làm người.

Cuộc hạ san [2] của Zarathustra bắt đầu như thế.

Zarathustra một mình xuống núi và không gặp một ai. Nhưng khi Zarathustra tiến vào rừng, trước mặt hắn bất ngờ hiện ra một lão trượng, ông lão đã rời chiếc chòi tranh thánh thiện của mình để đi tìm rễ cây trong rừng. Và lão trượng đã nói với Zarathustra như thế vầy:

- Người lữ khách này không xa lạ với ta; cách đây nhiều năm rồi hắn đã có lần qua đây. Hắn tên là Zarathustra, nhưng hắn đã biến đổi.

Lúc ấy ngươi đã mang tro tàn của ngươi về núi; nay ngươi lại muốn mang lửa nồng về thung lũng hay sao? Ngươi há không sợ hình phạt dành cho kẻ gây ra hỏa hoạn?

Phải rồi, ta đã nhận ra Zarathustra. Mắt hắn trong suốt và miệng hắn chẳng biểu lộ nét nào chán ngán. Hắn chẳng bước đi như kẻ đang khiêu vũ đó sao?

Zarathustra đã biến đổi. Hắn đã tự hóa thân thành trẻ thơ, hắn đã giác ngộ: giờ đây ngươi còn tìm chi bên những người đang mê ngủ?

Ngươi đã sống trong cô đơn như sống giữa lòng biển cả dạt dào, và biển cả mang ngươi đi. Khổ thân cho ngươi, vậy ra giờ ngươi lại muốn dạt tấp vào bờ? Khổ thân cho ngươi, giờ ngươi lại muốn tự mình kéo lôi theo thân xác?

Zarathustra trả lời: "Tôi yêu loài người".

- Vậy thì, nhà hiền triết bảo, tại sao ta lại đi vào rừng và đi vào trong nỗi cô đơn? Không phải vì ta đã quá yêu thương loài người sao?

Giờ đây ta yêu thương Thượng đế; ta không thương yêu loài người. Dưới mắt ta, loài người là một cái gì quá đỗi bất toàn. Tình yêu loài người sẽ giết chết ta.

Zarathustra đáp: "Nào tôi có nói đến tình yêu! Tôi đến hiến cho loài người một tặng phẩm".

Vị thánh tiếp lời:

- Đừng ban cho loài người điều gì cả. Tốt hơn ngươi nên tháo gỡ họ ra khỏi một cái gì đó và giúp họ mang vác nó, chẳng gì quý hơn thế đối với họ: miễn là, điều đó cũng làm chính bản thân ngươi thỏa dạ!

Và nếu ngươi muốn ban cho, thì đừng ban cho họ cái gì vượt quá một của bố thí và hãy chờ họ đến ăn mày nơi ngươi!

Zarathustra đáp:

- Không, tôi không bố thí. Tôi không đủ nghèo để làm việc bố thí.

Vị thánh bật cười vì lời lẽ của Zarathustra và nói như vầy: "Vậy thời ngươi hãy cố gắng làm cho họ chấp nhận kho tàng của ngươi. Họ nghi ngờ những ẩn sĩ cô đơn và không tin rằng chúng ta đến để gia ơn ban phát cho họ.

Đối với họ, những bước chân của chúng ta vang lên trên đường phố mang một âm thanh quá đỗi tịch liêu. Họ lại còn sinh lòng lo ngại khi ban đêm nằm ngủ trên giường, họ nghe tiếng một người lặng lẽ bước đi ngoài đường phố, rất lâu trước khi mặt trời ló dạng, có lẽ họ tự hỏi mình: "Kẻ trộm kia đang làm gì vậy?"

Ngươi đừng nên đến với loài người, hãy ở lại với rừng cao! Tốt hơn nữa ngươi nên đến với những con thú! Tại sao ngươi lại không muốn được như ta, một con gấu giữa đàn gấu, một con chim giữa bầy chim?"

"Và vị thánh làm gì trong rừng sâu?" Zarathustra lên tiếng hỏi.

Vị thánh trả lời: "Ta sáng tác những bản nhạc và hát lên, và khi sáng tác, ta cười, ta khóc, ta gầm gừ: đó là cách ta ngợi ca Thượng đế.

Bằng những bài ca, những tiếng khóc, tiếng cười, tiếng gầm gừ, ta tạ ơn Thượng đế của ta. Nhưng còn ngươi, ngươi mang đến món quà gì cho chúng ta?"

Khi Zarathustra nghe hết những lời này, hắn cúi chào vị thánh và bảo: "Tôi có thể cho ngài gì đây? Thôi, xin ngài hãy để tôi đi ngay, cốt cho tôi đừng lấy của ngài món gì cả!" Rồi hai người, ông lão và người đàn ông, chia tay nhau như thế, tươi cười như hai đứa bé.

Nhưng khi Zarathustra một mình, hắn tự hỏi lòng: "Có thể như thế được chăng? Vị thánh già nua sống trong rừng thẳm ấy hãy còn chưa nghe nói rằng Thượng đế đã chết rồi sao?"

Khi Zarathustra đặt chân vào thành phố gần nhất ven rừng, hắn gặp một đám đông đang tụ họp trên công trường, vì người ta báo trước rằng một người làm trò đi dây xiếc sắp biểu diễn. Và Zarathustra nói với dân chúng như vầy:

Ta rao giảng với các ngươi về Siêu nhân. Con người là cái gì cần phải được vượt qua. Các ngươi đã làm gì để vượt qua con người?

Cho đến nay, tất cả những sinh vật đều đã sáng tạo nên một cái gì vượt quá chúng, các ngươi lại muốn mình là nghịch triều trong cơn sóng lớn ấy, muốn quay trở lại với con thú hơn là vượt qua con người sao?

Con khỉ đối với con người là gì? Một đối tượng cười nhạo hay một sự hổ thẹn đầy đớn đau. Và con người cũng phải như thế đối với Siêu nhân: một đối tượng để cười nhạo hay một hổ thẹn đớn đau.

Các ngươi đã vượt qua con đường dẫn từ loài sâu bọ đến loài người, nhưng về nhiều phương diện, các ngươi vẫn còn là loài sâu bọ. Xưa kia các ngươi đã là loài khỉ và cả bây giờ nữa, con người còn khỉ hơn bất luận con khỉ nào.

Ngay kẻ hiền triết nhất trong các ngươi cũng chỉ là một cái gì phân tán và hỗn tạp: nửa cây nửa ma. Thế mà, ta có mời gọi các ngươi trở thành cây cối hay ma quỷ không?

Này đây, ta rao dạy cho các ngươi Siêu nhân!

Siêu nhân là chiều hướng, là ý nghĩa của trái đất. Ý chí các ngươi phải bảo: Siêu nhân phải là chiều hướng, ý nghĩa của trái đất.

Hỡi những người anh em, ta van xin các ngươi, hãy trung thành với mặt đất và chớ có tin những kẻ nói với các ngươi về những hy vọng lững lờ bên trên mặt đất! Họ là những kẻ đầu độc, dẫu họ có ý thức điều đó hay không.

Họ là những kẻ khinh miệt đời sống, những kẻ hấp hối và cũng chính là những kẻ bị đầu độc, mặt đất đã quá mỏi mệt chán chê họ: họ hãy cút đi cho khuất mắt!

Xưa kia, báng bổ Thượng đế là lời báng bổ nặng nhất, nhưng Thượng đế đã chết và cũng chết theo Thượng đế là những kẻ báng bổ ấy. Giờ đây, điều đáng kinh khiếp hơn nhiều, là báng bổ mặt đất và coi trọng ruột rà của cái bất khả thấu nhập hơn ý nghĩa, chiều hướng của mặt đất!

Xưa kia, linh hồn đưa mắt nhìn thân xác với vẻ khinh miệt, và lúc bấy giờ, chẳng có gì cao cả hơn sự khinh miệt ấy: linh hồn muốn cho thân xác ốm o, khả ố, đói khát! Làm thế, linh hồn tưởng là đã thoát được thân xác, thoát được thân xác và mặt đất!

Ôi! Linh hồn ấy chính nó cũng còn ốm o, khả ố và đói khát: và sự tàn bạo là nỗi khoái lạc của linh hồn này.

Nhưng cả các ngươi nữa, hỡi những anh em của ta, hãy nói cho ta biết: thân xác các ngươi báo hiệu gì được cho linh hồn các ngươi? Linh hồn các ngươi há chẳng phải là sự nghèo nàn, nhơ bẩn cùng sự tự mãn đáng thương sao?

Thật ra, con người là một dòng sông nhơ bẩn. Phải là biển cả bao la mới có thể dung thông tiếp nhận một dòng sông uế trược mà không bị nhiễm ô.

Này đây, ta rao giảng cho các ngươi về Siêu nhân: Siêu nhân là biển cả bao la nơi cơn khinh bỉ ngút ngàn của các ngươi có thể đến dìm mình vào đó.

Còn gì cao nhã trác việt có thể đến với các ngươi cho bằng giờ phút của sự khinh bỉ ngất trời? Giờ phút mà ngay cả hạnh phúc, lý trí cùng đức hạnh của các ngươi cũng biến thành kinh tởm.

Giờ phút mà các ngươi bảo rằng: "Sá gì hạnh phúc của ta! Hạnh phúc ấy là sự nghèo nàn, nhơ bẩn và sự tự mãn đáng thương. Thế mà, hạnh phúc của ta lẽ ra phải làm cho chính cuộc hiện sinh thành chính đáng!"

Giờ phút mà các ngươi bảo rằng: "Sá gì lý trí ta! Lý trí ấy có khát khao hiểu biết, như con sư tử khát khao lương thực không? Lý trí chỉ là sự nghèo nàn, nhơ bẩn và sự tự mãn đáng thương!"

Giờ phút mà các ngươi bảo rằng: "Sá gì đức hạnh của ta! Nó hãy còn chưa làm ta thành mê sảng. Ta chán nản mệt mỏi với những điều thiện và điều ác của mình lắm rồi! Tất cả những thứ đó chỉ là sự nghèo nàn, nhơ bẩn và sự tự mãn đáng thương!"

Giờ phút mà các ngươi bảo rằng: "Sá gì sự công chính của ta! Chẳng có lửa nồng nào bao phủ trong ta. Thế mà, kẻ công chính giống như một thỏi than nóng bỏng!"

Giờ phút mà các ngươi bảo rằng: "Sá gì sự thương hại nơi ta! Lòng thương hại há chẳng phải là cây thập giá nơi thiên hạ đóng đinh kẻ yêu thương loài người sao? Nhưng lòng thương hại của ta không phải là một cuộc đóng đinh."

Các ngươi đã từng nói như vậy bao giờ chưa? Các ngươi đã từng thét lớn như vậy bao giờ chưa? Hỡi ôi! Giá gì ta đã được nghe các ngươi thét to lên những lời như thế!

Không phải tội lỗi, nhưng chính sự tự mãn của các ngươi đang kêu gào chống lại trời xanh, chính sự bủn xỉn của các ngươi, ngay cả trong tội lỗi, đang ra sức kêu gào với trời xanh!

Vậy thời, đâu là lằn chớp dữ đến liếm lưỡi vào các ngươi? Đâu là cơn điên cuồng phải thấm nhập vào các ngươi?

Này đây, ta rao dạy cho các ngươi về Siêu nhân: Siêu nhân chính là lằn chớp dữ, chính là cơn điên cuồng đó!

Khi Zarathustra đã nói như thế, có một kẻ trong đám đông kêu to lên: "Chúng tôi nghe nói khá nhiều về người đi dây làm xiếc rồi: giờ hãy cho chúng tôi thấy mặt y thôi!" Và cả đám dân chúng rộ lên cười Zarathustra. Nhưng người đi dây làm xiếc lại tưởng thiên hạ nói đến mình, nên liền khởi đầu biểu diễn.

Trong khi đó, Zarathustra lặng nhìn đám dân chúng, lòng đầy kinh ngạc. Rồi Zarathustra lên tiếng:

Con người là một sợi dây căng thẳng giữa con thú và Siêu nhân - sợi dây căng ngang một hố thẳm.

Vượt qua hố thẳm: nguy hiểm; cất bước giữa đường đi: nguy hiểm; nhìn lại đằng sau: nguy hiểm - rùng mình sởn ốc và đứng dừng: nguy hiểm.

Điều cao đại nhất nơi con người nằm ở chỗ con người là một chiếc cầu chứ không phải một mục tiêu; điều mà ta có thể yêu thương nơi con người là: con người là một sự chuyển tiếp và một sự suy tàn [3].

Ta yêu những kẻ nào chỉ biết sống bằng cách làm cho mình trầm một, diệt vong, vì họ đang bước qua bờ bến bên kia.

Ta yêu những kẻ khinh bỉ ngất trời, vì họ chính là những kẻ ngưỡng mộ mê cuồng, những mũi tên của khát vọng lao vút qua bến bờ bên kia.

Ta yêu những kẻ không để tâm tìm kiếm bên kia những vì sao một lý lẽ để diệt vong hay để hy sinh, mà trái lại chỉ hy sinh dâng hiến cho mặt đất, để một ngày kia, thời đại của Siêu nhân ngự trị trên mặt đất.

Ta yêu kẻ nào sống để hiểu biết và muốn hiểu biết để cho một ngày kia Siêu nhân được sống mãi. Như thế là họ cũng ước muốn chính sự suy tàn của mình.

Ta yêu kẻ nào làm việc và phát minh, để xây dựng nơi trú ngụ cho Siêu nhân, để sửa soạn đất đai, thú vật cùng cây cối cho Siêu nhân xuất hiện: vì như thế là ước muốn chính sự suy tàn của mình.

Ta yêu kẻ nào yêu mến chính đức hạnh của họ: bởi vì đức hạnh là một ý chí muốn sự suy tàn, và một mũi tên của khát vọng.

Ta yêu kẻ nào không dành lại cho chính mình một mảnh nhỏ nào của tinh thần, kẻ nào muốn hoàn toàn là tinh thần của đức hạnh mình: vì với tư cách là tinh thần như thế, họ băng vượt qua cầu.

Ta yêu kẻ biến đức hạnh mình thành ý hướng và vận mệnh của chính mình: vì như thế, do tình yêu đức hạnh của chính mình, họ mới khát khao sống thêm và không sống thêm nữa.

Ta yêu kẻ nào không khát khao có quá nhiều đức hạnh. Có nhiều đức hạnh trong một đức hạnh duy nhất hơn là trong hai đức hạnh: đấy là một nút thắt nơi số mệnh đan kết.

Ta yêu kẻ nào có linh hồn phung phá, không muốn người khác cảm ơn mình và cũng chẳng hồi trả lại: bởi vì họ luôn luôn ban phát và không muốn trì thủ lấy cho mình.

Ta yêu kẻ nào hổ thẹn khi vận may ngả về với mình, và tự đặt câu hỏi: ta có gian lận chăng? - bởi vì họ muốn diệt vong.

Ta yêu kẻ nào ném ra những lời vàng ngọc đằng trước những hành vi của họ và luôn luôn giữ đúng hơn những gì mình hứa: bởi vì họ muốn chính sự suy tàn của mình.

Ta yêu kẻ nào biện chính cho những người trong tương lai và giải thoát cho những người trong quá khứ, vì họ muốn diệt vong bởi những người hiện tại.

Ta yêu kẻ trừng phạt Thượng đế của mình vì yêu Thượng đế đó: cần phải để cho cơn phẫn nộ của Thượng đế họ làm họ diệt vong.

Ta yêu kẻ nào tâm hồn sâu thẳm, ngay cả trong vết thương, kẻ mà một tai ương nhỏ bé nhất cũng có thể làm họ diệt vong; vì họ sẽ hân hoan vượt qua cầu không hề do dự.

Ta yêu kẻ nào tâm hồn tràn đầy viên mãn đến độ tự quên chính mình, và tất cả mọi sự đều được cưu mang trong họ: như thế tất cả mọi sự đều sẽ trở thành sự suy tàn của chính họ.

Ta yêu kẻ nào tự do tự tại trong tâm hồn và trong tinh thần: như thế đầu óc họ chỉ dùng làm ruột rà cho quả tim, nhưng quả tim họ kéo họ về sự suy tàn.

Ta yêu những kẻ nào tựa như những giọt nặng đang kiên trì rơi từng giọt một từ tảng mây tối ám lơ lửng trên đầu loài người: họ báo trước lằn chớp dữ đang đến và diệt vong với tư thế là những người tiên báo.

Này đây, ta là một đấng tiên tri của sấm sét, một giọt nặng rơi từ mây xuống: sấm sét đó tên là Siêu nhân.

Khi Zarathustra đã nói xong những lời này, hắn lại nhìn đám dân chúng lần nữa, rồi im lặng tự nhủ lòng mình:

Họ đang phá ra cười kìa; họ chẳng hề hiểu ta, miệng ta không hợp cho những lỗ tai đó.

Liệu ta có phải chọc thủng tai họ để cho họ học nghe bằng mắt? Liệu ta có phải đánh chũm chọe và la gào như những linh mục thuyết giáo trong tuần chay? Hoặc giả dân chúng chỉ tin vào những kẻ ăn nói cà lăm?

Họ có một cái gì đó làm họ hãnh diện. Vậy, họ gọi tên cái đang làm họ hãnh diện là gì? Họ gọi đó là nền văn minh, chính nền văn minh làm họ khác biệt với kẻ chăn dê.

Chính vì thế, về những người đó, họ không thích nghe chữ "khinh bỉ". Vậy thời ta sẽ ngỏ lời với lòng kiêu hãnh của họ.

Ta sẽ nói cho họ nghe về điều đáng khinh bỉ hơn cả: đấy là con người cuối cùng hay con người hạ đẳng nhất. [4]

Và Zarathustra nói với dân chúng như vầy:

"Đã đến lúc con người tự đặt cho mình một mục tiêu. Đã đến lúc con người vun trồng mầm mống hy vọng cao đại nhất của mình.

Đất đai con người hiện giờ hãy còn khá màu mỡ. Nhưng một ngày kia, đất đai ấy sẽ thành khô kiệt nghèo nàn, và chẳng một cây đại thụ nào còn có thể mọc lên ở đó nữa.

Than ôi! Đã gần đến lúc mà con người không còn bắn vượt qua con người mũi tên của khát vọng họ, lúc mà dây cung của họ sẽ không thể rung vang nữa!

Ta nói thật cùng các ngươi điều này: phải còn mang theo mình sự hỗn mang, mới có thể làm nảy sinh một ngôi sao lung linh điệu vũ. Ta nói thật cùng các ngươi điều này: các ngươi đang mang trong bản thân mình một sự hỗn mang.

Hỡi ôi! Đã gần đến lúc mà loài người không còn khai sinh ra những vì sao mới trên trần thế nữa. Hỡi ôi! Đã gần đến lúc xuất hiện kẻ đáng khinh bỉ nhất của loài người, kẻ không còn tự biết khinh bỉ chính mình.

Này đây, ta tả cho các ngươi về con người hạ đẳng nhất.

"Tình yêu? Sáng tạo? Khát vọng? Sao trên trời? Mấy cái đó là thứ gì vậy?" Con người hạ đẳng nhất hỏi như thế và nheo nheo một mắt.

Mặt đất sẽ trở thành chật hẹp hơn và con người hạ đẳng nhất nhảy cà tưng cà tang trên đó, con người thu nhỏ tất cả mọi sự lại. Dòng giống hắn cũng vững bền không thể hủy diệt được như loài rệp cây; con người hạ đẳng nhất là kẻ sống rất dai.

"Chúng tôi đã phát minh ra hạnh phúc", những người hạ đẳng nhất nói như thế và họ nheo nheo một mắt.

Họ đã bỏ rơi những xứ miền ở đó đời sống kham khổ: vì họ đang cần sức nóng. Họ hãy còn yêu kẻ láng giềng đồng loại và họ cọ xát vào người này: vì họ đang cần hơi nóng.

Đối với họ, ngã bệnh hoặc sống với lòng hoài nghi là một tội lỗi: họ thận trọng tiến bước trên đời. Thật quả là kẻ điên mới còn va chạm những hòn đá hay những con người!

Một ít thuốc độc nơi này, nơi nọ: điều đó ban cho họ những giấc mộng thoải mái. Và sau cùng, nhiều thuốc độc để được chết một cách thoải mái.

Người ta cũng hãy còn làm việc, vì việc làm là một sự phóng tâm tiêu khiển. Nhưng người ta cẩn trọng lưu tâm sao cho sự phóng tâm tiêu khiển ấy không làm mình mệt.

Người ta không còn trở thành nghèo hay giàu nữa: chuyện đó quá đỗi khó nhọc. Ai là kẻ còn muốn cai trị?Ai là kẻ còn muốn được vâng lời? Chuyện đó quá đỗi khó nhọc.

Chẳng có lấy một người chăn chiên, chỉ rặt một đàn cừu! Ai nấy đều ước muốn cùng một điều; mọi người đều bình đẳng: kẻ nào mang một tâm trạng khác sẽ sẵn lòng vào nhà thương điên.

"Ngày xưa, mọi người đều điên cả", những kẻ tinh tế nhất trong bọn họ bảo thế, và họ nheo nheo một mắt.

Họ thận trọng và biết tỏ tường những gì đã xảy ra: đến độ họ không ngớt chế giễu mình về chuyện ấy. Họ cũng còn cãi vã nhau đấy, nhưng để rồi hòa giải với nhau ngay - sợ rằng làm đau dạ dày.

Họ cũng hơi thinh thích ban ngày và hơi thinh thích ban đêm: nhưng điều họ tôn sùng là sức khỏe.

"Chúng tôi đã phát minh ra hạnh phúc", những con người hạ đẳng bảo thế, và họ nheo nheo một con mắt".

Đến đây kết thúc bài thuyết pháp đầu tiên của Zarathustra, bài thuyết pháp cũng được người đời gọi là "Tự ngôn" [5], bởi vì vào lúc ấy, Zarathustra bị ngắt lời bởi những tiếng kêu thét và nỗi vui mừng nhốn nháo của đám đông. "Hỡi Zarathustra! Hãy ban cho chúng tôi con người hạ đẳng nhất ấy - họ kêu lên, - hãy làm cho chúng tôi trở thành giống như những người hạ đẳng nhất ấy! Chúng tôi sẽ khỏi mang nợ Siêu nhân của Zarathustra!" Và toàn thể dân chúng vui mừng sung sướng chậc lưỡi nghe rào rào. Song Zarathustra buồn bã tự nhủ lòng mình:

"Họ chẳng hề hiểu ta: miệng ta không có lời hợp cho những lỗ tai đó.

Hẳn là ta đã sống quá lâu trên núi, ta lắng nghe quá nhiều âm thanh suối nước róc rách cùng tiếng cây cối rì rào: giờ đây ta lại nói với họ như nói với những kẻ chăn dê.

Linh hồn ta thanh thản trong sáng như một ngọn núi ban mai. Nhưng họ lại tưởng ta là người lạnh lẽo và xem ta như một kẻ làm trò hề đang thốt những lời bông lơn trâng tráo.

Và kìa, họ đang nhìn ta và cười rộ: trong khi cười, họ vẫn còn thù ghét ta. Có nỗi gì băng giá trong tiếng cười của họ".

Nhưng vào lúc ấy xảy ra một điều làm cho mọi cửa miệng đều câm tiếng cười và mọi con mắt đều nhìn sững. Vì trong thời gian ấy, người đi dây làm trò xiếc đã khởi sự biểu diễn: anh ta bước ra từ một con đường ngầm ở bờ thành rồi bước đi trên sợi dây căng thẳng giữa hai ngọn tháp, bên trên công trường và đám đông dân chúng. Vào lúc anh ta đang ở ngay giữa đường dây, cánh cửa lại bật mở ra lần nữa, rồi một gã thanh niên quần áo sặc sỡ trông giống như một thằng hề, nhảy ra ngoài rượt mau theo anh chàng đi dây xiếc. Gã cất cái giọng khủng khiếp kêu to: "Tiến lên, đồ khập khễnh, tiến lên mau, đồ chậm chạp, nham hiểm, đồ mặt tái xanh vì sợ hãi! Mau lên không thôi ta sẽ thọc lét mi bằng gót chân ta! Mi đang làm gì giữa hai ngọn tháp vậy? Lẽ ra mi phải bị nhốt trong tháp mới đúng; mi đang cản đường một kẻ tài giỏi hơn mi!" - Và cứ dứt mỗi lời gã lại tiến đến gần anh chàng đi dây thêm một tý; nhưng khi gã chỉ còn cách anh chàng đi dây một bước thì xảy ra chuyện khủng khiếp này làm mọi cửa miệng đều câm tiếng và mọi con mắt đều sững sờ: thằng hề rú lên một tiếng kêu quái dị rồi nhảy qua đầu anh chàng đi dây đang cản đường. Khi nhìn thấy kẻ địch mình chiến thắng, anh chàng đi dây điên đầu lảo đảo hụt chân khỏi dây; chàng ta mất thăng bằng và nhanh như chớp, rơi vào hố thẳm, như một cơn lốc xoáy bằng tay chân người. Công trường và đám đông dân chúng tựa như biển cả khi dông tố nổi lên. Mọi người bỏ chạy hỗn loạn, nhất là đúng nơi mà thân xác chàng đi dây sắp rơi xuống.

Trong lúc đó Zarathustra chẳng hề nhích động, và tấm thân ấy rơi đúng ngay cạnh hắn, rách nát, gãy vụn, nhưng hãy còn sống. Một lúc sau, người bị thương định tỉnh lại và nhìn thấy Zarathustra đang quỳ gối gần anh ta; "Ngài làm gì đấy? chàng ta lên tiếng hỏi. Từ lâu tôi biết rằng sẽ có lúc ma quỷ ngáng chân cho tôi ngã. Giờ đây ma quỷ đang lôi tôi về hỏa ngục: ngài muốn cản đường ma quỷ đừng làm thế chăng?"

- Bạn hỡi, tôi xin đem danh dự bảo cùng bạn: tất cả những điều bạn nói đều không có thực; chẳng có ma quỷ, cũng chẳng có hỏa ngục. Linh hồn bạn sẽ chết, còn chết nhanh hơn là thân xác bạn nữa: vậy, bạn chớ sợ hãi bất luận điều gì!"

Chàng đi dây ngước mắt lên nhìn, ngờ vực. Rồi sau đó chàng ta trả lời: "Nếu quả ngài nói thực, tôi chẳng mất mát gì khi mất đi sự sống. Tôi chỉ còn là một con vật mà người ta bắt nhảy múa bằng những nhát roi và những cái miệng ốm o".

- Không đâu, Zarathustra đáp, bạn đã lấy nguy hiểm làm nghề của mình, chuyện đó chẳng có gì đáng khinh cả. Giờ đây nghề nghiệp bạn xô bạn vào cõi chết, vì vậy ta sẽ tự tay mai táng bạn".

Khi Zarathustra dứt lời, kẻ hấp hối không trả lời nữa; nhưng bàn tay chàng ta sờ soạng như muốn tìm bàn tay Zarathustra để tạ ơn.

Trong khi đó, hoàng hôn chậm buông và công trường phủ đầy bóng tối; đám đông tản mát ra về vì ngay cả sự tò mò và sự sợ hãi cũng làm cho họ chán. Nhưng Zarathustra vẫn ngồi trên mặt đất, cạnh xác chết, tâm hồn chìm đắm trong những suy tư: Zarathustra đã quên bẵng thời gian. Sau cùng, đêm xuống và một ngọn gió lạnh thổi qua con người cô đơn. Lúc ấy, Zarathustra mới đứng dậy, tự nhủ lòng mình:

"Ngày hôm nay, thật ra Zarathustra đã đánh được một mẻ cá hời! Zarathustra đã không đánh lưới được người sống, nhưng là một xác chết.

Đời sống con người quả thật lạ lùng và bao giờ cũng tối ư vô nghĩa: một thằng hề cũng có thể trở thành điều bất hạnh giáng lên đầu nó.

Ta muốn giảng dạy cho loài người chiều hướng cùng ý nghĩa của cuộc hiện sinh: đó là Siêu nhân, lằn chớp dữ lóe ra từ đám mây ảm đạm là con người.

Nhưng ta hãy còn xa cách họ và tinh thần ta không nói cùng lương năng họ. Đối với loài người, ta hãy còn đứng giữa một thằng điên và một xác chết.

Đêm tối thật mịt mùng, và mịt mùng là những con đường Zarathustra dấn bước. Hãy đến đây, hỡi người bạn đồng hành cứng đơ giá lạnh! Ta mang bạn đến một nơi mà tự tay ta sẽ mai táng bạn".

Khi Zarathustra đã tự nhủ lòng như thế rồi, hắn vác xác chết trên vai và khởi sự lên đường. Nhưng đi chưa được trăm bước thì có một người lẻn đến bên Zarathustra thì thầm bên tai hắn - kẻ đang thì thầm với hắn lại chính là thằng hề trên tháp! Gã thì thào: "Hỡi Zarathustra! Hãy mau rời khỏi thành phố này vì nơi đây có quá nhiều người thù ghét ngài. Những người thiện hảo và công chính thù ghét ngài, họ gọi ngài là kẻ thù và người khinh miệt họ; những tín đồ của đức tin đích thực thù ghét ngài và gọi ngài là mối nguy hiểm cho đám đông. Ngài hãy còn may là được người ta chế giễu, vì thực sự ngài đã ăn nói như một thằng hề. Ngài hãy còn may vì làm bạn với tên chó chết: khi tự hạ mình như thế, ngài đã tự cứu mình được lần này. Nhưng ngài hãy mau lìa bỏ thành phố - bằng không, ngày mai là người sống, tôi sẽ nhảy qua một xác chết". Sau khi thì thầm như vậy với Zarathustra, thằng hề biến dạng; và Zarathustra tiếp tục hành trình qua những con đường tối ám.

Ở cổng ra vào thành phố, những người phu đào huyệt bắt gặp Zarathustra; họ đưa đuốc soi mặt hắn, và khi nhận ra Zarathustra, họ chế giễu: "Zarathustra mang theo thằng chó chết! Hoan hô, Zarathustra làm kẻ đào huyệt! Vì chúng ta có những bàn tay quá sạch để đào mồ chôn con thịt ấy. Vậy ra Zarathustra muốn ăn trộm thức ăn của quỷ à? Can đảm dữ. Thích thú tợn! Miễn là quỷ sứ đừng ăn trộm khéo hơn Zarathustra! - Quỷ sứ sẽ ăn trộm cả hai người, hắn ta sẽ ngấu thịt cả hai người!" Rồi họ cùng chụm đầu cười vang với nhau.

Zarathustra không thốt một lời, tiếp tục con đường. Sau suốt hai giờ đi dọc theo những khu rừng cùng những đầm lầy, Zarathustra cứ nghe mãi những tiếng chó sói tru rống vì đói mồi đến đỗi cơn đói cũng cào xé chính lòng hắn. Vì vậy, Zarathustra dừng bước trước một căn nhà lẻ loi, bên trong có ánh lửa lập lòe soi chiếu. Zarathustra tự nhủ lòng mình: "Cơn đói bắt chộp lấy ta như một tên cướp. Giữa những khu rừng cùng những đầm lầy, cơn đói bắt chộp lấy ta, trong đêm tối dày đặc mịt mùng.

Cơn đói của ta có những ý thích bốc đồng. Thường ta chỉ thấy đói sau bữa ăn, và suốt ngày hôm nay, cơn đói chẳng chịu đến: vậy thì cơn đói đã lê lết chậm trễ nơi nao?"

Nhủ xong, Zarathustra gõ cửa. Một lão trượng xuất hiện; ông lão mang theo đèn và lên tiếng hỏi: "Ai đến với ta cùng giấc ngủ trằn trọc của ta đó?"

- Một người sống và một kẻ chết, Zarathustra trả lời. Xin lão trượng cho tôi ăn uống; cả ngày nay tôi đã quên ăn uống. Kẻ nào cho người đói khát ăn uống sẽ bồi bổ nguyên khí tâm hồn mình: minh triết khôn ngoan dạy như thế".

Ông lão trở vào nhà, nhưng rồi lại trở ra ngay, và đưa cho Zarathustra bánh cùng rượu: "Đây là một vùng tàn bạo cho những kẻ đói khát, ông lão lên tiếng: vì vậy ta mới cư ngụ tại đây. Người và vật đến với ta, nhà ẩn sĩ. Nhưng ngươi hãy mời người bạn đồng hành của ngươi ăn uống đi chứ, y coi bộ còn mỏi mệt hơn ngươi".

Zarathustra trả lời:

"Bạn đồng hành của tôi đã chết rồi, tôi sẽ khó mà ép y ăn uống".

Ông lão càu nhàu:

"Chuyện đó chẳng liên can gì với ta; kẻ nào gõ cửa nhà ta phải dùng những gì ta dâng mời. Các ngươi hãy ăn uống và chúc các ngươi sức khỏe!"

Sau đó, Zarathustra còn đi bộ thêm hai giờ nữa, dò dẫm theo những con đường và tin vào ánh sáng của những vì sao: vì hắn đã quen đi đêm và thích nhìn tận mặt những gì còn đang say ngủ. Nhưng khi ánh triêu dương ló dạng, Zarathustra thấy mình đang ở trong một khu rừng sâu mịt mùng chung quanh chẳng thấy rõ một lối đi nào. Lúc bấy giờ Zarathustra đặt xác chết vào một thân cây rỗng, cao hơn tầm đầu - hắn muốn lũ chó sói khỏi với tới - rồi ngả người nằm nghỉ trên rong rêu xanh mát. Liền đó, Zarathustra thiếp ngủ, thân thể mệt nhoài, nhưng linh hồn thanh thản.

Zarathustra ngủ thật triền miên, không những ánh triêu dương vờn trên mặt hắn mà cả ánh sáng ban mai. Sau cùng Zarathustra mở mắt: kinh ngạc, Zarathustra ngắm nhìn khu rừng và sự tĩnh mịch, kinh ngạc, Zarathustra nhìn bản thân mình. Rồi như một gã lính thủy đột nhiên nhìn thấy đất liền, hắn vụt đứng dậy, thét lên một tiếng mừng rỡ: hắn vừa nhìn thấy một chân lý mới. Và Zarathustra tự nhủ lòng mình như sau:

"Ta bắt đầu thấy rõ: ta đang cần những người bạn đồng hành, những người bạn đồng hành còn sống - chứ không phải những người bạn đồng hành đã chết và những tử thi mà ta mang theo nơi nào ta muốn tới.

Ta đang cần những người bạn đồng hành còn sống theo bước ta, vì họ muốn tự theo bước chính họ - khắp mọi nơi ta muốn đến.

Ta bắt đầu thấy rõ: Zarathustra chẳng nên ngỏ lời cùng đám đông mà chỉ nên lên tiếng với những người bạn đồng hành! Zarathustra chẳng nên biến thành người chăn chiên và con chó canh giữ một đàn chiên!

Ta đã đến chính là để tách lìa nhiều con chiên khỏi đàn chiên. Đám đông dân chúng và bầy chiên sẽ căm phẫn ta: những kẻ chăn chiên sẽ xem Zarathustra là tên trộm đạo.

Ta gọi họ là những kẻ chăn chiên, nhưng thật ra họ có tên là những con người thiện hảo và những kẻ công chính. Ta gọi họ là những kẻ chăn chiên, nhưng thực ra họ có tên là những tín đồ của đức tin đích thực!

Hãy nhìn những con người thiện hảo và những kẻ công chính! Họ thù ghét kẻ nào nhất? Kẻ đứng lên đập vỡ những bảng giá trị của họ, kẻ hủy hoại, kẻ phạm tội trọng [6]: thế mà, đó là kẻ sáng tạo.

Hãy nhìn những tín đồ của đức tin đích thực! Họ thù ghét kẻ nào nhất? Kẻ đứng lên đập vỡ những bảng giá trị của họ, kẻ hủy hoại, kẻ phạm tội trọng: thế mà, đó là kẻ sáng tạo.

Điều mà kẻ sáng tạo tìm kiếm, chính là những bạn đồng hành, chứ không phải những xác chết, những bầy chiên và những đám tín đồ. Những con người sáng tạo như hắn, đấy chính là điều mà kẻ sáng tạo tìm kiếm - những con người ghi khắc những giá trị mới trên những tấm bảng tinh khôi.

Điều mà kẻ sáng tạo tìm kiếm, chính là những bạn đồng hành, những người thợ gặt để trợ giúp hắn: vì nơi hắn, mọi sự đều chín muồi cho mùa gặt. Nhưng hắn lại thiếu trăm ngàn lưỡi hái: vì thế kẻ sáng tạo giận dữ điên cuồng bứt ra những bông lúa của mình.

Điều mà kẻ sáng tạo tìm kiếm, chính là những bạn đồng hành, những người biết mài sắc lưỡi hái của mình. Người ta sẽ gọi họ là những kẻ phá hoại và những kẻ khinh miệt thiện ác. Nhưng chính họ là những con người sẽ gặt hái và cử hành lễ vui.

Những con người sáng tạo như mình, đấy là điều mà Zarathustra đang tìm kiếm, những con người gặt hái và vui hưởng cùng với mình: nào có làm gì được với những đàn chiên, những kẻ chăn chiên và những xác chết!

Còn ngươi, người bạn đồng hành đầu tiên của ta, xin hãy an nghỉ! Ta đã mai táng ngươi cẩn thận trong lòng cây rỗng, ta đã cẩn trọng đề phòng cho ngươi khỏi bị sói tha.

Nhưng ta rời ngươi đây, thời gian đã trọn rồi. Giữa hai buổi bình minh, một chân lý mới đã hiện đến với ta.

Ta chẳng nên làm người chăn chiên, cũng chẳng nên làm kẻ đào huyệt. Ta sẽ chẳng bao giờ ngỏ lời với dân chúng; đây là lần cuối cùng, ta ngỏ lời với một xác chết. Ta muốn tìm gặp những con người sáng tạo; những con người gặt hái và vui hưởng: ta muốn chỉ cho họ thấy bảy sắc cầu vồng cùng tất cả những bậc thang dẫn đến Siêu nhân.

Ta sẽ ca hát bài ca của ta cho những nhà ẩn sĩ, những con người hai bóng trong cô đơn; và cho bất luận ai còn tai nghe được những điều kỳ diệu, ta sẽ làm tim ta trĩu nặng vĩnh phúc tuyệt vời.

Ta tiến bước về mục tiêu của ta, ta đi trên con đường của ta; ta sẽ nhảy qua đầu những kẻ ngập ngừng do dự và những kẻ trì chậm lối đi. Bước đi của ta sẽ là sự suy tàn của bọn chúng!"

Zarathustra tự nhủ lòng mình như thế, trong khi mặt trời nằm trên thiên đỉnh; rồi hắn ngước mắt nhìn dò hỏi - vì hắn nghe trên đầu mình tiếng kêu sắc lạnh của một con chim. Và kìa! Một con ó lượn thành những vòng tròn rộng trên trời, và một con rắn treo tòn ten nơi cổ ó, không giống như một con mồi nhưng như một người bạn: vì rắn quấn vòng quanh cổ ó.

"Những con thú của ta!" Zarathustra bảo thế và lòng hắn dấy lên nỗi hân hoan êm ả.

"Con vật kiêu hãnh nhất dưới ánh mặt trời và con vật giảo hoạt nhất dưới ánh mặt trời chúng đã lên đường trong sự biết ơn.

Chúng đã muốn biết xem liệu Zarathustra có còn sống không. Thật ra, ta hãy còn sống chăng?

Ta đã gặp nhiều nguy hiểm giữa loài người hơn là giữa loài thú. Zarathustra đang theo những con đường nguy hiểm. Cầu xin những con vật của ta hướng dẫn ta!"

Khi Zarathustra đã nói như thế xong, hắn nhớ lại những lời của vị thánh già nua trong khu rừng, hắn thở dài nhủ với lòng mình như vầy:

"Ta còn phải khôn ngoan trí huệ hơn nữa! Ước gì ta giảo hoạt từ tận đáy lòng, như con rắn của ta.

Nhưng ta đang đòi hỏi điều không thể được: vậy thì ta cầu xin cho lòng kiêu hãnh luôn đi đôi với trí huệ hiền minh của ta.

Và nếu có một ngày nào trí huệ hiền minh bỏ ta: - Hỡi ôi! Nó thích cất cánh tuyệt mù thì ít ra lòng kiêu hãnh cũng tiếp tục tung bay cùng cơn điên của ta!"

Cuộc hạ san của Zarathustra đã bắt đầu như thế.

Chú thích:

[1] và [2] "cuộc hạ san" dịch chữ Untergehen, vốn mang ba ý nghĩa khác nhau mà bản Việt ngữ không chuyển nổi: 1) đi xuống; 2) lặn tắt; 3) bị tàn hoại hủy diệt, đi xuống dưới thấp. Zarathustra hạ san: Zarathustra đi xuống: lặn tắt: sa đọa và bị tàn hoại.

[3] "con người là một sự chuyển tiếp và một sự suy tàn" dịch chữ Ũbergang und Untergang. Tính chất tương phản giữa ũber (bên trên) và unter (bên dưới) hay được Nietzsche sử dụng, cũng không thể diễn tả trong Việt ngữ. Ngoài ra chữ unter và Untergang còn được hiểu theo ba nghĩa của chú thích trang 26.

[4] "con người cuối cùng hay con người hạ đẳng nhất" trong nguyên bản là dertetzte Mensch: con người mạt hậu, xuất hiện sau cùng khi nhân loại bước vào hoàng hôn và đêm tối để chờ đón một bình minh mới. Chữ "hạ đẳng" chỉ tính cách nhố nhăng của mẫu người cuối cùng mà chúng tôi muốn nhấn mạnh.

[5] "Tự ngôn": Vorrede, nếu diễn nghĩa ra, sẽ là: "phần đặt trước (vor) những bài thuyết giáo (Rede)". Sau phần này là những bài thuyết giáo của Zarathustra (die Reden Zarathustras). Một lối chơi chữ không dịch được

[6] "Kẻ đứng lên đập vỡ những bảng giá trị của họ, kẻ hủy hoại, kẻ phạm tội trọng", Nietzsche chơi chữ bằng cách liên kết chữ Brecher (kẻ đập vỡ) với chữ Verbrecher mà ý nghĩa thông thường là: kẻ phạm tội. Verbrecher phân tích ra còn mang ý nghĩa: kẻ-đập-vỡ-lề-luật".

2. Những bài thuyết giáo của Zarathustra về ba cuộc hóa thân

"Ta sẽ thuyết minh cho các ngươi nghe về ba cuộc hóa thân của tinh thần: làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc đà trở thành sư tử, và sau cùng làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ.

Có rất nhiều gánh nặng đối với tinh thần, đối với tinh thần dũng mãnh kiên trì được sự tôn kính khích động: dũng lực của tinh thần ấy đòi hỏi những gánh nặng nặng nề nhất.

Có cái gì nặng nề đâu? Tinh thần can đảm cất tiếng hỏi như thế; rồi nó quỳ gối như con lạc đà và muốn người ta chất thật nặng lên lưng mình.

Hỡi kẻ anh hùng, đâu là gánh nặng nặng nề nhất để cho tôi hất lên mình tôi và để cho sức mạnh của tôi được vui hưởng? - Tinh thần can đảm lên tiếng hỏi như thế.

Há chẳng phải là điều này: tự khiêm tốn nhún nhường để xúc phạm đến lòng kiêu hãnh của mình? Làm hiển lộ cơn điên nơi mình để biến trí huệ hiền minh thành trò cười thiên hạ? Hoặc giả là điều này: từ bỏ chính nghĩa mình đúng vào lúc nó đang xưng vinh sự chiến thắng? Leo lên những đỉnh núi cao để cám dỗ kẻ cám dỗ?

Hoặc giả là điều này: sinh sống bằng những trái dẻ rừng cùng cỏ non của tri thức, và chịu đựng cơn đói cào nát tâm hồn, vì tình yêu chân lý?

Hoặc giả là điều này: ngã bệnh và xua đuổi hết những kẻ an ủi đi, để kết bạn với những người điếc, những người chẳng hề nghe được những gì ngươi muốn nói?

Hoặc giả là điều này: lặn sâu xuống làn nước đục, nếu đó là nước của chân lý, và không xua đuổi những con ếch lạnh cùng những con cóc nóng sốt?

Hoặc giả là điều này: yêu thương kẻ khinh bỉ ta và đưa tay về phía ma quỷ khi ma quỷ muốn làm ta khiếp hãi?

Tinh thần dũng mãnh nhận lãnh tất cả những gánh nặng đó: như con lạc đà vừa được chất hàng xong, vội vã lên đường về sa mạc, tinh thần dũng mãnh cũng vội vã về với sa mạc của đời mình như thế.

Nhưng giữa lòng sa mạc hoang liêu cô độc nhất đã thành tựu cuộc hóa thân thứ nhì: ở đây tinh thần biến thành sư tử, tinh thần muốn chinh phục tự do và làm chủ sa mạc riêng của mình.

Ở đây tinh thần tìm kiếm người chủ cuối cùng của nó: tinh thần muốn làm kẻ thù của người chủ ấy, và làm kẻ thù của vị Thượng đế cuối cùng của mình; để đạt chiến thắng vinh quang, tinh thần muốn chiến đấu với con đại khủng long.

Đâu là con đại khủng long mà tinh thần không còn muốn gọi là Thượng đế hay Chủ nhân nữa? Con đại khủng long ấy là "Mi phải". Nhưng tinh thần của con mãnh sư thì bảo rằng "Ta muốn".

Con đại khủng long "Mi phải" rình dò tinh thần dọc đường, lấp lánh ánh vàng dưới lớp da sừng có muôn ngàn vẩy và trên mỗi vẩy, lóe sáng dòng chữ vàng: "Mi phải".

Những giá trị cổ lỗ ngàn đời lấp lánh sáng trên những chiếc vẩy ấy, và con rồng mạnh nhất trong loài rồng nói như thế này: "Giá trị của tất cả vạn sự đang lấp lánh trên mình ta".

Tất cả giá trị đã được sáng tạo nên, cũng như tất cả những giá trị đang được sáng tạo, đều nằm trong ta. Thực ra, không nên có câu "Ta muốn" nữa! Con đại long ấy nói như thế.

Hỡi những anh em ta, tại sao lại cần đến con mãnh sư của tinh thần? Chúng ta há chẳng có khá đủ loài vật khỏe mạnh vừa có tinh thần khước từ vừa tuân phục hay sao? Sáng tạo nên những giá trị mới; - đó là điều mà ngay cả con mãnh sư cũng chưa làm được; nhưng tự giải phóng mình để tiến đến những sáng tạo mới mẻ, - đấy là điều mà sức mạnh của con mãnh sư có thể làm được.

Tự giải phóng mình, thốt ra tiếng "Không" linh thiêng ngay cả với bổn phận: đấy là nhiệm vụ dành cho con mãnh sư, hỡi những anh em của ta.

Chinh phục quyền sáng tạo những giá trị mới, - đấy là cuộc chinh phục khủng khiếp nhất đối với một tinh thần kiên khổ và đầy lòng tôn kính. Thực ra, đối với tinh thần, đấy là một sự đánh cướp và là hành vi của một con thú săn mồi.

Ngày xưa, tinh thần yêu mến câu "Mi phải" như là điều thiện hảo linh thánh nhất của mình; giờ đây tinh thần phải thấy sự ảo tưởng và độc đoán ngay cả trong điều linh thánh nhất, cốt để tự do giải phóng khỏi tình yêu mến của mình: cần phải có một con mãnh sư cho một cuộc đạo tặc như thế.

Nhưng hỡi các anh em, hãy nói ta nghe, đứa trẻ thơ có thể làm điều gì mà con mãnh sư đã không thể làm được? Tại sao con mãnh sư dữ tợn phải biến thành trẻ thơ?

Trẻ thơ là sự ngây thơ và quên lãng, một sự tái khởi miên viễn, một trò chơi, một bánh xe quay vòng quanh mình, một vận chuyển đầu tiên, một tiếng "Vâng" linh thánh.

Vâng, hỡi các anh em, đối với trò chơi sáng tạo, cần phải có một tiếng "Vâng" linh thánh. Ý chí riêng của chính mình, đấy chính là điều mà hiện giờ tinh thần mong muốn; thế giới riêng của chính mình, đấy là điều mà kẻ đã đánh mất thế giới muốn chiếm được.

Ta đã nêu ra với các anh em ba sự hóa thân của tinh thần: làm thế nào tinh thần trở thành lạc đà, làm thế nào lạc đà biến thành sư tử, và cuối cùng, làm thế nào sư tử trở thành trẻ thơ".

Zarathustra nói như thế. Và vào lúc này, Zarathustra cư ngụ trong thành phố mà người ta gọi là thành phố Con Bò Tạp Sắc.

3. Về những giảng tòa về đức hạnh

Người ta đến khoe với Zarathustra là có một nhà hiền triết thuyết giảng tuyệt vời về giấc ngủ và đức hạnh, do đó được hưởng đầy danh vọng cùng phần thưởng; theo lời thiên hạ thì tất cả thanh niên đều chen nhau ngồi chung quanh giảng tòa nơi ông ta thuyết giảng. Zarathustra đến tịnh thất của nhà hiền triết, rồi cùng với đám thanh niên, Zarathustra ngồi trước giảng tòa. Và nhà hiền triết rao giảng như sau:

"Vinh danh và tôn kính cho giấc ngủ. Giấc ngủ là nguyên lý vạn sự. Các ngươi hãy tránh xa những kẻ trằn trọc không yên hoặc những kẻ canh thức ban đêm!

Ngay cả tên trộm cũng hổ thẹn trước giấc ngủ. Bước chân nhẹ nhàng của kẻ trộm chạy trốn trong đêm tối. Nhưng kẻ canh đêm lại không biết đến nỗi hổ thẹn, hắn nâng tù và lên thổi không chút thẹn thùng.

Biết ngủ, không phải là một chuyện nhỏ nhoi: phải khởi sự bằng cách canh thức tỉnh táo cả ngày.

Mười lần trong ngày, ngươi phải tự vượt thắng chính mình: đó là bằng chứng của sự mệt mỏi tốt lành và đó là thuốc phiện cho tâm hồn.

Mười lần trong ngày, ngươi phải tự hòa giải với chính mình; bởi vì nếu tự vượt thắng mình là chuyện cay đắng, thì kẻ nào không tự hòa giải được sẽ ngủ không yên.

Ngươi phải tìm thấy mười sự thật trong ngày; bằng không, ngươi sẽ tìm kiếm những sự thật trong đêm tối và linh hồn ngươi sẽ vẫn còn đói khát.

Mười lần trong ngày, ngươi phải cười vang hoan hỉ; bằng không, ban đêm ngươi sẽ bị quấy rối bởi bao tử, cha sinh ra nỗi buồn phiền.

Ít người biết được điều đó, nhưng phải biết rõ tất cả những đức hạnh để ngủ ngon. Tôi sẽ làm chứng gian chăng? Tôi sẽ phạm tội ngoại tình chăng?

Tôi sẽ thèm muốn người đầy tớ gái của ông bạn láng giềng chăng? Tất cả những câu hỏi đó đều không phù hợp cho một giấc ngủ ngon.

Và ngay cả khi sở đắc được tất cả mọi đức hạnh, người ta vẫn còn phải tự thỏa hiệp với mình về một điều: cho chính những đức hạnh ấy đi ngủ đúng lúc.

Những người đàn bà xinh xắn dễ thương ấy, ngươi đừng nên để họ cãi cọ nhau! Và lại cãi cọ trên lưng ngươi, hỡi kẻ vô phúc!

Làm hòa với Thượng đế và với đồng loại, đấy chính là điều mà giấc ngủ ngon mong muốn. Và làm hòa cả với ma quỷ của đồng loại ngươi, bằng không nó sẽ đến ám ảnh ngươi lúc ban đêm.

Vinh danh và tuân phục quyền bính, ngay cả thứ quyền bính khập khiễng! Giấc ngủ ngon muốn thế. Có phải lỗi ở ta chăng, nếu quyền bính thích bước đi trên những đôi chân vặn vẹo?

Kẻ nào dẫn bầy chiên của mình đến gặm cỏ trên cánh đồng cỏ xanh tươi nhất bao giờ cũng là kẻ chăn chiên giỏi nhất dưới mắt ta: giấc ngủ ngon muốn như thế.

Ta chẳng hề muốn có nhiều vinh dự, hoặc có nhiều kho tàng vĩ đại: điều đó làm ta tức tối. Nhưng người ta sẽ trằn trọc chẳng yên nếu không có một tên tuổi hoặc một kho tàng nho nhỏ.

Ta thích đón tiếp một nhóm bạn bè nhỏ hơn là một nhóm bạn bè dữ tợn, nhưng họ phải đến và đi cho hợp lúc: giấc ngủ ngon đòi hỏi như thế.

Ta cũng có thích thú lớn lao đối với những kẻ nghèo nàn về tinh thần: họ làm ta dễ ngủ. Nhất là họ sung sướng khi người ta luôn luôn cho họ là có lý.

Ngày trôi qua như thế đối với những người đức hạnh. Khi đêm buông xuống, ta cẩn thận đề phòng không kêu gọi giấc ngủ. Giấc ngủ không muốn được kêu đến, vì giấc ngủ là chủ nhân của tất cả mọi đức hạnh!

Nhưng ta suy nghĩ đến những gì ta đã làm hay đã nghĩ trong ngày. Trong khi kiên nhẫn nhai lại như một con bò, ta tự hỏi mình: Vậy đâu là mười lần mi tự chiến thắng chính bản thân mi?

Và đâu là mười lần hòa giải, và mười sự thực, và mười chuỗi cười làm lòng mi thỏa thích?

Trong khi ta trầm tư điều đó, trí óc được nhẹ nhàng ru theo bốn mươi tư tưởng, thì đột nhiên giấc ngủ xâm chiếm ta, giấc ngủ mà ta chẳng hề kêu gọi đến, chủ nhân của những đức hạnh.

Giấc ngủ đập vào mắt ta: mắt ta trĩu nặng. Giấc ngủ chạm vào môi ta, và môi ta cứ mở rộng.

Thực ra, bằng những bước chân nhẹ nhàng mây khói, giấc ngủ lẻn vào trong ta, tên trộm mà ta ưa thích, và đánh cắp những tư tưởng của ta: ta sững sờ câm lặng như chiếc giá viết kia.

Nhưng ta không đứng thẳng được lâu; ta đã nằm duỗi ra rồi".

Khi Zarathustra nghe nhà hiền triết nói như thế, hắn cười thầm trong lòng, vì một nguồn ánh sáng đã trỗi lên trong hắn. Và hắn tự nhủ lòng mình như sau:

"Ta thấy nhà hiền triết này điên rồ với bốn mươi tư tưởng của ông ta: nhưng ta sẵn lòng tin rằng ông ta thực tuyệt vời trong giấc ngủ.

Hạnh phúc thay cho những kẻ nào sống gần nhà hiền triết ấy! Một giấc ngủ ngon lành như thế dễ truyền lan, dẫu có phải xuyên qua một bức tường dày.

Lại có cả một vẻ quyến rũ toát ra từ giảng tòa của ông ấy. Và không phải là điều vô ích khi những người thanh niên đến ngồi chung quanh con người rao giảng đức hạnh đó. Minh triết của ông ta bảo rằng: hãy canh thức tỉnh táo để ngủ ngon. Và thực ra, nếu cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì và nếu ta phải chọn một điều phi lý, ta thấy rằng điều phi lý đó xứng đáng nhất cho sự lựa chọn của ta.

Giờ đây, ta hiểu rõ điều mà xưa kia người ta tìm kiếm trước tất cả mọi sự, khi họ tìm kiếm những bậc thầy của đức hạnh. Họ đi tìm kiếm một giấc ngủ ngon cùng những đức hạnh được phủ bởi những cây thuốc phiện!

Đối với tất cả những nhà hiền triết được trọng vọng xiển dương tột độ trên những giảng tòa kia, minh triết hay sự khôn ngoan chính là giấc ngủ ngon không mộng mị: họ không biết đến ý nghĩa nào cao cả hơn của đời sống.

Ngay cả hôm nay cũng vẫn còn vài người thuộc dòng dõi kẻ thuyết giáo về đức hạnh kia, và họ không luôn luôn chính trực như ông ta: nhưng mà thời của họ đã qua rồi. Vì vậy họ sẽ không đứng được lâu: kìa, họ đã nằm dài xuống.

Hạnh phúc thay những kẻ đang mơ màng này: vì chẳng bao lâu họ sẽ ngủ thiếp đi".

4. Về những người nuôi ảo tưởng thế giới bên kia

Ngày xưa, Zarathustra cũng đã phóng chiếu ảo tưởng của mình bên kia con người, giống như tất cả những kẻ nuôi ảo giác về cõi-bên-kia [1]. Lúc ấy, Zarathustra đã xem thế giới như là công trình của một vị Thượng đế khổ đau quằn quại.

"Trước đây thế giới đã xuất hiện với ta như là giấc mộng và sự phát minh của một đấng Thượng đế: tương tự những hương khói muôn màu trước đôi mắt của một viên bốc sư bất mãn.

Thiện, ác, và Hân hoan và Thống khổ, và Tôi và Anh, - tất cả đối với ta lúc ấy đều là những hương khói muôn màu trước mắt một đấng sáng tạo. Đấng sáng tạo đã muốn đừng nhìn chính mình nữa, - và lúc bấy giờ, ngài sáng tạo ra thế giới.

Đối với kẻ đang chịu đựng thống khổ, quả là một niềm vui ngây ngất khi được rời mắt khỏi nỗi khổ đau và được tự quên lãng mình. Niềm hoan lạc ngất ngây và sự tự lãng quên mình: có một lúc thế giới đã xuất hiện với ta như thế đó.

Cái thế giới vĩnh viễn bất toàn này, hình ảnh bất toàn của một mối mâu thuẫn ngàn thu một nỗi hoan lạc say đắm đối với đấng sáng tạo bất toàn của nó: có một lúc thế giới đã xuất hiện với ta như thế đó.

Vì vậy, cả ta nữa, ta cũng đã phóng chiếu ảo tưởng của mình vượt quá bên kia loài người, giống hệt như tất cả mọi kẻ nuôi ảo giác về cõi-bên-kia. Mà thực ra, có phải là bên kia con người chăng?

Than ôi! Hỡi các anh em, vị Thượng đế mà ta đã sáng tạo ra là công trình của con người và là sự điên cuồng của con người, tương tự như tất cả những đấng Thượng đế thần linh khác.

Vị Thượng đế đó chỉ là con người, là mảnh vụn thảm thương của một con người và một "Ngã thể": vị Thượng đế hình ma bóng quế ấy xuất sinh từ mớ tro lạnh và từ lò than hồng của chính ta. Thực ra, vị Thượng đế ấy không đến với ta từ cõi-bên-kia!

Hỡi các anh em, lúc bấy giờ sự gì đã xảy đến cho ta? Ta, kẻ đang thống khổ, ta tự vượt bỏ mình, ta mang mớ tro tàn hương lạnh của ta về miền núi cao, ta phát minh cho chính ta một ngọn lửa rực rỡ hơn. Và nhìn kia! Bóng ma đã tan thành mây khói.

Đối với ta, kẻ đã bình phục, giờ đây mà còn tin vào những hình ma bóng quế như thế nữa là cả một điều đau khổ sỉ nhục. Ta muốn nói với những kẻ nuôi ảo giác về cõi-bên-kia như thế.

Đau khổ và bất lực, - đấy là cái đã tạo nên những cõi-bên-kia, tạo nên cơn điên cuồng ngắn ngủi mà duy kẻ chịu đựng thống khổ ngất trời mới biết đến.

Sự mỏi mệt muốn, chỉ bằng một cái nhảy, đặt chân đến tận những miền biên viễn, một cú nhảy trí mạng [2], sự mỏi mệt nghèo nàn ngu dốt đó lại còn chẳng muốn ước muốn nữa: chính sự mỏi mệt đó đã tạo nên tất cả những vị Thượng đế thần linh cùng tất cả những cõi-bên-kia.

Hãy tin ta, hỡi các anh em! Chính thân xác đã tuyệt vọng về thân xác, - bằng những ngón tay của tinh thần lạc lối, thân xác đó đã sờ soạng dọc theo những thành lũy tối cao.

Hãy tin ta, hỡi các anh em! Chính thân xác đã tuyệt vọng về mặt đất, - thân xác đã nghe những ruột rà của Thực thể lên tiếng.

Vì thế, thân xác mới muốn thò đầu qua những bức tường tối cao, và chẳng những thò đầu qua mà thôi [3] nó còn muốn đi vào trong "thế giới khác".

Nhưng cái "thế giới khác" đó lại né tránh con người, cái thế giới bị giảm thiểu và phi nhân đó thực ra chỉ là một cõi trời Hư không; và những ruột rà của Thực thể không lên tiếng với con người, nếu không phải là bằng giọng nói của con người.

Thực ra, khó mà chứng minh Thực thể và khó mà bắt Thực thể phải lên tiếng. Hỡi các anh em! Hãy nói cho ta biết, anh em há chẳng thấy là những sự vật đặc thù kỳ diệu nhất lại được chứng minh rõ ràng hơn sao?

Vâng, cái Ngã thể đó, - với tình trạng mâu thuẫn hỗn loạn mơ hồ của nó đã xác quyết sự hiện hữu của mình một cách chân thực nhất - cái Ngã thể đứng ra sáng tạo, ước muốn, định giá, ban bố tiêu chuẩn và giá trị cho mọi vật.

Và cái Ngã thể này, cái Thực thể chân thực nhất, nói về thân xác và lại còn ước muốn thân xác nữa, ngay cả khi Ngã thể ấy mơ mộng, lang thang và chớp cánh bay với đôi cánh gãy.

Cái Ngã thể ấy học cách để luôn luôn lên tiếng một cách chân thực hơn: càng học hỏi, Ngã thể ấy càng tìm thấy những tiếng nói dành ngợi ca thân xác và mặt đất.

Ngã thể của ta đã dạy cho ta một niềm kiêu hãnh mới, giờ ta đem giảng dạy cho loài người: đừng nên vùi đầu mình vào trong đống cát những sự vật thiên đình nữa, nhưng phải biết kiêu hãnh mang lấy đầu mình, một cái đầu trần thế đứng ra sáng tạo những ý nghĩa cho mặt đất trần gian!

Ta rao dạy cho loài người một ý chí mới: hãy ước muốn con đường này, con đường mà loài người đã theo đuổi một cách mù quáng, hãy tán thành con đường này và đừng nên lánh xa nó bằng cách lê lết sát đất, như những người bệnh cùng những kẻ hấp hối!

Chính những người bệnh cùng những kẻ hấp hối đã khinh bỉ thân xác và mặt đất, đã tạo ra những sự vật thiên đình cùng những giọt máu cứu thế. Nhưng, những chất thuốc độc dịu ngọt sầu thảm đó, bọn chúng lại cũng đã vay mượn từ thân xác và mặt đất!

Chúng muốn thoát khỏi sự khốn khổ lầm than của chúng, và chúng nhìn thấy những ngôi sao lóng lánh quá xa mình. Vì thế chúng thở dài: "Than ôi! Giá gì có những con đường thiên giới để chúng ta có thể bò lết vào một Thực thể khác, một hạnh phúc khác!" - Rồi chúng bày đặt ra những điều giả tạo và những thức uống đẫm máu của chúng!

Những tên bội bạc vong ân đó, chúng tưởng rằng đã được giải phóng khỏi thân xác và mặt đất này. Nhưng cơn động kinh và nỗi vui thú mê ly ấy, chúng có được nhờ đâu? Nhờ thân xác chúng và nhờ mặt đất này.

Zarathustra là người có lòng khoan thứ đối với các bệnh nhân. Thực ra, Zarathustra chẳng hề nổi giận về cách thức tự an ủi hay về sự bội bạc của họ. Cầu cho họ chóng hồi phục, tự vượt thắng mình và tự tạo cho mình một thân xác thượng đẳng hơn.

Zarathustra cũng chẳng nổi giận đối với người đang thời hồi phục đưa mắt trìu mến nhìn về ảo tưởng xa xưa và giữa đêm khuya đi lang thang quanh ngôi mộ chôn vị Thượng đế của mình: nhưng ngay cả những giọt lệ của y hãy còn là bệnh hoạn và hư nhược.

Bao giờ cũng có nhiều người bệnh hoạn trong số những kẻ đang mơ mộng và khát vọng Thượng đế; họ cuồng nộ thù ghét kẻ đạt được tuệ giác, họ thù ghét thứ đức hạnh trẻ trung nhất có tên là: chính trực.

Họ luôn luôn nhìn lại đằng sau về các thời đại tối tăm mù mịt: quả thực lúc bấy giờ cơn điên và đức tin là chuyện khác. Cơn điên cuồng của lý trí đã xuất hiện dưới hình ảnh của Thượng đế, và thời ấy, hồ nghi là tội lỗi.

Ta biết quá rõ những kẻ giống với Thượng đế: chúng muốn rằng thiên hạ tin nơi chúng và hoài nghi là một tội trọng. Nhưng ta biết quá rõ chúng tin tưởng vào điều gì hơn cả. Thực ra, chúng không tin vào những cõi-bên-kia cùng những giọt máu cứu thế: chính chúng cũng tin vào thân xác nhiều hơn và chính thân xác chúng là cái được chúng xem là sự vật tự nội.

Nhưng đối với bọn chúng, thân xác là một điều bệnh hoạn: và chúng sẽ sẵn lòng thoát ra khỏi xác thịt mình. Chính vì thế chúng mới lắng nghe những kẻ thuyết giáo về sự chết, và chính chúng cũng thuyết giảng về những cõi-bên-kia.

Hỡi các anh em! Nên lắng nghe tiếng nói của thân xác lành mạnh: đó là một tiếng nói chân thực hơn và thuần khiết hơn.

Thân xác lành mạnh lên tiếng một cách chân thực hơn, thuần khiết hơn, thân xác toàn vẹn, đứng thẳng: thân xác ấy nói về ý nghĩa của mặt đất trần gian".

Zarathustra đã nói như thế.

Chú thích:

[1] "những người nuôi ảo tưởng thế-giới-bên-kia" hay "những kẻ nuôi ảo giác về cõi-bên-kia" dịch chữ Hinterweltler, một chữ do Nietzsche bày đặt ra, để gợi nhớ tới chữ Hinterwãldler: kẻ dị hình, kỳ quái.

[2] "một cú nhảy trí mạng", có thể Nietzsche nhằm bác bỏ quan điểm của triết gia Đan Mạch Sõren Kierkegaard (1813-1855), chủ trương con người cần phải thực hiện một "bước nhảy" từ tình trạng vô tín đến tình trạng tín ngưỡng.

[3] "thân xác muốn thò đầu qua những bức tường tối cao" diễn dịch thành ngữ Mit dem Kopfe durch die Wand wollen, có nghĩa chính là "chạy ào đến mọi vật".

5. Về những kẻ khinh miệt thân xác

Ta muốn nói với những kẻ khinh miệt thân xác về hành vi của họ. Họ không cần phải thay đổi phương pháp giảng dạy, nhưng họ chỉ nên từ giã chính thân xác mình, - và như thế là trở thành câm tiếng.

"Tôi là xác và hồn", đứa trẻ nói như thế. Và tại sao người ta lại không nói như những đứa trẻ?

Nhưng kẻ nào đã thức tỉnh và có ý thức lại bảo: "Tôi hoàn toàn là thân xác và chỉ là thân xác; linh hồn chỉ là một chữ dùng chỉ một phần của thân xác".

Thân xác là một lý lẽ trọng đại, một phức thể với một ý nghĩa, một cuộc chiến tranh và một tình trạng hòa bình, một đàn cừu và một kẻ chăn chiên.

Hỡi người anh em, cả cái lý trí nhỏ bé của ngươi mà ngươi gọi là "tinh thần" cũng là khí cụ của thân xác ngươi, một khí cụ nhỏ bé và một món đồ chơi cho cái lý lẽ trọng đại của ngươi.

Ngươi nói lên tiếng "tôi" và ngươi hãnh diện với tiếng đó. Nhưng còn cái cao đại hơn, cái mà ngươi không muốn tin, chính là thân xác ngươi và lý lẽ trọng đại của ngươi: thân xác ấy không nói "tôi" nhưng nó là tôi trong khi hành động.

Những gì mà các giác quan cảm nghiệm, những gì mà tinh thần truy nhận, đều chẳng hề có cứu cánh tự thân. Nhưng các giác quan và tinh thần lại muốn thuyết phục cho ngươi tin rằng chúng là cứu cánh của vạn sự; đấy là tính tự phụ tự kiêu của chúng.

Giác quan và tinh thần chỉ là những khí cụ và những món đồ chơi: đằng sau chúng, hãy còn có Tự ngã. Cả Tự ngã nữa, cũng tìm kiếm với đôi tai của tinh thần.

Tự ngã luôn luôn lắng nghe và tìm kiếm: Tự ngã so sánh, đối chiếu, khuất phục, phá hoại. Tự ngã ngự trị, và Tự ngã cũng là chủ nhân của bản ngã.

Hỡi người anh em, đằng sau những tư tưởng và tình cảm của ngươi, còn có một vị chủ nhân mạnh mẽ hơn, một nhà hiền triết vô danh - đó là Tự ngã. Tự ngã cư ngụ thân xác ngươi, Tự ngã chính là thân xác ngươi.

Có nhiều lý lẽ trong thân xác ngươi hơn là trong trí huệ cao tột nhất của ngươi. Và ai biết rõ vì sao thân xác ngươi lại cần đúng đến trí huệ cao tột của ngươi?

Tự ngã ngươi cười mũi vào bản ngã ngươi cùng những bước nhảy vọt đầy ham hố của bản ngã. Tự ngã bảo: "Những đà phấn khích hưng khởi đó của tư tưởng là cái gì vậy? Một chỗ rẽ về với mục đích ta. Ta là mép dải buộc vào bản ngã và là người nhắc vở cho những ý tưởng của bản ngã".

Tự ngã bảo bản ngã: "Bây giờ, ngươi đau khổ đi!" Và bản ngã đau khổ và tự hỏi làm thế nào để có thể không đau khổ nữa - và cứu cánh ấy là cái mà bản ngã phải suy tưởng đến.

Tự ngã bảo bản ngã: "Bây giờ, ngươi vui sướng đi!" Và bản ngã vui sướng và mơ màng nghĩ đến chuyện được triền miên vui sướng nữa trong tương lai - và cứu cánh ấy là cái mà bản ngã phải suy tưởng đến.

Ta muốn nói một lời cùng những kẻ khinh miệt thân xác. Rằng họ cứ khinh miệt đi, vì chính đó là điều tỏ lòng tôn trọng thân xác của họ. Vậy chứ cái gì đã tạo ra lòng tôn trọng và sự khinh bỉ và giá trị và ý chí?

Chính Tự ngã sáng tạo đã tạo ra cho chính mình cả lòng tôn trọng lẫn sự khinh bỉ, chính Tự ngã đã tạo ra hoan lạc và thống khổ. Thân xác sáng tạo đã tạo ra cho chính nó tinh thần, xem như là một bàn tay của ý chí thân xác.

Hỡi những kẻ khinh miệt thân xác, ngay cả trong cơn điên rồ và trong sự khinh bỉ của các ngươi, các ngươi cũng đang phụng sự cho Tự ngã mình. Ta nói thật cùng các ngươi điều này: chính Tự ngã các ngươi đang muốn chết và quay mặt khỏi đời sống.

Tự ngã ấy không còn có khả năng thực hiện những gì nó ưa thích: - sáng tạo vượt quá chính mình. Vì chính sự sáng tạo là điều mà Tự ngã khát vọng trước tất cả mọi sự, đó là ước nguyện nồng cháy nhất của Tự ngã.

Nhưng giờ đây, đã quá muộn cho chuyện đó: - vì thế Tự ngã các ngươi muốn biến mất dạng, hỡi những người khinh miệt thân xác!

Tự ngã các ngươi muốn biến mất dạng, và chính vì thế các ngươi đã trở thành những kẻ khinh miệt thân xác! Bởi vì các ngươi không còn khả năng để sáng tạo vượt quá bản thân mình nữa.

Chính vì thế các ngươi mới phẫn nộ với cuộc sống và mặt đất. Có một sự đố kỵ vô thức trong cái nhìn ám muội của lòng khinh bỉ nơi các ngươi.

Ta không bước theo con đường của các ngươi đâu, hỡi những kẻ khinh miệt thân xác! Đối với ta, các ngươi tuyệt chẳng phải là những chiếc cầu dẫn đến Siêu nhân.

6. Về những hoan lạc và đam mê

Hỡi người anh em, khi ngươi có được một đức hạnh, và đức hạnh này là của riêng ngươi, thì ngươi không có chung đức hạnh ấy với bất cứ người nào.

Quả thực ngươi hết sức muốn gọi tên đức hạnh ấy ra và vuốt ve nó; ngươi muốn nắm vào tai nó để tin chắc là nó có thực.

Và này đây, ngươi đem chia sẻ cùng đám đông dân chúng cái tên ngươi ban cho đức hạnh ấy, và ngươi đã trở thành đám đông và bầy cừu với đức hạnh của ngươi!

Tốt hơn ngươi nên nói: "Cái đang tạo thành nỗi dằn vặt cũng như sự ngọt ngào của tâm hồn tôi là điều bất khả ngôn, cái đang gây nên cơn đói cho những ruột rà của tôi thì không có tên gọi".

Đức hạnh của ngươi phải quá sức cao vời đối với sự quen thuộc của những định danh: bởi vì nếu bó buộc phải nói đến đức hạnh ấy, ngươi đừng hổ thẹn phải bập bẹ không thành lời.

Hãy nói lên và ấp a ấp úng: "Đây là điều thiện hảo mà tôi yêu thích, chính nó làm tôi hài lòng như thế, và chỉ như thế tôi mới ước muốn sự thiện hảo.

Tôi chẳng ước muốn điều thiện đó như giới răn của một vị Thượng đế, cũng chẳng phải như một định luật, một tính chất tất yếu của con người: tôi muốn nó chẳng phải là một người chỉ dẫn về với những miền đất siêu việt cùng những cõi thiên đàng.

Điều tôi yêu thích, là một đức hạnh trần thế: trong đức hạnh trần thế, có rất ít trí tuệ và càng ít lương thức thông thường hơn nữa.

Nhưng con chim này đã làm tổ gần tôi: chính vì thế tôi trìu mến thương yêu nó, - này đây, chim đang đẻ ra những quả trứng vàng nơi nhà tôi".

Ngươi phải bập bẹ khen tụng đức hạnh của ngươi như thế.

Xưa kia, ngươi đã mang giữ những đam mê và ngươi gọi đó là những điều xấu ác. Nhưng giờ đây, ngươi chỉ còn lại những đức hạnh của mình: những đức hạnh đó phát sinh từ những đam mê cuồng nhiệt trong tâm hồn ngươi.

Ngươi đã đặt cứu cánh tối thượng của ngươi vào giữa lòng những đam mê cuồng dại này: chúng đã trở thành những đức hạnh và những hoan lạc cho ngươi.

Dẫu ngươi có thuộc nòi những người hay giận dữ, hoặc những kẻ ham khoái lạc, những tín đồ nhiệt tín hay những kẻ hằn thù:

Thì tất cả những nỗi đam mê của ngươi rốt lại cũng trở thành những đức hạnh, tất cả những ma quỷ của ngươi đều biến thành những thiên thần rạng rỡ.

Xưa kia, ngươi nuôi những con chó dại trong hầm: nhưng rốt cuộc chúng đã hóa thành những con chim hiền và những ca nhân khả ái.

Ngươi đã chế thứ thuốc làm dịu cơn đau với những độc dược; ngươi vắt sữa nơi con bò Ảo não, - giờ này, ngươi đang uống dòng sữa ngọt chảy ra từ đôi vú mọng căng của nó.

Và chẳng điều gì xấu ác phát sinh từ ngươi nữa, ngoài điều xấu ác phát sinh từ cuộc chiến đấu giữa những đức hạnh của ngươi.

Hỡi người anh em, khi ngươi có được hạnh phúc, ấy là vì ngươi có được một đức hạnh và chẳng có gì hơn: như thế ngươi vượt qua cầu đến bờ bên kia dễ dàng hơn.

Có được nhiều đức hạnh, là một điều vô cùng cao nhã, nhưng là một số phận rất nặng nề; đã có nhiều người bỏ đi vào trong sa mạc và bị giết chết vì họ đã chán nản mệt mỏi khi cứ phải làm bãi chiến trường cho những đức hạnh.

Hỡi người anh em, chiến tranh và những trận chiến có phải là những điều xấu ác chăng? Đấy là những điều xấu ác cần thiết; lòng đố kỵ, sự hồ nghi và nhục mạ cũng có một chỗ đứng cần thiết giữa những đức hạnh của ngươi.

Hãy nhìn xem mỗi một đức hạnh của ngươi đều khát vọng đến cái gì cao viễn nhất: đức hạnh ấy khát vọng tinh thần ngươi là kẻ truyền lệnh cho nó, đức hạnh ấy ước muốn tất cả sức mạnh của ngươi trong cơn cuồng nộ, thù hận và thương yêu.

Mỗi một đức hạnh đều ganh tị với đức hạnh khác và sự ganh tị là một điều khủng khiếp. Ngay cả những đức hạnh cũng có thể hoại vong vì ganh tị.

Kẻ nào bị vây bọc trong ngọn lửa ganh tị, tương tự như con bọ cạp cuối cùng sẽ quay nọc độc tự chích lấy mình.

Hỡi ôi! Người anh em của ta, ngươi chưa bao giờ thấy một đức hạnh tự nhục mạ và tự xuyên thủng chính mình bao giờ sao?

Con người là một cái gì cần phải bị vượt bỏ: chính vì thế ngươi phải yêu những đức hạnh của ngươi - bởi lẽ ngươi sẽ diệt vong vì chúng.

7. Về người tội nhân mặt mét

Hỡi những pháp quan cùng những thầy tư tế, các ngươi chẳng muốn giết trước khi con vật lắc đầu à? Nhìn kìa, kẻ tội nhân mặt mét đã lắc đầu: trong đôi mắt đó lộ rõ niềm khinh bỉ mênh mông.

"Bản ngã của ta là một cái gì phải bị vượt bỏ: bản ngã của ta chính là nỗi khinh bỉ mênh mông đối với loài người". Đôi mắt hắn nói lên như thế.

Đấy là giây phút tối thượng của hắn, giây phút hắn tự phán xử chính mình: các ngươi đừng để kẻ cao trọng rơi trở xuống cõi thấp hèn!

Đối với kẻ đau khổ về chính mình đến mức độ ấy, tuyệt đối chẳng có sự cứu rỗi nào dành cho hắn, trừ phi là cái chết nhanh chóng.

Hỡi những pháp quan! Tội giết người của các ngươi phải là lòng thương xót chứ đừng là sự trả thù. Và khi giết người, các ngươi hãy làm thế nào để tự mình biện chính cho sự sống!

Hòa giải với kẻ mà các ngươi tuyên án tử là điều không đủ. Nỗi buồn của các ngươi phải là tình yêu dành cho Siêu nhân: chỉ như thế các ngươi mới tự biện chính cho sự kiện các ngươi còn tiếp tục sống.

Hãy nói "kẻ thù", chứ đừng nói "người gian ác"; hãy nói "bệnh hoạn", chứ đừng nói "người ti tiện"; hãy nói "kẻ điên rồ", chứ đừng nói "kẻ phạm tội".

Và ngươi, viên pháp quan áo đỏ, nếu ngươi muốn lớn tiếng nói lên những gì ngươi đã làm trong tư tưởng, thời mọi người sẽ hét lên: "Hãy loại trừ đồ ti tiện và con rắn độc ấy đi!"

Nhưng tư tưởng là một chuyện, hành động là một chuyện, và hình ảnh của hành động lại là một chuyện khác. Bánh xe nhân quả không lăn tròn giữa những chuyện khác nhau đó.

Đó là một hình ảnh đã làm xanh mét người tội phạm xanh xao. Y đã đồng đẳng với hành vi của mình khi y phạm tội. Nhưng y lại không chịu đựng nổi hình ảnh đó sau khi đã phạm tội.

Y luôn luôn tự thấy mình như là tác giả của một hành vi duy nhất. Ta gọi đó là sự thác loạn tinh thần, bởi vì một trường hợp ngoại lệ lại đã trở thành quy phạm cho thực thể y.

Con đường vạch sẵn thôi miên lôi cuốn trái bóng; hành động tội ác mà người tội đồ phạm phải đã lôi cuốn thôi miên cái lý trí khốn khổ của y. Ta gọi tình trạng này là "cơn điên sau khi hành động".

Hãy nghe đây, hỡi những pháp quan! Hãy còn có một cơn điên khác nữa; và cơn điên này diễn ra trước lúc hành động. Hỡi ôi! Các ngươi đã chẳng dò tìm cho đủ sâu xa tấm linh hồn ấy!

Vị pháp quan áo đỏ nói như thế này: "Tại sao tên tội phạm này đã giết người? - Để đánh cắp". Nhưng ta bảo cho các ngươi biết: linh hồn của y thèm muốn máu tươi chứ chẳng hề khát khao đánh cắp: y đã khát khao hạnh phúc của lưỡi dao trần.

Thế nhưng, lý trí khốn khổ của y lại chẳng hiểu được cơn điên này và chính lý trí đó đã giúp kẻ sát nhân quyết định. Lý trí ấy bảo: "Máu tươi thì có ăn nhằm gì! Ít ra mi há không muốn lợi dụng tội ngươi để đánh cắp hay để trả thù sao?"

Và y đã nghe theo lý trí khốn khổ của mình: lời lẽ của lý trí đè nặng như chì, - lúc bấy giờ, y đánh cắp, sau khi đã giết chết nạn nhân. Y không muốn hổ thẹn vì cơn điên của mình.

Và này đây, khối chì của tội lỗi y hãy còn trĩu nặng trên người y, lại một lần nữa, lý trí khốn khổ của y cứng đọng và tê liệt.

Nếu ít ra y có thể lúc lắc chiếc đầu, thời gánh nặng của y sẽ rơi tuột xuống: nhưng ai có thể lúc lắc chiếc đầu này?

Con người đó là gì? Là một đống những bệnh hoạn được tinh thần dàn bày ra trên thế giới bên ngoài: chính thế giới bên ngoài là nơi mà những bệnh hoạn ấy muốn thâu đạt chiến lợi phẩm.

Con người đó là gì? Một chiếc gút thắt đan bằng những con rắn dài, hiếm khi sống thanh thỏa với nhau, - vì thế mỗi con tự tiện phóng đi về phương mình muốn, để tìm lấy chiến lợi phẩm từ thế giới.

Hãy nhìn tấm thân khốn khổ ấy! Những đau đớn cùng những dục vọng của nó, linh hồn đáng thương của nó đã cố gắng giải thích chúng, - linh hồn ấy tưởng rằng chúng là ham muốn giết người và lòng thèm muốn đạt được hạnh phúc của lưỡi dao.

Kẻ nào ngã bệnh ngày hôm nay sẽ rơi vào điều xấu ác thuộc về ngày hôm nay: hắn muốn làm kẻ khác đau khổ bằng cái từng làm cho hắn thống khổ. Nhưng trước kia, đã có một thời đại khác, một sự thiện và một sự ác khác.

Ngày xưa, lòng hoài nghi và ý chí muốn là chính mình là những tội ác. Lúc bấy giờ những người bệnh trở thành kẻ tà đạo hay phù thủy; hắn đau khổ và muốn làm cho kẻ khác đau khổ, với tư cách là kẻ tà đạo hay phù thủy.

Nhưng điều đó không lọt được vào tai các ngươi: Nó sẽ có thể gây hại cho những kẻ thiện hảo trong số các ngươi, các ngươi sẽ bảo thế. Nhưng ta có sá gì đến những kẻ thiện hảo của các ngươi!

Nơi những kẻ thiện hảo của các ngươi, có rất nhiều điều làm ta kinh tởm, và chắc chắn đó không phải là sự xấu ác nơi họ. Ta ước muốn họ có được một cơn điên làm họ diệt vong, như kẻ tội nhân mặt xanh mét này.

Thực lòng, ta muốn rằng cơn điên của họ có tên là chân lý, hoặc lòng chung thủy, hoặc sự công chính: nhưng họ chỉ có độc đức hạnh của họ để sống lâu, trong một sự tự mãn lầm than.

Ta là chiếc lan can nằm dọc ven sông: kẻ nào có thể nắm được ta thời cứ việc nắm! Nhưng ta không phải là vật nương tựa cho các ngươi.

8. Về đọc và viết

Trong tất cả những thứ được viết ra, ta chỉ yêu những gì được tác giả viết bằng máu của chính mình. Ngươi viết bằng máu đi, rồi ngươi sẽ biết được rằng máu chính là tinh thần.

Hiểu một dòng máu xa lạ không phải là điều dễ: ta thù ghét tất cả những kẻ vô công rồi nghề ngồi đọc sách.

Kẻ nào đã biết rõ độc giả thì sẽ chẳng làm gì cho người độc giả nữa. Hãy còn cả một thế kỷ độc giả nữa, - và chính tinh thần cũng sẽ bốc mùi hôi thối.

Dành cho mọi người quyền học đọc, rốt cuộc lại làm hại đến chẳng những là văn tự, nhưng cả tư tưởng nữa.

Xưa kia, tinh thần là Thượng đế, rồi tinh thần trở thành người, rồi bây giờ nó hóa thân thành đám tiện dân.

Kẻ nào dùng máu mình để viết những châm ngôn đều không muốn được đọc đến, nhưng muốn được học thuộc lòng.

Trên miền núi cao, con đường ngắn nhất là con đường dẫn từ đỉnh này sang đỉnh kia; nhưng muốn theo con đường ấy, ngươi phải có đôi chân vạn dặm. Những châm ngôn phải là những đỉnh cao, vì những kẻ mà ta ngỏ lời phải là những con người cao đại tráng kiện.

Không khí nhẹ nhàng thanh khiết, mối nguy hiểm gần kề và tinh thần tràn đầy một vẻ hung bạo vui tươi, đấy là những gì thích hợp.

Ta muốn chung quanh ta có những yêu ma quỷ quái, vì ta là người can đảm. Lòng can đảm đuổi xa những ma quỷ và tự tạo cho mình những yêu ma quỷ quái, - lòng can đảm ước muốn được cười.

Ta không còn cảm thấy như ngươi nữa. Đám mây mà ngươi nhìn thấy trên đầu ta, tấm màn đen tối nặng nề mà ta cười nhạo, - lại là đám mây mang dông bão đối với ngươi.

Các ngươi nhìn lên cao khi các ngươi khát vọng sự thăng tiến. Còn ta, ta cúi nhìn xuống thấp bởi vì ta đã lên đến chốn cao vời mù tuyệt.

Ai trong các ngươi có thể cười ngất khi được ở trên những đỉnh cao?

Kẻ nào đã leo những ngọn núi cao nhất đều bật cười về tất cả những bi kịch giả tạo hay có thực.

Vô tư lự, giễu cợt, tàn bạo, - đấy là những gì mà trí huệ hiền minh đòi hỏi nơi ta: trí huệ hiền minh là phụ nữ và chỉ có thể yêu những chiến sĩ.

Các ngươi bảo ta: "Cuộc đời thật là kiên khổ khi phải mang theo". Nhưng tại sao buổi sáng ngươi lại kiêu hãnh và buổi chiều ngươi lại cúi đầu khuất phục?

Cuộc đời thật kiên khổ khi ta phải mang theo: nhưng các ngươi đừng có cái bộ điệu trìu mến dịu dàng thế kia! Tất cả chúng ta đều là những con lừa đực và lừa cái trên lưng mang đầy gánh nặng.

Chúng ta có chung điều gì với nụ hồng đang run rẩy vì một giọt sương trĩu nặng?

Quả thực chúng ta yêu thương cuộc đời không phải vì chúng ta quen thuộc với cuộc đời, nhưng vì chúng ta đã quen thuộc với tình yêu.

Trong tình yêu, luôn luôn có một chút điên cuồng. Nhưng trong sự điên cuồng, luôn luôn có một chút lý trí.

Và cả đối với ta, người thương yêu đời sống, ta thấy rằng những cánh bướm, những bọt xà phòng cùng tất cả những người nào giống như cánh bướm và bọt xà phòng đều là những kẻ nếm trải hạnh phúc tuyệt vời nhất.

Chính khi nhìn thấy những tấm linh hồn nhẹ nhàng, điên rồ, duyên dáng và khoái hoạt đó bay lượn thênh thang, Zarathustra mới muốn khóc òa và ca hát.

Ta sẽ chỉ có thể tin vào một đấng Thượng đế biết khiêu vũ.

Mỗi khi nhìn thấy con quỷ hộ mạng ta, ta đều thấy nó có vẻ trang trọng, tế toái, sâu hút và long trọng: nó là hiện thân của tinh thần trì độn nặng nề - chính nó kéo rơi mọi vật xuống mặt đất.

Người ta giết người không phải bằng sự giận dữ mà bằng tiếng cười. Nào, hãy giết chết tinh thần trì độn nặng nề đi!

Ta đã học đi; từ đó ta để cho mình mặc sức chạy. Ta đã học bay, từ đó, ta không cần thiên hạ mó tay đẩy mình đổi chỗ.

Giờ đây, ta nhẹ nhàng, giờ đây ta bay bổng phiêu bồng, giờ đây, ta tự nhìn thấy mình ở bên dưới chính mình, giờ đây, một thần linh đang khiêu vũ trong ta.

9. Về cái cây trên đỉnh núi

Zarathustra để ý thấy có một thanh niên tránh gặp mặt hắn. Một buổi chiều kia, khi một mình đi dạo qua ngọn núi nhìn suốt xuống thung lũng có tên là thung lũng "Con Bò Tạp Sắc", Zarathustra bắt gặp thanh niên ấy đang ngồi tựa lưng vào một thân cây, đưa mắt mỏi mệt nhìn xuống thung lũng. Zarathustra vòng tay ôm lấy thân cây người thanh niên đang ngồi tựa lưng và nói như thế này:

"Nếu muốn dùng sức mạnh tay ta lay động thân cây này, ta sẽ không thể làm nổi. Nhưng ngọn gió mà ta không nhìn thấy sẽ dồi dập bẻ cong thân cây theo ý muốn. Cũng thế, chúng ta bị uốn cong và dồi dập bởi những bàn tay vô hình".

Lúc bấy giờ chàng thanh niên vụt đứng dậy, kinh ngạc sững sờ: "Ta đang nghe Zarathustra lên tiếng vào đúng lúc ta đang nghĩ đến ông ta".

Zarathustra trả lời: "Tại sao ngươi lại kinh hoàng? Con người cũng như thân cây vậy. Hễ càng muốn vươn đến những cõi miền cao thẳm rạng rỡ, thì những cội rễ càng phải bám sâu vào lòng đất, vào bóng tối và vào sâu thẳm, bám sâu vào sự xấu ác!"

- Vâng, bám chặt vào sự xấu ác! Chàng thanh niên cảm khái kêu lên. Làm sao ngài phát giác được tâm hồn tôi như thế?"

Zarathustra mỉm cười đáp: "Có những tâm hồn người ta sẽ không bao giờ phát giác ra được, trừ phi người ta bắt đầu bằng cách phát minh ra chúng".

- Vâng, vào sự xấu ác! Chàng thanh niên lại kêu lên lần nữa.

Hỡi Zarathustra, ngài đã nói lên sự thật. Tôi không còn tin cậy nơi bản thân tôi nữa, kể từ khi tôi muốn nâng mình lên cao vời vợi, và chẳng ai còn tin cậy vào tôi nữa, - tại sao sự thể lại như thế?

Tôi hóa thân quá nhanh: hiện tại của tôi khước từ quá khứ. Khi leo lên cao, tôi thường nhảy bỏ nhiều bậc thang, - chẳng bậc thang nào lại tha thứ cho tôi điều ấy.

Khi đã ở trên đỉnh cao rồi, tôi luôn luôn thấy mình cô đơn hoang tịch. Chẳng ai ngỏ lời cùng tôi, ngọn gió của cô đơn làm tôi run rẩy. Tôi đã tìm kiếm điều gì trên những đỉnh cao heo hút?

Sự khinh bỉ cùng khát vọng của tôi đồng lớn mạnh; càng lên cao, tôi càng đâm ra khinh bỉ những người đang leo lên. Họ muốn gì trên những đỉnh cao?

Tôi hổ thẹn khôn cùng vì đã leo lên và vấp ngã như thế! Tôi cười nhạo khôn xiết cái hơi thở hổn ha hổn hển của mình! Tôi căm thù thậm tệ những kẻ đang cất cánh bay lên! Tôi mỏi mệt vô cùng trên những miền cao thăm thẳm".

Người thanh niên im tiếng. Zarathustra nhìn ngắm cái cây gần chỗ hai người đang đứng, rồi hắn nói như thế này:

"Cái cây này đơn độc lẻ loi vươn cao trên núi; cây đã vượt bỏ loài người cùng cầm thú.

Và giá như cái cây muốn lên tiếng, thời cũng chẳng ai có thể hiểu thấu: nó quá to lớn cao đại dường kia!

Từ đây, cái cây chờ đợi và không ngớt chờ đợi, - nó chờ đợi điều gì? Cái cây ở quá gần nơi trú ngụ của những tảng mây: ắt hẳn cây đang chờ đợi cú sét đầu tiên giáng xuống?"

Khi nghe Zarathustra nói thế, người thanh niên hét lớn, vẻ hung tợn: "Phải rồi, phải rồi, Zarathustra hỡi, ngài đã nói lên sự thật. Tôi đã khát khao sự rơi ngã sa đọa của mình trong khi khát vọng những đỉnh cao, và ngài là cú sét tôi đang chờ đợi! Hãy nhìn xem, tôi còn là gì nữa kể từ khi ngài xuất hiện với đám thanh niên chúng tôi? Chính lòng ganh tị đã giết chết tôi". -Chàng thanh niên nói như thế rồi òa lên khóc nức nở đắng cay. Song Zarathustra đã đưa tay ôm choàng thân thể chàng ta và dìu chàng sánh bước cùng mình.

Khi hai người đã đi sát vào nhau như thế được một lúc thì Zarathustra bắt đầu nói như sau:

"Lòng ta tơi tả vì ngươi. Còn hơn là những lời nói, đôi mắt nhìn của ngươi bộc lộ rõ cho ta tất cả mối nguy hiểm ngươi đang trải qua.

Ngươi hãy còn chưa tự do, ngươi còn đang tìm kiếm tự do. Nhưng sự tìm kiếm của ngươi đã biến ngươi thành kẻ mộng du quá sáng suốt.

Ngươi muốn phóng lên những đỉnh cao đầy tự do tự tại, tâm hồn ngươi khát vọng những vì sao. Nhưng mà, những bản năng xấu xa của ngươi, chúng cũng khao khát tự do. Những con chó dữ trong ngươi muốn được thoát chuồng chạy rông; chúng sủa lên những tiếng hân hoan mừng rỡ trong hầm tối, khi tinh thần ngươi mơ mộng mở tung tất cả những cửa ngục.

Trước mắt ta, ngươi vẫn còn là một tù nhân đang tưởng tượng đến tự do. Hỡi ôi! Tâm hồn những kẻ tù nhân như thế trở nên tinh tế hơn, nhưng cũng lại trở thành xảo quyệt, xấu xa, đê tiện hơn.

Ngay cả kẻ đã giải phóng được tinh thần mình rồi, cũng vẫn còn phải tự thanh lọc cho trinh tuyền. Tâm hồn hắn vẫn còn chất chứa những ngục tù cùng mốc meo: vì thế mắt hắn phải trở nên tinh khiết...

Ờ, ta biết rõ mối nguy hiểm ngươi đang trải qua. Nhưng mà, vì tình yêu và niềm hy vọng thê thiết của ta, ta van xin ngươi: chớ nên vất bỏ tình yêu cùng niềm hy vọng của ngươi!

Ngươi vẫn còn cảm thấy mình là cao nhã quý phái, và cả người đời, những kẻ thù ghét ngươi và ném vào ngươi những cái nhìn ác cảm, họ cũng vẫn xem ngươi là kẻ cao nhã quý phái. Ngươi nên biết rằng tất cả bọn chúng đều xem kẻ cao nhã quý phái là tảng đá ngáng trở đường đi của chúng.

Ngay cả đối với những người thiện hảo nữa, con người quý phái cao nhã cũng là một chướng ngại trên đường của chúng: ngay cả khi bọn chúng gọi kẻ ấy là một người thiện hảo, thì chỉ cốt để tránh xa y.

Con người cao nhã quý phái muốn sáng tạo nên điều mới lạ và một đức hạnh trinh tân. Con người thiện hảo chỉ ước ao điều cũ kỹ, ước ao bảo trì những sự việc già cỗi nghìn đời.

Song mối nguy hiểm của con người cao nhã quý phái không phải nằm ở chỗ hắn trở thành một con người thiện hảo, mà là trở thành một kẻ xấc xược vô liêm, một tên cười cợt chế nhạo, một kẻ phá hoại.

Hỡi ôi! Ta đã từng biết có những con người cao nhã quý phái đã đánh mất đi niềm hy vọng cao cả nhất trong tâm hồn họ. Và từ đó, họ phỉ báng tất cả mọi hy vọng cao cả nhất.

Kể từ đó, họ đã sống, đã liều lĩnh cho những khoái lạc ngắn ngủi phù du, và phải khó nhọc lắm họ mới vạch ra cho mình một mục tiêu để sống qua ngày.

"Ngay chính tinh thần cũng là một khoái lạc", - họ bảo như thế. Đôi cánh tinh thần họ bị gãy tan: giờ đây họ chỉ biết bò lết, và họ làm ô uế tất cả những thứ gì họ gặm nhấm.

Xưa kia họ mơ mộng trở thành những kẻ anh hùng: giờ đây họ chỉ còn là những tay hưởng lạc. Vị anh hùng phiền não họ, làm tâm hồn họ tràn đầy kinh hoàng sợ sệt.

Nhưng mà, vì tình yêu cùng niềm hy vọng thâm viễn của ta, ta van xin ngươi: đừng vứt bỏ người anh hùng đang ngự trị trong tâm hồn ngươi! Hãy thánh hóa niềm hy vọng phiêu diêu cao vời nhất của ngươi!"

10. Về những kẻ rao giảng sự chết

Có những kẻ rao giảng sự chết, và mặt đất này đầy rẫy những kẻ mà người ta phải rao giảng cho họ chối bỏ sự sống.

Mặt đất đầy rẫy những con người dư thừa, đời sống bị hư hỏng lụn bại vì những kẻ dư thừa. Nhân danh "đời sống vĩnh cửu", ước gì người ta có thể thuyết phục họ chịu từ bỏ đời sống này!

Người ta gọi những kẻ rao giảng sự chết là những kẻ mặc "áo vàng" hay những kẻ mặc "áo đen". Nhưng ta muốn chỉ cho các ngươi bọn chúng dưới nhiều màu sắc khác nữa.

Đây là những tên khủng khiếp nhất, những kẻ mang trong lòng con dã thú điên cuồng. Đối với chúng chẳng có sự lựa chọn nào khác hơn sự lựa chọn giữa những khoái lạc và những sự hành xác. Và ngay cả những khoái lạc của bọn chúng cũng vẫn là những sự hành xác!

Ô! Những con người kinh khủng, những kẻ hãy còn chưa đạt tới mức người! Bọn chúng cứ rao giảng sự khước từ đời sống và hãy chết tiệt mất đi!

Đây là những kẻ bị bệnh lao phổi tâm hồn; vừa lọt lòng ra là chúng đã bắt đầu chết và khao khát đến những học thuyết rao giảng sự chán ngán mỏi mệt, sự khước từ, chối bỏ.

Bọn chúng muốn được chết, và chúng ta phải tán thành ước muốn của chúng. Chúng ta hãy coi chừng đừng đánh thức những kẻ chết đầy rẫy đó đây và đừng chạm đến những quan tài biết đi đó!

Chỉ cần bọn chúng gặp một người bệnh, một lão già hay một xác chết, là lập tức bọn chúng kêu ầm lên: "Đời sống bị khước từ".

Nhưng thật ra chỉ có bọn chúng mới bị khước từ, bọn chúng cùng với đôi mắt xiêu lệch chỉ nhìn thấy một khía cạnh của cuộc đời.

Trùm kín trong một nỗi u sầu dày đặc, nhiệt cuồng khao khát những sự tình cờ nhỏ nhoi vô nghĩa nhất có thể gây ra sự chết, bọn chúng đứng đó đợi chờ, hàm răng nghiến chặt.

Hoặc giả bọn chúng vươn tay về với những ngọt ngào của cuộc sống và chế giễu tính trẻ con ngây dại của mình: bọn chúng treo cuộc đời mình vào một sợi tơ mành mong manh và lại chế nhạo rằng mình còn bám víu vào một sợi tơ mành mong manh. Sự khôn ngoan của bọn chúng lên tiếng: "Kẻ nào còn bám víu vào đời sống là một tên điên khùng - như chúng ta là những tên điên khùng đó. Và đấy chính là điều điên khùng vĩ đại nhất trong cuộc sống".

"Cuộc đời chỉ toàn là đau khổ", một bọn khác bảo thế. Và họ đã chẳng hề nói dối. Vậy hãy làm sao cho anh chết tiệt mất đi. Hãy dừng lại cuộc sống chỉ toàn là đau khổ!

Và đây là điều mà đức hạnh anh dạy cho anh: "Hãy tự hủy hoại! Hãy trốn thoát khỏi chính mình!"

"Khoái lạc nhục thể là tội lỗi", một vài kẻ trong bọn rao giảng sự chết tuyên bố, "chúng ta hãy tránh xa khoái lạc nhục thể và hãy thôi sinh con đẻ cái!"

"Sinh nở là chuyện khó khăn khổ sở", một bọn khác bảo, "cứ sinh nở mà làm gì chứ? Người ta chỉ đẻ ra toàn những kẻ khốn quẫn!" Bọn này cũng là những kẻ rao giảng sự chết.

"Chúng ta cần có lòng thương xót", một bọn thứ ba bảo. "Hãy lấy khỏi tôi những gì tôi đang có! Hãy lấy khỏi tôi bản thể của tôi! Như thế tôi sẽ ít bị ràng buộc với đời sống hơn!"

Nếu bọn chúng tràn đầy lòng thương xót sâu xa, thì bọn chúng sẽ cố sức làm cho đời sống thành không thể chịu đựng nổi với kẻ đồng loại láng giềng. Độc ác - đấy là lòng tốt đích thực của bọn chúng.

Bọn chúng muốn thoát khỏi cuộc đời; nhưng chúng đâu biết rằng với những xiềng xích và quà tặng đó, chúng còn ràng buộc những kẻ khác vào cuộc đời một cách nồng nàn chặt chẽ hơn nữa!

Và các ngươi, những kẻ sống một cuộc đời cần lao khắc khổ miệt mài đầy lo lắng - các ngươi không chán nản mỏi mệt vì đời sống sao? Tâm hồn các ngươi không chín mùi cho sự rao giảng về sự chết hay sao?

Tất cả bọn ngươi, những kẻ yêu thích công việc cần lao miệt mài và tất cả những gì nhanh chóng, mới mẻ, lạ lùng - bọn ngươi đều không thể chịu đựng nổi chính mình; sự chăm chú cần mẫn của các ngươi chỉ là một sự chạy trốn và ý chí muốn quên lãng tự thân.

Nếu các ngươi có nhiều đức tin hơn vào đời sống, thì các ngươi sẽ ít buông thả vào giây phút hiện tại hơn. Nhưng các ngươi không có đủ dung lượng để đợi chờ, và các ngươi cũng lại không có đủ dung lượng để mà lười biếng!

Khắp nơi đều vang dội tiếng nói của bọn rao giảng sự chết: và thế giới đầy rẫy những kẻ mà ta cần phải rao giảng cho họ sự chết.

Hoặc là rao giảng "đời sống vĩnh cửu" - cả hai đối với ta đều chỉ là một, - miễn là bọn chúng chết tiệt cho thật nhanh!

11. Về chiến tranh và các chiến sĩ

Chúng ta đều không muốn được dung thứ bởi các kẻ thù hiểm độc nhất cũng như bởi những kẻ mà chúng ta yêu mến tận đáy lòng. Hãy để ta nói cho các ngươi rõ sự thật!

Hỡi các bạn chiến binh của ta! Ta yêu các bạn tận đáy lòng ta, luôn luôn ta đang là và đã là kẻ đồng loại mang cùng dòng máu với các bạn. Và ta cũng là kẻ thù địch hiểm độc nhất của các bạn. Hãy để ta nói cho các bạn rõ sự thật!

Ta biết rõ mối hận thù, lòng khao khát đang nung nấu tâm can các bạn. Các bạn không đủ vĩ đại để có thể không biết đến sự hận thù và lòng khao khát. Vậy các bạn hãy đủ cao đại để đừng xấu hổ vì chúng!

Và nếu các bạn không thể làm những bậc thánh của Tri thức, thì ít ra các bạn hãy là những chiến sĩ của Tri thức. Những chiến sĩ của Tri thức là những bạn đồng hành và những người tiên phong cho sự thánh thiện đó.

Ta đã nhìn thấy nhiều thứ lính: ước gì ta được nhìn thấy nhiều chiến sĩ! Quần áo của họ mặc, người đời gọi là "đồng phục": ước sao ít ra những gì họ che giấu dưới bộ đồng phục đó không "đồng hình" với nhau!

Các bạn phải là những kẻ mà đôi mắt luôn luôn kiếm tìm một kẻ thù địch, - kẻ thù địch của các bạn. Và nơi vài người trong số các bạn người ta phải gặp lòng thù hận ngay lúc thoạt nhìn.

Các bạn phải tìm kiếm kẻ thù của các bạn, các bạn phải đánh trận chiến của các bạn, cho những tư tưởng của các bạn! Và nếu tư tưởng các bạn thất trận, thì ít ra lòng liêm khiết chân thực của các bạn cũng hát ca sự chiến thắng!

Các bạn phải yêu hòa bình như một phương tiện cho những cuộc chiến tranh mới - và một hòa bình ngắn hạn hơn là một hòa bình dài hạn.

Ta không khuyên các bạn công việc, mà là chiến đấu. Ta không khuyên các bạn hòa bình, mà là khải hoàn. Công việc của các bạn phải là một cuộc chiến đấu, hòa bình của các bạn phải là khúc khải hoàn!

Người ta chỉ có thể im lặng yên nghỉ khi đã có tên bén giương sẵn trên cung; bằng không người ta chỉ ba hoa ồn ào và cãi cọ lăng nhăng. Hòa bình của các bạn phải là một khúc khải hoàn!

Các bạn bảo rằng đấy chính là lý do thích đáng nhất để thánh hóa bản thân chiến tranh? Ta bảo thật cùng các bạn: chính một cuộc chiến tranh thích đáng thánh hóa tất cả mọi sự.

Chiến tranh và lòng can đảm đã thực hiện nhiều sự việc cao đại hoằng viễn hơn là tình yêu thương kẻ láng giềng đồng loại. Từ trước tới giờ, không phải lòng thương hại nhưng chính sự dũng cảm của các bạn đã cứu thoát những nạn nhân.

"Điều thiện hảo là gì?" các bạn hỏi như thế. Dũng cảm, - đấy chính là điều thiện hảo. Hãy để cho các cô bé thơ dại bảo rằng: "Điều thiện hảo là cái gì vừa xinh xắn vừa cảm động".

Người ta sẽ gọi các bạn là kẻ có quả tim lạnh lùng, tàn nhẫn: nhưng mà các bạn thật có một quả tim và ta yêu mến sự hổ thẹn của các bạn khi phải bày tỏ tâm tình thân ái. Các bạn hổ thẹn vì sự thừa thãi phong phú của mình, cũng như kẻ khác thẹn thùng vì sự nghèo nàn khô rút của họ.

Các bạn xấu xí? Được, hỡi các anh em của ta! Các bạn hãy mặc cho mình sự cao nhã tuyệt vời; đấy chính là chiếc áo choàng của xấu xí!

Khi tâm hồn các bạn vĩ đại lên, nó trở nên tự kiêu và trong sự cao đại của các bạn, có sự hung bạo. Ta biết rõ các bạn.

Sự hung bạo là vùng đất giao ngộ giữa kẻ tự kiêu và kẻ nhu nhược. Nhưng cả hai đều không hiểu nhau. Ta biết rõ các bạn.

Điều các bạn cần chính là những kẻ thù đáng ghét chứ không phải những kẻ thù đáng khinh. Các bạn phải hãnh diện về kẻ thù mình: như thế những thành công của kẻ thù các bạn cũng sẽ là những thành công của chính các bạn.

Nổi loạn, - đó là điều cao nhã nơi những kẻ nô lệ. Điều cao nhã quý phái nơi các bạn phải là sự vâng lời, tùng phục! Mệnh lệnh của chính các bạn cũng phải là một sự vâng lời!

Một chiến sĩ kiêu dũng là kẻ thích nghe câu "Mi phải" hơn là câu "Ta muốn". Và trong tất cả những gì các bạn yêu mến, trước hết các bạn hãy làm sao cho người ta sai khiến các bạn thực hiện những việc đó.

Tình yêu cuộc đời mà các bạn cưu mang phải là tình yêu niềm hy vọng cao viễn nhất của các bạn: và hy vọng cao viễn nhất của các bạn phải là tư tưởng cao thâm nhất về cuộc đời.

Tư tưởng cao thâm nhất của các bạn, hãy để ta ra lệnh - đó là: con người là một cái gì cần bị vượt qua.

Vậy các bạn hãy sống cuộc đời vâng phục và chinh chiến của các bạn! Sá gì một kiếp sống lâu? Kẻ chiến sĩ nào lại muốn mình được dung thứ?

Ta chẳng hề dung thứ các bạn, ta yêu thương các bạn tận đáy tâm hồn, hỡi các bạn chiến binh của ta".

12. Về thần tượng mới

Ở một vài nơi nào đó trên thế giới, hãy còn có những dân tộc và những đoàn lũ, nhưng nơi chúng ta, thì không có như thế, hỡi các anh em của ta: nơi chúng ta chỉ còn có những Quốc gia.

Quốc gia? Quốc gia là cái gì thế? Nào! Hãy dỏng tai lên, ta sẽ nói cho các anh em nghe về cái chết của những dân tộc.

Quốc gia chính là con quỷ lạnh lùng nhất trong số những con ác quỷ lạnh lùng. Nó dối trá một cách lạnh lùng; và đây là lời lẽ dối trá thoát ra từ miệng nó: "Ta, Quốc gia, ta là Dân tộc".

Quả là một sự láo khoét! Chính những kẻ sáng tạo mới là những người đã hình thành các dân tộc, những người treo trên đầu các dân tộc một đức tin và một tình yêu: họ đã phụng sự cho đời sống như thế.

Song những kẻ hủy hoại đã giăng bẫy đám đông, và chúng gọi đó là một Quốc gia: chúng treo lủng lẳng trên đầu đám đông một lưỡi gươm cùng hàng trăm thèm muốn.

Nơi nào hãy còn có dân tộc, thì dân tộc không hiểu Quốc gia và thù ghét nó như một con mắt quỷ quái, như một xúc phạm đến các phong tục và lề luật.

Đây là dấu hiệu ta báo cho các anh em biết: mỗi một dân tộc đều sử dụng một ngôn ngữ riêng biệt để nói về thiện và ác; dân tộc láng giềng không hiểu được ngôn ngữ đó. Ngôn ngữ ấy, nó đã tự sáng tạo nên trong các phong tục và lề luật của nó.

Nhưng Quốc gia thì lại dối trá trong tất cả những ngôn ngữ nói về thiện và ác; trong tất cả những lời lẽ Quốc gia phát biểu, Quốc gia đều nói dối, - và tất cả những gì Quốc gia có được, Quốc gia đã đánh cắp.

Mọi sự đều giả ngụy nơi Quốc gia; Quốc gia, kẻ càu nhàu gắt gỏng, cắn xé với những chiếc răng đánh cắp. Ngay cả ruột rà của Quốc gia cũng là giả mạo.

Sự lẫn lộn tất cả những ngôn ngữ nói về thiện và ác, đấy là dấu hiệu ta báo cho các anh em biết; đấy là ấn tích của Quốc gia. Thật ra, dấu hiệu ấy biểu lộ một ý chí khát khao được chết. Thực vậy, đấy là một lời mời gọi những kẻ rao giảng sự chết!

Loài người sinh sôi nảy nở quá nhiều, thừa thãi: Quốc gia được bày đặt ra cho những kẻ dư thừa.

Các anh em hãy nhìn xem, Quốc gia cuốn hút bọn thừa thãi vô dụng ấy mãnh liệt đến độ nào! Quốc gia ngấu nghiến và tiêu hóa bọn chúng dữ dội chừng nào!

"Chẳng còn gì lớn hơn ta trên mặt đất: ta là ngón tay ban lệnh thống ngự của Thượng đế"

- con ác quỷ gầm rống lên như thế. Và không phải chỉ có bọn tai dài, mắt cận mới quỳ gối trước ác quỷ thôi đâu!

Hỡi ơi! Cả trong các anh em nữa, hỡi các tâm hồn cao cả, con ác quỷ Quốc gia cũng thầm thì những lời dối trá đen tối khủng khiếp của nó! Hỡi ôi! Con ác quỷ đã đoán nhận ra những tấm lòng giàu có ham thích được ban phát phung phí.

Vâng, con ác quỷ ấy đã đoán nhận ra các anh em, ngay cả các anh em là những kẻ đã chiến thắng vị Thượng đế cổ xưa kia! Cuộc chiến đấu đã làm các anh em chán nản thấm mệt, và giờ đây sự chán ngán ấy phụng sự cho thần tượng mới!

Thần tượng mới ấy muốn sắp xếp chung quanh mình những anh hùng và những người đáng tôn kính. Con ác quỷ lạnh lẽo ấy muốn sưởi ấm dưới mặt trời của những ý thức an bình.

Thần tượng mới ấy sẵn sàng ban cho các anh em tất cả, miễn là các anh em tôn sùng nó: với giá đó, nó sẽ mua sự rạng rỡ của đức hạnh các anh em và tia nhìn lóe ra từ đôi mắt kiêu ngạo của các anh em.

Nó muốn dùng các anh em như một miếng mồi nhử đám đông người dư thừa. Quả thật, nó đã tạo ra một bộ máy tạc đạn, một con ngựa của thần chết, om sòm huyên náo trong đồ trang bị kỳ cục nặng nề của những vinh dự thần thánh!

Vâng, nó đã tạo nên một cái chết cho đám đông, một cái chết tự tán tụng xưng dương mình là sự sống: quả thật, đấy là phần vụ thiện hảo nhất cho những kẻ rao giảng sự chết!

Quốc gia ở khắp những nơi mà tất cả mọi người đều bị nhiễm độc, những người tốt cũng như những kẻ xấu; Quốc gia, nơi bọn họ cùng đánh mất mình, người tốt cũng như kẻ xấu; Quốc gia là chốn mà sự tự tử chậm của tất cả mọi người được gọi là "đời sống".

Hãy nhìn bọn dư thừa vô tích sự kia! Bọn chúng ăn cắp công trình của những kẻ phát kiến và kho tàng của các nhà hiền triết: bọn chúng gọi sự đánh cắp đó là "văn minh" - và tất cả mọi sự đều biến thành bệnh hoạn bất hạnh đối với bọn chúng!

Hãy nhìn những kẻ dư thừa vô tích sự kia! Bọn chúng luôn luôn bệnh hoạn, bọn chúng mửa mật mình ra và gọi đó là những tờ nhật báo. Bọn chúng ngấu nghiến lẫn nhau nhưng lại không thể tiêu hóa lẫn nhau được.

Hãy nhìn những kẻ dư thừa vô tích sự kia! Bọn chúng tích tập tài sản và trở thành nghèo nàn hơn với mớ tài sản đó. Bọn chúng khao khát thèm muốn quyền lực và trước nhất là phương tiện của quyền lực, bọn chúng khao khát thèm muốn được nhiều tiền bạc, - bọn bất lực đó!

Hãy nhìn bọn chúng leo trèo, những con khỉ tinh lanh! Bọn chúng leo trèo tốp nọ đến tốp kia và kéo nhào lẫn nhau vào trong bùn lầy, hầm hố.

Tất cả bọn chúng đều muốn tiến gần đến chiếc ngai vàng thống trị: đấy là cơn điên cuồng của bọn chúng - làm như thể hạnh phúc đã nằm sẵn trên ngai vàng! Thường thì bùn lầy ngự trên chiếc ngai và thường thì chiếc ngai nằm trong bùn lầy.

Ta thấy tất cả bọn chúng đều như những thằng điên, những con khỉ leo trèo nhốn nháo, hăng hái bộp chộp. Thần tượng của bọn chúng - con ác quỷ lạnh lẽo - bốc mùi hôi thối: tất cả bọn chúng, những kẻ tôn thờ thần tượng đó đều bốc mùi hôi thối.

Hỡi các anh em, các anh em muốn chết ngộp trong mùi hôi bốc lên từ những chiếc mõm và từ những khát khao thèm muốn của bọn chúng hay sao? Tốt hơn nên đập vỡ kính rồi nhảy ào ra bên ngoài!

Các anh em hãy trốn chạy xú khí của bọn chúng! Các anh em hãy tránh xa hương khói của những cuộc hiến tế con người như thế!

Đối với những tâm hồn lớn, hãy còn có thể thực hiện được một đời sống tự do. Thực ra, kẻ nào sở đắc ít ỏi chừng nào thì càng ít bị chiếm hữu chừng đó: hãy ngợi ca sự bần hàn khiêm tốn!

Chỉ nơi nào Quốc gia chấm dứt, nơi đó mới khởi sự có con người không dư thừa: chỉ nơi đó mới khởi đầu khúc ca tất yếu, âm điệu độc đáo duy nhất và bất khả thay thế.

Nơi nào Quốc gia chấm dứt, - hãy nhìn xem, hỡi các anh em! Các anh em không nhìn thấy chiếc cầu vồng ngũ sắc và những chiếc cầu dẫn đến Siêu nhân hay sao?

13. Về những con ruồi ở công trường

Hãy chạy trốn, hỡi bạn, vào trong nỗi cô đơn của mình! Ta nhìn thấy bạn bị ngây người vì tiếng ồn ào huyên náo của những vĩ nhân và bị châm chích khắp nơi bởi những chiếc vòi của những kẻ hạ nhân đê tiện.

Rừng cao và đá tảng biết im lặng một cách cao quý để làm kẻ đồng hành cùng bạn. Một lần nữa, bạn hãy giống cái cây bạn yêu quý, cái cây với những cành lá vút cao xòe rộng: cái cây đứng đó lắng nghe, lặng lẽ, treo lơ lửng trên mặt biển xa.

Nơi nào sự cô đơn thôi còn trải rộng, nơi đó bắt đầu biến thành công trường huyên náo; và nơi nào bắt đầu biến thành công trường huyên náo cũng bắt đầu vang dậy tiếng ồn ào của những tay đóng kịch đại tài cùng tiếng vo vo của những con ruồi mang nọc độc.

Trên thế giới, những sự vật tuyệt vời chẳng đáng giá gì nếu không có kẻ nào biểu trưng chúng: dân chúng gọi những biểu trưng ấy là những vĩ nhân.

Dân chúng chẳng bao giờ hiểu gì về điều cao đại, - ta muốn nói: sự sáng tạo. Nhưng họ lại nhạy cảm đối với tất cả những con người biểu trưng cùng những diễn viên của những sự việc vĩ đại.

Thế giới xoay vần quanh những kẻ sáng tạo nên những giá trị mới: thế giới xoay vần trong một vận chuyển vô hình. Nhưng dân chúng và sự vinh quang lại xoay quanh những diễn viên: thế giới cứ chu tuần như thế.

Người diễn viên có tinh thần, nhưng lại không có ý thức về tinh thần [1]. Anh ta luôn luôn tin vào điều gì đem đến cho anh ta những hậu quả tốt đẹp nhất, - điều gì kích thích dân chúng tin tưởng vào chính anh ta!

Ngày mai anh ta sẽ có một đức tin mới và ngày mốt, lại có một đức tin mới mẻ hơn nữa. Anh ta có một giác quan bén nhạy, giống như dân chúng, và những trực giác thay đổi bất thường.

Lật đảo lại, - đó là điều anh ta gọi là chứng minh. Dẫn đến chỗ điên cuồng, - đó là điều anh ta gọi là thuyết phục. Và đối với anh ta, máu là luận chứng toàn hảo nhất trong tất cả những luận chứng.

Chân lý chỉ dành riêng cho những lỗ tai tinh tế, thì anh ta gọi là dối trá và hư ảo. Thực ra, anh ta chỉ tin vào những vị thần gây nên những tiếng động ồn ào trên trần thế.

Chốn công trường thì đầy rẫy những thằng hề trang trọng và dân chúng lại hãnh diện huênh hoang vì những vĩ nhân của họ! Họ xem những người này là những anh hùng thời đại.

Nhưng mà thời đại hối thúc họ: vì thế đến phiên họ, họ hối thúc bạn. Họ muốn nghe từ miệng bạn một tiếng "ừ" hay tiếng "không". Khổ thân cho bạn khi muốn đứng vững giữa "thuận" và "chống"!

Hỡi người tình tôn sùng chân lý, đừng ganh tị với những tinh thần tuyệt đối và hối hả kia! Chưa bao giờ chân lý nằm trong tay những kẻ có đầu óc tuyệt đối nọ.

Vì những con người nôn nả hấp tấp kia, bạn hãy quay trở vào sự an toàn của bạn: chỉ ở chốn công trường huyên náo bạn mới bị tấn công tới tấp bằng những câu hỏi "thuận" hay "không".

Kinh nghiệm từ mọi suối nguồn sâu thẳm đều chậm chạp: chúng phải chờ một lúc lâu sau mới biết được cái gì đã rớt xuống đáy sâu của mình.

Tất cả những gì cao đại đều diễn ra xa chốn công trường và sự vinh quang: những kẻ sáng tạo nên những giá trị mới bao giờ cũng cư ngụ xa chốn công trường và sự vinh quang.

Hỡi bạn, hãy chạy trốn, hãy chạy trốn vào nỗi cô đơn của mình: ta nhìn thấy bạn bị cắn đốt ngất ngư bởi những con ruồi mang nọc độc. Hãy chạy trốn đến nơi kia, nơi thổi qua một ngọn gió dữ dằn và mạnh mẽ!

Hãy chạy trốn vào nỗi cô đơn của mình! Bạn đã sống quá gần những con người hạ tiện và những kẻ khốn khổ đáng thương. Hãy chạy trốn sự trả thù vô hình của bọn chúng! Đối với bạn, bọn chúng chỉ nuôi một tình cảm: trả thù.

Đừng cất tay lên chống lại bọn chúng! Chúng đông vô số kể và vận mệnh của bạn không phải là làm một kẻ đuổi ruồi.

Bọn hạ nhân cùng những kẻ đáng thương đó nhiều vô số kể; và đã có nhiều tòa lâu đài kiêu hãnh bị hủy hoại hoang tàn vì những giọt nước mưa và cỏ dại.

Bạn không phải là một tảng đá, nhưng vô số giọt nước đã đục khoét sâu vào lòng bạn. Rốt cuộc bạn sẽ vỡ vụn vì những giọt nước nhỏ bé ấy.

Ta nhìn thấy bạn mệt mỏi vì những con ruồi đầy nọc độc, ta nhìn thấy thân thể bạn đẫm máu vì trăm nghìn vết chích, và lòng kiêu hãnh của bạn lại chẳng thèm cả đến nổi giận nữa.

Những con ruồi ấy khao khát máu tươi của bạn trong tất cả vẻ ngây thơ vô tội; tâm hồn thiếu máu của chúng không ngừng kêu đòi máu, máu - và chúng châm chích một cách vô tội vạ.

Nhưng bạn là con người sâu thẳm, nên bạn đau khổ quá sâu xa, ngay cả đối với những vết thương nhỏ bé; và ngay cả trước khi những vết thương của bạn khép miệng lại, loài côn trùng sâu độc đó lại bò khắp bàn tay bạn.

Ta thấy bạn quá kiêu hãnh nên không bóp nát thây những con vật tham lam ấy! Nhưng bạn hãy coi chừng, hãy coi chừng bạn bị buộc phải chịu đựng tất cả bất công nọc độc của bọn chúng.

Bọn chúng cứ bay vo vo quanh quẩn, ngay cả khi bọn chúng ngợi ca bạn: lời ngợi ca của bọn chúng chỉ làm bạn thêm phiền não. Bọn chúng muốn được gần gũi với da thịt và máu tươi của bạn.

Bọn chúng phỉnh nịnh bạn như người ta tâng bốc một vị thần hay một con quỷ; bọn chúng than oán rên rỉ trước mặt bạn, như trước mặt một vị thần hay một con quỷ. Nào có quan hệ gì! Bọn chúng chỉ là những kẻ tâng bốc phỉnh nịnh và những kẻ than vãn rền rĩ, không hơn không kém.

Bọn chúng cũng thường tỏ vẻ dễ thương tử tế với bạn. Nhưng mà bọn hèn nhát luôn luôn hành động quỷ quyệt như thế. Vâng, những kẻ hèn nhát đều quỷ quyệt!

Bọn chúng suy nghĩ nhiều đến bạn với tấm linh hồn chật hẹp của bọn chúng, - bạn luôn luôn có vẻ khả nghi đối với bọn chúng! Tất cả những gì làm người ta suy tư nhiều đều trở thành khả nghi [2].

Bọn chúng trừng phạt bạn vì tất cả những đức hạnh của bạn. Bọn chúng chỉ hết lòng tha thứ khi nào bạn lỗi lầm, thất bại.

Vì bạn là người khoan thứ và công chính, nên bạn bảo: "Bọn chúng ngây thơ vô tội trong sự nhỏ bé hèn hạ của chúng". Nhưng mà tâm hồn đê tiện hẹp hòi của bọn chúng nghĩ rằng: "Mọi đời sống cao đại đều có tội".

Ngay cả khi bạn tỏ ra khoan thứ đối với bọn chúng, chúng cũng thấy như bị bạn khinh bỉ; và chúng báo đền những việc thiện của bạn bằng những việc ác lén lút.

Lòng kiêu hãnh lặng lẽ không lời của bạn làm bọn chúng bất mãn, bọn chúng sẽ reo mừng hớn hở nếu có lần nào bạn tỏ ra đủ khiêm tốn để làm người phù phiếm.

Tất cả những gì ta nhận thấy nơi một con người, cũng là những cái ta khêu dậy nơi bọn chúng. Vậy bạn hãy coi chừng những kẻ hạ nhân đê tiện!

Đứng trước mặt bạn, bọn chúng tự cảm thấy mình nhỏ bé, sự thấp hèn của bọn chúng phát quang chói sáng, bắn ra một sự trả thù vô hình đối với bạn.

Bạn chẳng nhận thấy là bọn chúng thường câm miệng mỗi khi bạn đến gần, và sức lực của chúng rời bỏ chúng như làn khói rời bỏ một ngọn lửa đã tàn?

Vâng, bạn ơi, bạn là ý thức bất ổn cho đồng loại của bạn: bọn chúng không xứng đáng với bạn. Vì thế bọn chúng thù ghét và muốn hút máu bạn.

Đồng loại của bạn sẽ luôn luôn là những con ruồi mang đầy nọc độc; điều gì cao đại hoằng viễn nơi bạn, - thì chính điều đó sẽ làm bọn chúng độc địa thêm lên và luôn luôn giống với những con ruồi hơn.

Hãy chạy trốn, bạn ơi, chạy trốn vào trong nỗi cô đơn của bạn, nơi thổi qua một ngọn gió dữ dằn và mạnh mẽ. Vận mệnh của bạn không phải là một kẻ đuổi ruồi".

Chú thích:

[1] "tinh thần" dịch chữ Geist. Trong Đức ngữ, Geist có nhiều nghĩa: tinh thần, thần hồn, tâm trí, trí năng... và một nghĩa nữa là linh hồn, đồng nghĩa với Seele. Nên hiểu chữ tinh thần theo nghĩa bao gồm cả tâm trí lẫn trí năng.

[2] "Tất cả những gì làm người ta suy tư nhiều đều trở thành khả nghi", Nietzsche chơi chữ denken (động từ): tư tưởng, suy tưởng, và bedenklich (tính từ): khả nghi.

14. Về sự trinh khiết

Ta yêu thích rừng cao. Sống trong những thành thị thật khổ sở: có quá nhiều người động cỡn trong thành phố.

Chẳng thà rơi vào tay một tên sát nhân còn hơn rơi vào những giấc mộng của một người đàn bà đang động cỡn, có phải thế không?

Và hãy nhìn những gã đàn ông kia: con mắt của họ đủ nói lên điều đó, - họ chẳng biết điều gì tốt đẹp trên mặt đất hơn là chuyện ngủ với đàn bà.

Họ chất chứa cả một đống bùn nhơ tận đáy tâm hồn, và khổ thân cho họ nếu đống bùn đó lại có tinh thần!

Chớ gì ít ra các ngươi chỉ làm một con vật thuần túy mà thôi! Thế nhưng mọi con vật đều mang giữ sự ngây thơ.

Ta đã khuyên các ngươi giết chết giác quan mình hay sao? Không! Ta khuyên các ngươi giữ sự ngây thơ hồn nhiên của giác quan.

Ta đã khuyên các ngươi trinh khiết hay sao? Nơi một vài người, sự trinh khiết là một đức hạnh, nhưng nơi nhiều người, sự trinh khiết hầu như là một tật xấu.

Những kẻ sau này cũng có kiêng khem giới cấm đấy: nhưng rồi con chó Nhục cảm lòng đầy khao khát vẫn cứ hiển hiện xuyên qua tất cả những hành vi của họ.

Ngay cả trên những đỉnh cao của Đức hạnh và ngay cả trong sự khổ hạnh ép xác của họ, con chó Nhục cảm đó mãi theo đuổi và làm họ âu lo.

Và với dáng vẻ lịch thiệp tuyệt vời, con chó Nhục cảm đó biết cách nài xin một mẩu tinh thần, khi người ta khước từ cho nó một mẩu xác thịt!

Các ngươi yêu thích những bi kịch và tất cả những gì làm tan nát con tim? Nhưng ta, ta không tin con chó cái Nhục cảm của các ngươi.

Các ngươi có những đôi mắt quá tàn bạo và với một lòng thèm khát đầy nhục cảm, các ngươi nhìn kẻ khác đau khổ. Chẳng phải sự khoái lạc nhục cảm của các ngươi đã giả trang thành lòng thương hại đấy sao?

Ta cũng xin nói cho các ngươi nghe ẩn dụ này: có vô khối kẻ vì muốn xua đuổi con quỷ ẩn náu trong mình, đã tự mình biến thành những con lợn.

Nếu sự trinh khiết đè nặng ngột ngạt trên tâm hồn các ngươi, các ngươi phải từ bỏ nó, sợ rằng nó sẽ trở thành con đường dẫn đến hỏa ngục, - ta muốn nói đến bùn nhơ và tính dâm dục của tâm hồn.

Ta đã nói những điều nhơ nhớp? Theo ý ta, đấy không phải là những điều tệ hại nhất. Người anh hùng tri thức kinh tởm không chịu phóng mình lặn sâu xuống chẳng phải khi mà chân lý nhơ nhớp, nhưng khi chân lý là một làn nước cạn cợt.

Thực ra, có những con người trinh khiết một cách sâu thẳm: tâm hồn họ êm dịu hơn các ngươi, họ sẵn sàng cười cợt và cười cợt thường xuyên hơn là các ngươi.

Họ cũng cười cợt cả sự trinh khiết nữa và họ nêu câu hỏi: "Sự trinh khiết là gì? Sự trinh khiết chẳng phải là một điều ngu xuẩn điên rồ hay sao? Nhưng sự điên rồ này tự đến với chúng ta chứ chúng ta đã không đi đến với nó.

Chúng ta đã hiến cho kẻ lạ ấy lòng hiếu khách của tâm hồn mình; giờ đây người khách lạ ấy đang cư trú trong lòng chúng ta, - hắn cứ mặc sức ở lại đấy bao lâu lòng hắn muốn!"

15. Về bằng hữu

"Luôn luôn có một kẻ dư thừa lẩn quẩn bên ta", nhà ẩn sĩ nghĩ như thế. "Bao giờ một lần một rốt cuộc cũng hóa thành hai!"

Ta và Tôi luôn luôn đàm thoại với nhau quá nồng nàn: làm sao có thể chịu đựng nổi điều đó nếu ta không có một người bạn?

Đối với nhà ẩn sĩ cô đơn thì người bạn luôn luôn là kẻ thứ ba: kẻ thứ ba là chiếc phao nổi ngăn không cho cuộc đàm đạo của hai kẻ kia chìm sâu xuống vực thẳm.

Hỡi ơi! Luôn luôn có quá nhiều vực thẳm đối với tất cả những kẻ ẩn sĩ cô đơn. Vì thế họ khát vọng đến một người bạn và chiều cao của người bạn.

Lòng tin của chúng ta đặt vào những kẻ khác biểu lộ những gì mà chúng ta muốn có thể tin được vào chính mình. Khát vọng muốn có một người bạn của chúng ta làm chứng cho điều ấy.

Tình yêu thường khi chỉ là phương kế dùng để vượt thắng sự đố kỵ. Thường người ta tấn công và tự biến mình thành kẻ thù chỉ cốt để che giấu sự kiện chính bản thân mình có thể bị tấn công.

"ít ra, hãy là kẻ thù của ta!" - lòng tôn kính chân thật nói như thế, lòng tôn kính không dám kêu đòi tình bằng hữu.

Nếu muốn có một người bạn, thì ta cũng phải muốn chiến đấu vì người bạn đó và muốn chiến đấu, thì phải có khả năng làm kẻ thù.

Phải xưng tụng kẻ thù, ngay cả trong một người bạn. Mi có thể đến gần bạn mi mà không phải bước qua trận địa của hắn không?

Bạn mi phải là kẻ thù sâu độc nhất của mi, chính lúc chiến đấu chống lại hắn, mi mới gần gũi mật thiết nhất với tâm hồn hắn.

Mi chẳng muốn mang những màn che đối với bằng hữu? Mi muốn làm vinh dự cho bằng hữu bằng cách tự biện hộ với hắn trong nguyên tính của mình? Nhưng vì vậy mà hắn gửi mi cho quỷ sứ!

Kẻ nào không biết tự che giấu chính mình thì sẽ gây ra sự phẫn nộ: đấy là lý do tại sao ta phải sợ sự trần truồng! Ờ! Nếu mi là đấng thần linh thì hẳn mi phải xấu hổ vì y phục mình!

Mi không biết trang sức ăn vận đủ đối với bằng hữu: vì đối với hắn, mi phải là một mũi tên và một khát vọng phóng về hướng Siêu nhân.

Mi đã có khi nào nhìn bạn mi say ngủ chưa - để biết rõ chân tướng của hắn? Lúc đó khuôn mặt bạn mi ra sao? Đấy chính là khuôn mặt của mi, được nhìn trong một tấm gương thô vụng, bất toàn.

Mi đã có bao giờ nhìn bạn mi say ngủ chưa? Mi há không kinh hoàng khi nhìn thấy hắn như thế? Ồ, bạn ơi, con người là một cái gì cần bị vượt qua.

Người bạn phải là bậc thầy trong sự tiên đoán và sự im lặng: mi hãy coi chừng, đừng nên muốn nhìn thấy tất cả mọi sự. Giấc mộng của mi phải biểu lộ cho mi những gì mà bạn mi làm khi hắn thức.

Lòng thương xót của mi phải là một sự tiên tri. Trước hết mi hãy biết rõ xem bạn mi có mong muốn lòng thương xót hay không. Có lẽ hắn ưa thích nơi mi con mắt bất động đăm đăm và cái nhìn của vĩnh cửu.

Lòng thương xót đối với bạn phải được che giấu dưới một lớp vỏ dày, và mi sẽ phải gãy răng vì lớp vỏ cứng đó. Như thế, lòng thương xót ấy sẽ đầy sự tinh tế, dịu dàng trìu mến.

Mi có dáng vẻ thuần khiết, cô đơn, mi là thực phẩm và lương dược cho bằng hữu mi? Có vài kẻ không thể đập vỡ những xiềng xích của riêng mình, tuy nhiên họ lại là kẻ cứu thế cho bằng hữu họ.

Mi là kẻ nô lệ? Vậy, mi không thể là một người bạn. Mi là bạo chúa? Vậy, mi không thể có bạn.

Trong một thời gian dài đằng đẵng, có một tên nô lệ và một bạo chúa ẩn nấp trong người đàn bà. Chính vì thế người đàn bà hãy còn chưa có khả năng bằng hữu: họ chỉ biết đến tình yêu.

Trong tình yêu của người đàn bà, có sự bất công và sự mù quáng đối với tất cả những gì họ không yêu thương. Ngay cả trong tình yêu có ý thức của người đàn bà, bên cạnh ánh sáng, ta luôn luôn thấy có sự ngạc nhiên, tia chớp và bóng tối.

Người đàn bà hãy còn chưa có khả năng bằng hữu. Họ chỉ mới là những con mèo cái và những con chim. Hoặc giả, khá hơn, họ là những con bò cái.

Người đàn bà hãy còn chưa có khả năng bằng hữu. Nhưng, hỡi những người đàn ông các anh, hãy nói cho ta biết, ai trong số các ngươi có được khả năng bằng hữu?

Hỡi ôi, các ngươi, những người đàn ông, các ngươi hãy nhìn thẳng vào sự nghèo nàn keo kiết của tâm hồn các ngươi. Những gì các ngươi ban cho bằng hữu, ta muốn đem nó ban cho kẻ thù của ta, và không vì thế mà ta thành nghèo nàn thêm.

Đã có tình đồng chí rồi, giờ phải để cho tình bằng hữu khai sinh!"

16. Về một nghìn lẻ một mục đích

Zarathustra đã nhìn thấy nhiều xứ sở và nhiều dân tộc; hắn khám phá ra điều thiện và điều ác của nhiều dân tộc trong hoàn cảnh đó. Zarathustra không tìm thấy quyền lực nào trên mặt đất to lớn hơn quyền lực của thiện và ác.

"Chẳng dân tộc nào có thể sống mà lại không bắt đầu bằng việc phán đoán các giá trị; thế mà, muốn tự bảo toàn, dân tộc đó không được phán đoán giống như dân tộc láng giềng.

Nhiều việc được dân tộc này cho là tốt thì dân tộc khác lại cho là xấu hổ, ty tiện, đáng khinh: đấy chính là điều ta đã khám phá ra được. Ta đã tìm thấy nhiều sự việc ở nơi này bị gọi là xấu xa nhưng ở nơi kia, ngược lại, được khoác cho tấm áo đỏ thẫm những vinh dự.

Chẳng bao giờ một dân tộc lân bang lại hiểu một dân tộc khác: tâm hồn nó luôn luôn kinh ngạc về sự điên cuồng và dữ tợn của kẻ lân bang mình.

Một bảng giá trị thiện hảo được treo lơ lửng trên mỗi dân tộc. Thế nhưng, đấy là tấm bảng ghi lại những gì nó đã vượt bỏ, đấy là tiếng nói của ý chí cường lực nơi dân tộc ấy.

Người ta gọi tất cả mọi chuyện có vẻ khó khăn là đáng ca ngợi; điều gì vừa có vẻ tối cần thiết và khó khăn thì được gọi là điều thiện. Và bất cứ điều gì giải thoát khỏi sự phiền muộn tối thượng, điều hiếm hoi và khó khăn, thì họ gọi là linh thánh.

Điều gì làm cho một dân tộc ngự trị, chiến thắng, tỏa rạng quang vinh, điều gì gây nên sự khủng khiếp, đố kỵ nơi dân tộc láng giềng thì đấy là điều cao cả nhất và chiếm vị trí hàng đầu đối với dân tộc ấy, đấy là điều được nêu ra làm thước đo và ý nghĩa cho vạn sự.

Thật ra, hỡi các anh em, một khi đã nhận rõ những nhu cầu, đất đai, bầu trời và những lân bang của một dân tộc, các anh em cũng sẽ suy đoán ra định luật chi phối những chiến thắng của dân tộc đó đối với chính mình, và các anh em sẽ hiểu rõ lý do vì sao dân tộc ấy đã leo lên bậc thang đó để vươn đến những hy vọng của mình.

"Trong tất cả mọi sự, mi phải luôn luôn là kẻ đứng ở hàng đầu và mi phải vượt bỏ những kẻ khác: linh hồn ganh tị của mi sẽ không yêu mến ai khác ngoài bằng hữu mi", - đấy là châm ngôn ngày xưa từng làm run rẩy tâm hồn người Hy Lạp và làm tâm hồn Hy Lạp leo vượt lên con đường cao đại.

"Hãy nói sự thật và biết sử dụng cung tên cho thiện nghệ", - điều này vừa có vẻ quý giá vừa có vẻ khó khăn đối với dân tộc đã ban cho tôi cái tên tôi đang mang, - cái tên đối với tôi vừa thân thiết vừa nặng nề quá đỗi [1].

"Hãy xưng tụng và tuân phục cha mẹ trong tận gốc rễ sâu thẳm của tâm hồn anh": tấm bảng ghi những chiến thắng đối với mình nói trên đây đã được một dân tộc khác treo lơ lửng trên họ, nhờ đó, họ đã trở thành hùng cường và bất tử.

"Hãy trung tín và vì tình yêu lòng trung tín, hãy đổ hết máu xương cùng danh dự của mi cho những điều có khi xấu xa hay nguy hiểm": nhờ châm ngôn này một dân tộc khác đã biết tự vượt thắng mình, và trong khi tự vượt như thế, dân tộc ấy đã trở nên giàu sang, mang nặng những hy vọng bao la.

Thực ra, con người tự ban cho mình thiện và ác. Thực ra, con người đã không nhặt lấy, đã không tìm thấy, đã không nghe thấy thiện và ác như một giọng nói của trời cao.

Chính con người đã ban giá trị cho những sự vật để tự bảo tồn lấy mình, - chính con người là kẻ sáng tạo ra ý nghĩa vạn vật, một ý nghĩa nhân bản! Chính vì vậy họ tự gọi mình là "con người", nghĩa là kẻ đo lường giá trị vạn vật. [2]

Đo lường giá trị, tức là sáng tạo: vậy thì hãy nghe đây, các ngươi, những kẻ sáng tạo! Chính sự đặt định giá trị của họ đã biến những sự vật được định giá thành những kho tàng và những trân bảo.

Chính nhờ sự định giá, giá trị mới được cố định: không có sự định giá, hạt nhân của cuộc hiện sinh sẽ trống rỗng. Hãy nghe đây, hỡi những con người sáng tạo!

Thay đổi các giá trị, tức là thay đổi những con người sáng tạo. Bất luận kẻ nào muốn sáng tạo đều phải luôn luôn phá hủy.

Những kẻ sáng tạo trước tiên là những dân tộc và sau đó là những cá thể. Thực ra, chính cá thể là sáng tạo sau cùng và mới mẻ nhất trong các sáng tạo.

Nhiều dân tộc ngày xưa treo lơ lửng bên trên họ một tấm bảng ghi điều thiện. Tình yêu muốn thống trị và tình yêu muốn tuân phục đã cùng nhau khai sinh ra những bảng giá trị như thế.

Khoái lạc của đám đông thì cổ xưa hơn khoái lạc của cá thể. Và chừng nào ý thức tốt đẹp còn mang cái tên đoàn lũ, chỉ có ý thức xấu tệ mới thốt lên: Tôi.

Thật ra, cái tôi giảo quyệt, cái tôi không tình yêu, cái tôi chỉ tìm kiếm lợi ích trong lợi lộc của số đông - cái tôi đó không phải là nguồn gốc của đoàn lũ, nhưng là dấu tích suy đồi của đoàn lũ.

Luôn luôn chỉ những tình nhân cùng những kẻ sáng tạo mới sáng tạo nên thiện và ác. Ngọn lửa tình yêu và ngọn lửa phẫn nộ chói lòa trong tất cả mọi đức hạnh.

Zarathustra đã nhìn thấy nhiều xứ sở và nhiều dân tộc. Hắn không tìm thấy trên mặt đất quyền lực nào lớn hơn những công trình của những kẻ yêu thương: "thiện" và "ác" là tên của những công trình đó.

Quả thật, quyền lực của những lời khen ngợi và sỉ nhục này giống như một con ác quỷ. Hỡi các anh em, hãy nói cho ta biết, ai sẽ chế phục được con ác quỷ ấy? Hãy nói cho ta biết ai sẽ xiềng đầu con vật ngàn cổ ấy?

Từ trước đến giờ đã có cả ngàn mục tiêu, vì đã có cả ngàn dân tộc. Chỉ còn thiếu cái mục tiêu độc nhất. Loài người hãy còn chưa có mục tiêu.

Nhưng mà, hỡi các anh em, hãy nói cho ta biết, nếu loài người thiếu mục tiêu thì đấy có phải chỉ vì hãy còn chưa có loài người?"

Chú thích:

[1] "Hãy nói sự thật và biết sử dụng cung tên cho thiện nghệ"... ám chỉ dân Ba Tư. "Hãy xưng tụng và tuân phục cha mẹ..." ám chỉ dân Do Thái; "hãy trung tín và vì tình yêu lòng trung tín..." ám chỉ dân Đức.

[2] "con người" nghĩa là kẻ đo lường giá trị vạn vật: "Mensch", das ist der Schãtzende. Nietzsche ép chữ theo ngữ nguyên bằng cách bắt ta hiểu rằng: con người (Mensch, xuất xứ từ chữ mannisco, súc-tiểu-từ của chữ Mann) là kẻ đo lường (mensuratio, chữ Latinh).

17. Về tình yêu kẻ láng giếng

Các ngươi tụ tập chen chúc chung quanh kẻ láng giềng. Các ngươi dùng những ngôn từ hoa mỹ để biểu thị điều đó. Nhưng ta nói thật cùng các ngươi, tình yêu kẻ láng giềng đồng loại của các ngươi chính là tình yêu bản thân các ngươi nhưng theo một chiều hướng xấu xa tồi tệ.

Các ngươi tụ tập quây quần chung quanh kẻ láng giềng lân cận để chạy trốn chính các ngươi, và các ngươi muốn biến điều đó thành một đức hạnh: nhưng ta đã nhìn thấu lòng quên mình "vô vị lợi" của các ngươi.

Cái "Anh" thì già lão cũ xưa hơn cái "Tôi". Cái "Anh" đã được thánh hóa, nhưng cái "Tôi" thì chưa như thế: vì vậy con người mới tụ tập đông đúc quanh kẻ láng giềng lân cận.

Ta có khuyên các ngươi yêu kẻ láng giềng gần gũi không? Ta chỉ khuyên các ngươi nên chạy trốn kẻ láng giềng và nên yêu kẻ xa xôi vời vợi [1].

Cao hơn tình yêu kẻ láng giềng là tình yêu kẻ xa xôi miên viễn và tình yêu tương lai. Còn cao vút hơn tình yêu con người, ta đặt tình yêu sự vật và các bóng ma.

Hỡi người anh em, bóng ma đang bước đi đằng trước ngươi thì xinh đẹp hơn ngươi; tại sao lại không ban thịt xương ngươi cho nó? Nhưng mà ngươi đã sợ hãi và chạy trốn ở nơi kẻ láng giềng.

Các ngươi không thể chịu đựng nổi chính mình và các ngươi không yêu thương mình cho đủ: chính vì thế mà các ngươi muốn quyến rũ kẻ láng giềng bằng tình yêu của các ngươi và mạ vàng bản thân các ngươi bằng sự lầm lỗi của họ.

Ta muốn rằng tất cả những kẻ láng giềng cùng những đoàn người của họ đều trở thành không thể chịu đựng nổi đối với các ngươi. Lúc bấy giờ các ngươi bắt buộc phải tự mình sáng tạo ra một người bạn với trái tim yêu dấu tràn trề.

Các ngươi kêu đòi một người chứng khi muốn nói tốt về chính mình; và khi các ngươi đã thuyết phục được hắn nghĩ tốt về các ngươi, thì đấy chẳng qua chỉ là các ngươi nghĩ tốt về chính mình.

Không phải chỉ có kẻ nói lời chống nghịch lại ý thức mới là kẻ nói dối. Vậy mà, đó lại là điều các ngươi đã làm trong cuộc giao tiếp hàng ngày và như thế, các ngươi đánh lừa kẻ láng giềng và đánh lừa cả chính mình.

Vì thế người điên mới nói rằng: "Cuộc giao tiếp với loài người làm hư hỏng tính khí, nhất là khi ta không có tính khí".

Có kẻ đến với người lân cận vì hắn đang tự tìm kiếm mình; kẻ khác, vì muốn tự quên mình. Tình yêu tồi tệ đối với chính mình đã biến nỗi cô đơn của các ngươi thành một nhà tù.

Chính những kẻ xa xôi miên viễn nhất mới trả giá cho tình yêu kẻ lân cận của các ngươi; và khi bọn ngươi năm người tụ họp lại thì nhất định một kẻ thứ sáu ở đâu đó phải bị khai tử.

Ta cũng không ưa những lễ lạc của các ngươi: ta đã thấy trong đó quá nhiều kẻ đóng trò, và cả những khán giả cũng thường cư xử như những kẻ đóng trò.

Ta không dạy các ngươi về kẻ lân cận nhưng dạy các ngươi về người bạn. Người bạn hãy là cuộc lễ vui đối với các ngươi trên mặt đất, và là một tiên cảm về Siêu nhân.

Ta dạy các ngươi về người bạn và tâm hồn tràn bờ của hắn. Nhưng phải biết làm một tấm bọt biển khi ta muốn được ôm ấp yêu thương bởi những trái tim lênh láng tràn bờ.

Ta dạy các ngươi về người bạn cưu mang trong lòng một thế giới hoàn tất, một chiếc cốc tràn trề những thiện hảo, - người bạn sáng tạo, kẻ luôn luôn có một thế giới hoàn tất để phụng hiến.

Và cũng như thế giới xoay vần trước mất, hắn nhìn thấy mình lại xoay tròn theo vòng trôn ốc, giống như "thiện" được sinh ra từ "ác" và những cứu cánh phát sinh từ sự ngẫu nhiên.

Hãy để tương lai cùng những điều xa xôi, miên viễn nhất làm nguyên nhân cho những lao khổ hiện tại của các ngươi: nơi người bạn mình, ngươi phải yêu mến Siêu nhân như là lý do hiện hữu của ngươi.

Hỡi các anh em, ta không khuyên các anh em yêu người lân cận, ta khuyên các anh em yêu cái gì xa xôi miên viễn nhất".

Chú thích:

[1] "Ta chỉ khuyên các ngươi nên chạy trốn kẻ láng giềng và nên yêu kẻ xa xôi vời vợi", Nietzsche đối nghịch chữ Nãchsten: kẻ láng giềng, kẻ gần gũi nhất, với chữ Fernsten: xa xôi vời vợi, phản nghĩa với "gần gũi" và, do đó, được dùng như phản nghĩa của "kẻ láng giềng", để chỉ một thế hệ Siêu nhân tạo thành một dân tộc tinh anh mà hiện giờ chưa xuất hiện.

18. Về những con đường của kẻ sáng tạo

Hỡi người anh em, mi có muốn bước vào trong cô đơn? Mi có muốn tìm kiếm con đường dẫn đến bản lai diện mục của mi? Hãy nấn ná lại và lắng nghe ta nói.

"Kẻ nào đi tìm thì dễ đánh mất chính mình. Mọi cô đơn đều là tội lỗi": đám đông nói như thế. Và mi đã là thành phần của đám đông trong một thời gian dài.

Giọng nói đám đông vẫn còn vang dội trong mi. Và khi mi bảo: "Ta không cùng chung ý thức với các ngươi nữa", thì đó chính là một lời than vãn đau đớn.

Bởi vì cũng chính ý thức chung ấy đã khai sinh ra nỗi đau đớn này; tia sáng nhạt nhòa cuối cùng của ý thức ấy vẫn còn chiếu rọi trên nỗi buồn của mi.

Nhưng, mi có muốn bước đi trên con đường của nỗi buồn đó, con đường dẫn đến bản lai diện mục của mi? Mi hãy tỏ cho ta biết mi có quyền và sức để bước đi không?

Mi có là một sức mạnh và một quyền lực mới mẻ? Một vận chuyển đầu tiên? Một bánh xe tự xoay động? Mi có thể bắt các vì sao xoay vần quanh mi?

Hỡi ôi! Có quá nhiều tham lam thèm muốn hướng vọng đến những đỉnh cao! Có quá nhiều những kinh động của những kẻ tham vọng! Hãy tỏ cho ta biết mi không thèm khát cũng chẳng tham vọng!

Hỡi ôi! Có biết bao tư tưởng lớn lại hành động theo lối một chiếc bễ thợ rèn: khi căng phồng lên chúng chỉ làm tăng thêm sự trống rỗng.

Mi tự bảo là mình tự do! Ta muốn biết tư tưởng chủ yếu của mi chứ không muốn nghe rằng mi vừa thoát khỏi một chiếc ách.

Mi có phải là người có quyền thoát khỏi một chiếc ách? Nhiều kẻ đã đánh mất luôn giá trị cuối cùng của họ khi vất đi sự nô lệ của mình.

Tự do đối với cái gì? Điều ấy chẳng can hệ gì tới Zarathustra. Nhưng con mắt mi phải nói rõ cho ta biết: tự do để cho cái gì?

Mi có thể tự chỉ định thiện, ác cho chính mình và treo ý chí trên đầu mi như một lề luật? Mi có thể làm vị quan tòa tự phán xử chính mình và làm kẻ trả thù cho lề luật do chính tay mi đặt ra?

Cô đơn đối diện với vị quan tòa và kẻ trả thù cho lề luật do chính mình đặt ra, là một điều quá sức khủng khiếp. Tựa hồ một ngôi sao lao mình vào khoảng không trống rỗng, trong hơi thở giá lạnh của cô đơn.

Hiện nay mi còn đang đau khổ vì đám đông phức tạp, vì mi là kẻ đơn nhất, lẻ loi: hiện nay lòng can đảm cùng những hy vọng của mi hãy còn nguyên vẹn.

Nhưng sẽ đến cái ngày mà mi chán nản mệt mỏi với nỗi cô đơn, lòng kiêu hãnh của mi khom lưng cúi mặt, lòng can đảm của mi nghiến răng sợ hãi. Sẽ có ngày mi hét lớn: "Ta cô đơn!"

Sẽ có ngày mi không còn nhìn thấy điều gì cao đại nơi mi, và điều gì thấp hèn sẽ quá gần gũi. Tư tưởng cao nhã trác tuyệt nhất của mi cũng làm mi kinh hãi như một bóng ma. Sẽ có ngày mi hét to: "Mọi sự đều giả mạo".

Có những tình cảm muốn giết chết kẻ cô thân độc ảnh; nếu chúng thất bại, thời chính chúng phải bị tận diệt. Nhưng liệu mi có dám làm một kẻ sát nhân?

Hỡi người anh em, mi đã biết đến chữ "khinh bỉ" rồi chứ? Và nỗi thống khổ nơi lòng công chính của mi bắt buộc mi phải công chính đối với những kẻ khinh bỉ mi, mi cũng biết rồi chứ?

Mi bắt buộc nhiều người phải thay đổi ý kiến của họ về mi, vì thế họ thù ghét mi khủng khiếp. Mi đã tiến lại gần nhưng rồi mi lại vượt bỏ họ, họ không bao giờ tha thứ cho mi chuyện ấy. Mi vượt bỏ bọn họ: nhưng mi càng phóng lên cao, thì con mắt của những kẻ đố kỵ lại càng thấy mi nhỏ bé. Thế mà, chính kẻ bay vút lên cao tít là kẻ bị thù ghét nhiều nhất.

"Làm thế nào các ngươi có thể công chính với ta được". - Mi phải nói như thế. "Ta đã chọn sự bất công của các ngươi như là phần số dành cho ta".

Bọn chúng ném vứt sự bất công cùng những đồ dơ bẩn vào con người cô đơn; tuy nhiên, hỡi người anh em của ta, nếu muốn làm một vì sao, thì mi vẫn cứ phải long lanh soi sáng cho bọn chúng.

Mi hãy coi chừng những kẻ thiện hảo và những con người công chính! Chúng thích đóng đinh lên thập giá những người nào đã sáng tạo ra đức hạnh của chúng, - chúng thù hận kẻ cô đơn.

Mi cũng phải đề phòng sự ngây thơ thánh thiện! Tất cả những gì không đơn giản, đều bị nó cho là bất kính, phạm thánh; nó cũng thích vui đùa với lửa - lửa của những dàn hỏa thiêu người.

Và hãy coi chừng sự biểu lộ tình cảm của mi! Kẻ cô đơn thường quá vội đưa tay ra cho người vừa mới gặp gỡ.

Có nhiều kẻ mi không nên đưa tay cho họ nắm, mà chỉ nên đưa chân [1]: và ta muốn rằng chân mi cũng có vuốt sắc.

Nhưng kẻ thù địch nguy hiểm nhất mi có thể gặp phải vẫn sẽ luôn là chính bản thân mi, mi tự rình dò mình ở tận những hang sâu và rừng thẳm.

Hỡi kẻ cô đơn, mi đang theo con đường dẫn đến bản lai diện mục của mình! Và trên con đường này, mi sẽ gặp gỡ chính tự thân cùng bảy con quỷ của mình.

Mi sẽ cảm thấy mình là kẻ tà đạo, phù thủy, bốc sư, điên rồ, nghi hoặc, bất kính, bất lương đối với chính mình.

Mi phải ước ao thiêu hủy chính tự thân mình trong ngọn lửa của mi: làm sao mi muốn tái sinh dũng mãnh như phượng hoàng con, khi trước hết mi không tự thiêu hủy tan tành thành tro khói!

Hỡi kẻ cô đơn, mi đang bước đi trên con đường của kẻ sáng tạo: mi muốn sáng tạo nên một vị thần từ bảy con quỷ của mi!

Hỡi kẻ cô đơn, mi đang theo con đường của người tình nhân: mi tự yêu thương, chính vì vậy mi tự khinh bỉ chính mình, như chỉ có những tình nhân mới biết khinh bỉ.

Kẻ tình nhân muốn sáng tạo, vì hắn khinh bỉ sâu sắc! Kẻ nào không biết khinh bỉ chính điều hắn yêu thương tha thiết, kẻ đó biết gì về tình yêu?

Hỡi anh em của ta, hãy bước vào nỗi cô đơn của mi cùng với tình yêu của mi và sáng tạo của mi, chỉ sau đó sự công chính mới bước theo mi trên đôi chân khập khiễng.

Hỡi anh em của ta, hãy bước vào nỗi cô đơn của mi cùng với nước mắt của ta. Ta yêu thương kẻ nào muốn sáng tạo bằng cách vượt bỏ chính mình và suy vi tàn tạ như vậy".

Chú thích:

[1] "Có nhiều kẻ mi không nên đưa tay cho họ nắm, mà chỉ nên đưa chân" là một lối nói đùa để chuyển xuống câu tiếp: "và ta muốn rằng chân mi cũng có vuốt sắc". Trong nguyên ngữ, nó còn có nghĩa là: "dùng gậy quất đập tay ai". Việt ngữ không thể chuyển dịch cả hai nghĩa cùng một lúc.

19. Về những thiếu nữ và bà già

"Tại sao ngài lại lén lút lập lờ lướt đi trong buổi hoàng hôn như thế, Zarathustra? Ngài cẩn trọng giấu giếm cái gì dưới áo?

Một kho tàng người ta đã cho Ngài? Một đứa con của Ngài? Hoặc giả bây giờ Ngài lại theo con đường trộm đạo, Ngài, kẻ đánh bạn cùng những người hung tợn?"

Zarathustra trả lời:

"Hỡi người anh em, thực ra đây là một kho tàng ta đã được ban cho; cái ta đang mang giữ là một chân lý nhỏ bé.

Nhưng chân lý ấy tinh ranh như một đứa bé; nếu ta không bịt mồm nó lại, nó sẽ la hét quá to.

Hôm nay, trong khi bước đi cô đơn trên đường, vào giờ mặt trời tàn lặn, ta gặp một mụ già, mụ đã nói với tâm hồn ta như thế này:

"Zarathustra thường nói với chúng ta, những người đàn bà, nhưng Zarathustra chưa từng nói cho chúng ta nghe về đàn bà bao giờ cả".

Ta đã trả lời: "Chỉ nên nói chuyện đàn bà cho đàn ông nghe".

Mụ già bảo: "Ngài cũng có thể nói về đàn bà với tôi được; tôi đã đủ già để quên ngay tất cả những gì ngài nói cho tôi nghe".

Thuận theo ước muốn của mụ già loắt choắt, ta đã nói như thế này:

"Nơi người đàn bà, tất cả đều là ẩn ngữ: nhưng ẩn ngữ bí mật ấy có một lời giải đáp: sự hoài thai.

Đàn ông là một phương tiện cho đàn bà: mục tiêu đàn bà nhắm tới luôn luôn là đứa con. Nhưng đàn bà là cái gì đối với đàn ông?

Người mang dòng máu đàn ông đích thực có hai khát vọng: sự nguy hiểm và trò chơi. Chính vì thế hắn thèm muốn nguời đàn bà như món đồ chơi nguy hiểm nhất.

Đàn ông phải được nuôi dưỡng cho chiến chinh, và đàn bà, cho sự giải trí của chiến sĩ; mọi điều khác đều là điên rồ, ngu xuẩn.

Kẻ chiến sĩ không thích những trái cây quá ngọt dịu. Chính vì thế, hắn yêu đàn bà; người đàn bà êm dịu ngọt ngào nhất vẫn hàm chứa một mùi vị đắng cay.

Đàn bà hiểu rõ trẻ con hơn đàn ông, nhưng đàn ông thì lại trẻ con hơn đàn bà.

Mọi người đàn ông xứng với tên gọi đều có ẩn giấu trong hắn một đứa bé muốn chơi đùa. Nào, đàn bà các người, hãy cố khám phá ra đứa trẻ nơi người đàn ông!

Người đàn bà phải là một món đồ chơi, thuần túy và mong manh, tựa như kim cương, tỏa rạng những đức hạnh của một thế giới hãy còn chưa xuất hiện.

Hãy làm sao cho tình yêu của ngươi tỏa rạng ánh sáng lung linh chiếu diệu của một vì sao! Hy vọng của ngươi phải thốt lên: "Ôi! Ước gì ta có thể sinh hạ được Siêu nhân!"

Hãy làm sao có lòng dũng cảm trong tình yêu của ngươi! Mạnh mẽ kiên cường nhờ tình yêu của mình, ngươi đi thẳng đến trước mắt kẻ đang gây ra sự sợ hãi trong ngươi.

Hãy đặt danh dự an trú trong tình yêu của ngươi. Thường đàn bà không hiểu chi lắm về danh dự. Nhưng đây phải là danh dự của ngươi: luôn luôn yêu thương nhiều hơn là các ngươi được yêu thương, và đừng bao giờ làm kẻ thứ nhì.

Người đàn ông phải kinh sợ người đàn bà khi nàng yêu thương: chính khi đó, người đàn bà hy sinh hết mọi thứ, và mọi thứ khác đều là rơm rác đối với nàng.

Người đàn ông phải kinh sợ người đàn bà khi nàng thù hận: bởi vì tận thâm tâm, đàn ông chỉ ác độc, nhưng tận thâm tâm, đàn bà là xấu xa.

Người đàn bà thù ghét kẻ nào nhất? - Một ngày kia thỏi sắt nói với thanh nam châm: "Ta thù hận mi nhất trên đời vì mi cuốn hút ta, nhưng mi lại không đủ mạnh để lôi cuốn ta vào vòng tay mi".

Hạnh phúc của người đàn ông là: "Tôi muốn". Hạnh phúc của người đàn bà là: "Chàng muốn".

"Nhìn xem, thế giới vừa thành tựu!" - Đấy là ý nghĩ của mọi đàn bà vào giây phút họ khuất phục trước tình yêu.

Người đàn bà phải vâng phục và phải tìm thấy một chiều sâu cho bề mặt cạn cợt của nàng. Tâm hồn người đàn bà là một bề mặt cạn cợt xao động nhốn nháo giông bão ở bên trên một đáy trũng.

Nhưng tâm hồn người đàn ông thì sâu thẳm, làn sóng của tâm hồn ấy gầm thét trong những chiếc hang ngầm dưới đất: người đàn bà cảm nhận được sức mạnh ấy, nhưng không hiểu được nó".

Lúc bấy giờ mụ già loắt choắt nói với ta: "Zarathustra đã nói nhiều chuyện dễ thương, nhất là đối với những người còn trẻ để nghe.

Điều kỳ lạ là Zarathustra biết rất ít đàn bà, nhưng ông ta lại có lý. Thế có phải bởi vì nơi người đàn bà, không có gì là bất khả cả?

Và giờ đây, để bù lại, ngài hãy đón nhận một chân lý nhỏ bé! Ta đã đủ già để có thể nói cho ngài biết!

Ngài hãy bọc nó lại kỹ lưỡng và bịt kín mồm nó, kẻo chân lý nhỏ bé ấy sẽ kêu la quá ồn ào".

Ta bảo: "Bà lão, cứ tặng cho ta chân lý nhỏ bé của bà đi".

Và mụ già loắt choắt ấy nói như thế này: "Khi đến với đàn bà, mi đừng quên mang theo roi".

20. Về vết cắn của con rắn độc

Một ngày nọ Zarathustra nằm ngủ dưới một gốc sung vì trời quá nóng, và Zarathustra gác tay lên trán. Nhưng có một con rắn độc bò đến gần cắn phập vào cổ Zarathustra, vết cắn làm Zarathustra bật lên một tiếng kêu đau đớn. Khi đã cất tay khỏi mặt, Zarathustra chăm chú nhìn con rắn: lúc bấy giờ con rắn nhận ra đôi mắt Zarathustra, nó vặn vẹo thân hình một cách vụng về lúng túng và muốn thoát thân. Nhưng Zarathustra đã bảo: "Đừng, đừng đi, ta còn chưa cám ơn mi mà! Mi đã đánh thức ta đúng lúc, vì con đường ta đi còn dài". Con rắn độc buồn bã trả lời: "Đường của ngươi còn ngắn lắm vì nọc độc ta sắp giết chết ngươi". Zarathustra mỉm cười: "Có khi nào một con rồng lại chết vì nọc độc một con rắn chứ? Nhưng này, mi hãy lấy lại nọc độc! Mi chưa đủ giàu có để tặng cho ta". Con rắn bèn cuộn tròn quanh cổ Zarathustra và đưa lưỡi liếm vết thương.

Một ngày nọ khi Zarathustra thuật lại chuyện này cho các môn đệ nghe, đám môn đệ hỏi hắn: "Hỡi Zarathustra, đâu là ý hướng của câu chuyện ngài kể?" Zarathustra trả lời họ: "Những người thiện hảo và công chính gọi ta là kẻ phá hủy đạo đức: câu chuyện ta vừa kể là vô đạo đức.

Nhưng nếu các ngươi có một kẻ thù, thì đừng lấy thiện trả ác; vì như vậy là sỉ nhục kẻ thù. Tốt hơn, nên tỏ cho hắn thấy là hắn đã làm điều thiện cho các ngươi.

Các ngươi hãy nổi giận hơn là sỉ nhục hắn. Và khi bị kẻ địch nguyền rủa các ngươi đừng nên chúc phúc cho hắn, ta chẳng hài lòng chút nào. Tốt hơn các ngươi nên góp tiếng nguyền rủa trả lại.

Và nếu có người phạm một bất công lớn với các ngươi, các ngươi hãy lập tức đáp ứng bằng cách thêm vào đấy năm bất công nhỏ. Thật là khủng khiếp khi nhìn thấy kẻ không mang gánh nặng nào khác ngoài mỗi mình bất công.

Các ngươi biết điều đó chứ? Một bất công được chia sẻ hầu như đã là một quyền hạn. Và chỉ kẻ nào đủ sức chịu đựng bất công, kẻ ấy mới tự mình nhận lãnh nó.

Trả thù một ít thì có tính chất "chúng sinh" hơn là không trả thù gì cả. Và nếu hình phạt không tạo thành một quyền hạn và một vinh dự cho kẻ phạm tội, ta cũng không thích những hình phạt của các ngươi.

Chẳng thà sai lầm còn cao nhã hơn là nhất mực khăng khăng có lý, nhất là khi người ta có lý thật. Nhưng phải đủ giàu sang mới làm như thế được.

Ta không ưa sự công chính lạnh lẽo của các ngươi, trong đôi mắt quan tòa của các ngươi luôn luôn lấp lóe tia nhìn của đao phủ và ánh chớp của lưỡi gươm buốt giá.

Hãy nói cho ta biết, đâu là nơi có sự công chính, nghĩa là tình yêu với đôi mắt mở to sáng suốt?

Vậy các ngươi hãy sáng tạo nên tình yêu, tình yêu chẳng những chỉ mang chứa tất cả mọi hình phạt mà còn mang chứa tất cả lỗi lầm!

Vậy các ngươi hãy sáng tạo nên công lý, công lý xá tội cho mọi người, trừ kẻ đứng ra xét xử!

Các ngươi còn muốn nghe ta nói lời này chăng? Nơi một kẻ muốn công chính một cách khắt khe, thì chính sự dối trá lại trở thành lòng nhân từ khoan ái với những người khác.

Nhưng làm thế nào ta có thể công chính tuyệt đối được? Làm thế nào ta có thể ban cho mỗi người phần của họ được? Chính điều này là đầy đủ đối với ta: Ta ban cho mỗi người phần của ta.

Sau cùng, hỡi các anh em, hãy đề phòng đừng phạm điều bất công với những ẩn sĩ cô đơn. Làm sao một ẩn sĩ lại có thể quên được? Làm sao y có thể báo trả lại được? Một ẩn sĩ cô đơn cũng tựa như một giếng sâu thăm thẳm. Ném xuống đó một hòn đá là chuyện dễ, nhưng khi hòn đá đã rơi xuống đáy sâu, hãy nói cho ta biết, ai là kẻ sẽ nhặt nó lên?

Hãy coi chừng đừng xúc phạm đến kẻ ẩn sĩ cô đơn. Nhưng nếu các ngươi đã xúc phạm đến ông ta thì, được rồi, cứ giết luôn ông ta đi!"

21. Về con cái và hôn nhân

Ta có một câu hỏi chỉ dành riêng cho ngươi, hỡi người anh em. Giống như một máy thăm dò, ta ném câu hỏi này vào tâm hồn ngươi để biết tâm hồn ngươi sâu thẳm ngần nào.

Ngươi còn trẻ và đang khao khát có vợ con. Nhưng ta hỏi ngươi: Ngươi có phải là một người đàn ông có quyền ao ước một đứa trẻ?

Ngươi có phải là người đã tự chiến thắng bản thân, làm chủ các giác quan cùng các đức hạnh của mình? Ta hỏi ngươi như thế.

Hay là trong ước vọng của ngươi, chỉ có con thú và nhu cầu của con thú lên tiếng? Hoặc sự cô đơn? Hay sự bất hòa với chính bản thân ngươi?

Ta muốn sự chiến thắng và tự do của ngươi khát vọng đến đứa con. Ngươi phải dựng nên những đền điện bằng xương bằng thịt cho sự chiến thắng lẫn giải thoát của ngươi.

Ngươi phải xây dựng một cái gì cao vượt hơn mình. Nhưng trước hết, ngươi phải tự xây dựng chính bản thân, cả thân thể lẫn tâm hồn cho thẳng đứng.

Ngươi không nên chỉ truyền giống ngươi rộng ra, mà còn phải nâng giống ngươi cao lên. [1] Khu vườn hôn nhân có thể giúp ngươi làm điều đó.

Ngươi phải sáng tạo nên một thể xác cốt cách thượng đẳng, một vận chuyển đầu tiên, một bánh xe tự xoay vần, - ngươi phải sáng tạo nên một kẻ sáng tạo.

Hôn nhân: đấy là tên ta dùng để gọi cái ý chí chung đôi muốn sáng tạo nên tạo vật độc nhất vô nhị, vượt bỏ những người đã khai sinh ra nó. Tôn kính lẫn nhau, đấy là hôn nhân; tôn kính kẻ ước muốn một ý chí như thế.

Đấy phải là ý nghĩa và chân lý cho cuộc hôn nhân của ngươi. Còn cái mà những kẻ dư thừa vô tích sự gọi là hôn nhân - ôi, đám đông những kẻ dư thừa vô tích sự! - thời ta sẽ gọi nó bằng gì?

Hỡi ôi! Sự nghèo nàn tâm hồn chung đôi! Hỡi ôi! Sự nhơ nhuốc tâm hồn chung đôi! Hỡi ôi! Sự tự mãn đáng thương chung đôi!

Hôn nhân, đấy, đấy là cái tên bọn họ dùng để gọi tất cả những điều trên; và họ bảo rằng sự phối ngẫu của họ đã được ghi dấu trên trời!

Ờ! Ta không thù ghét chi cái trời của những kẻ dư thừa vô tích sự đó! Không, ta không thù ghét chi những con thú bị vướng lưới trời!

Và hãy tránh xa ta nữa vị Chúa trời khập khễnh bước đến để chúc phúc cho điều mà ông ta không kết hợp!

Ngươi đừng cười những cuộc hôn nhân như thế! Có đứa con nào thiếu cớ khóc cho cha mẹ chúng?

Ta thấy người đàn ông này đáng kính và đã chín mùi để lĩnh hội được ý nghĩa của mặt đất: nhưng khi nhìn thấy vợ y, thì trái đất đối với ta giống như chốn cư trú dành cho những người điên.

- Ừ, ta muốn rằng trái đất phải vặn mình run rẩy khi ta nhìn thấy một bậc thánh rập đôi với một con ngỗng cái.

Có kẻ lên đường như một anh hùng đi tìm chân lý, nhưng chỉ chộp được một sự dối trá ti tiện được trang sức hoa mỹ. Hắn gọi đó là hôn nhân.

Kẻ khác thì e dè trong giao dịch và khó khăn trong lựa chọn. Rồi đột nhiên hắn làm hư hỏng vĩnh viễn kẻ phối ngẫu của mình. Hắn gọi đó là hôn nhân.

Kẻ khác nữa, đi tìm một nữ tỳ có các đức hạnh của một thiên thần. Rồi bỗng hắn biến thành một tỳ nữ, làm tôi mọi cho một người đàn bà, và giờ đây, tự hắn lại cần phải biến thành một thiên thần.

Ta chỉ thấy khắp nơi những kẻ mua bán, đầy thận trọng và tất cả bọn họ đều có đôi mắt gian xảo. Nhưng ngay cả kẻ gian xảo nhất trong bọn cũng mua vợ của mình như mua một con mèo trong túi kín.

Nhiều cơn điên ngắn ngủi thoáng qua, - đấy là điều ngươi gọi là tình yêu. Và hôn nhân của ngươi kết thúc cho nhiều cơn điên ngắn ngủi bằng một sự ngu xuẩn dài hạn.

Tình yêu của ngươi đối với đàn bà và tình yêu của đàn bà đối với đàn ông: A! Giá gì đó là lòng thương dành cho những vị thần đau khổ và che mặt! Nhưng điều thường xảy ra chỉ là hai con thú đánh hơi lẫn nhau.

Và ngay cả tình yêu tuyệt hảo nhất của ngươi cũng chỉ là một ẩn dụ ngây ngất và một nhiệt tình đớn đau. Tình yêu ấy là một ngọn đuốc có nhiệm vụ soi sáng bước chân ngươi trên những con đường cao vời.

Một ngày kia, ngươi phải yêu vượt quá chính ngươi! Vậy thì trước hết, hãy học yêu! Chính vì thế ngươi phải uống cạn chén đắng của tình yêu ngươi.

Có nỗi đắng cay trong chén rượu tình tuyệt vời nhất: như thế, nó gợi dậy trong lòng ngươi nỗi niềm hoài vọng Siêu nhân; như thế nó khiến ngươi thấy khát, hỡi kẻ sáng tạo!

Cơn khát của kẻ sáng tạo, mũi tên của dục vọng bắn về đích Siêu nhân, hỡi người anh em, hãy nói cho ta biết, đấy có phải là ý chí ngươi trong hôn nhân?

Đối với ta, một ý chí như thế và một cuộc hôn nhân như thế là điều linh thánh".

Chú thích:

[1] "Ngươi không nên chỉ truyền giống ngươi rộng ra, mà còn phải nâng giống ngươi cao lên": Nicht nur fort sollst du dich pflanzen, sondern hinauf! Nietzsche chơi chữ với động từ fortpflanzen nghĩa là truyền lan (theo nghĩa sinh vật học) và bứng cây trồng nơi khác, và động từ hinpflanzen nghĩa là nhổ bứng từ một cây gốc đem trồng ra chỗ khác, để sinh ra một cây mạnh mẽ hơn.

22. Về cái chết tự nguyện

Có nhiều người chết quá chậm và một số người lại chết quá sớm. Chúng ta hãy còn xa lạ với câu châm ngôn: "Hãy chết đúng lúc!"

Hãy chết cho đúng lúc: đó là điều Zarathustra đã dạy.

Quả thật, kẻ nào chưa hề sống đúng lúc thì làm thế nào hắn có thể chết cho đúng lúc được. Giá gì hắn đừng bao giờ sinh ra trên mặt đất! - Đấy là điều ta muốn khuyên những kẻ dư thừa vô tích sự.

Nhưng mà những kẻ dư thừa vô tích sự lại gán quá nhiều tầm quan trọng cho cái chết của mình và ngay cả hạt hồ đào trống rỗng nhất cũng muốn được người ta đập vỡ ồn ào.

Tất cả bọn chúng đều xem cái chết là chuyện quan trọng; nhưng cái chết còn chưa là một lễ hội với bọn chúng. Loài người hãy còn chưa biết cử hành những lễ hội tuyệt diệu nhất.

Ta chỉ cho các ngươi thấy cái chết làm cho toàn hảo, cái chết trở thành một kích thích và một hứa hẹn cho những người còn sống.

Người nào đã biết thành tựu vận mệnh mình thì chết cái chết của chính mình như một kẻ chiến thắng, vây quanh là những kẻ tượng trưng cho hy vọng và hứa hẹn.

Chính vì thế, phải học chết, và không bao giờ nên cử hành một lễ hội mà không có một kẻ đang chết như thế để chuẩn nhận lời tuyên thệ của những người sống!

Chết như thế là điều tuyệt nhất; tuyệt thứ nhì là chết ở chiến trận và vung vãi một tâm hồn cao thượng.

Điều khả ố đối với người chiến sĩ cũng như đối với kẻ chiến thắng là cái chết của ngươi, cái chết nhăn mặt nhíu mày bò lê bò lết như một tên trộm, nhưng lại đến như một ông chủ thống trị.

Ta ca tụng cái chết của ta, cái chết tự nguyện, cái chết đến với ta bởi vì ta muốn chết.

Và ta muốn chết khi nào? - Bất cứ kẻ nào có một mục tiêu và một kẻ kế thừa đều chọn cái chết vào lúc thuận tiện nhất cho mục tiêu và cho kẻ kế thừa đó.

Vì lòng tôn kính đối với mục tiêu và kẻ kế thừa, hắn sẽ không còn treo những vòng hoa tàn úa trong thánh điện của đời sống nữa.

Thật ra, ta không muốn giống với những kẻ bện dây: họ kéo những sợi dây con theo chiều dài và cứ luôn luôn đi giật lùi.

Cũng có những kẻ trở thành quá già đối với những chân lý và những chiến thắng của họ; một cái miệng rụng hết răng thì không còn quyền gì đối với tất cả mọi chân lý.

Kẻ nào thèm khát vinh quang phải biết cáo từ những vinh dự cho đúng lúc và thực hành cái nghệ thuật khó khăn, nghệ thuật bỏ đi đúng lúc.

Khi mình hợp khẩu vị nhất thì phải biết đừng; những kẻ muốn được yêu mến lâu dài đều biết rõ điều ấy.

Cố nhiên, có những quả táo chua xanh ngắt mà số phận của nó là đợi chờ đến ngày cuối Thu, để đột ngột trở thành chín vàng, nhăn nhíu.

Nơi người này, quả tim già trước, nơi kẻ khác, tinh thần. Và một vài kẻ già ngay từ tuổi thanh xuân: nhưng tuổi trẻ đến muộn là tuổi trẻ tồn tại lâu dài nhất.

Cũng có kẻ hư hỏng cả sự sống: một con sâu độc gặm nhấm tim hắn. ít ra, họ cũng phải thành tựu cái chết của mình cho tốt đẹp hơn.

Cũng có quả chẳng bao giờ trở thành ngọt ngào và bị hoàn toàn thối nhũn ngay từ mùa Hạ. Chính sự hèn nhát đã giữ chúng lại trên cành.

Có quá nhiều quả cứ tiếp tục sống và treo lủng lẳng trên cành quá lâu. Cầu mong một trận bão thổi rơi tất cả những quả nào thối nhũn và bị sâu ăn.

Mong sao những kẻ rao giảng "cái chết nhanh chóng" xuất hiện! Chính họ là những cơn bão đích thực lay động cây nhân sinh! Nhưng ta chỉ muốn rao giảng cái chết chậm chạp và lòng kiên trì đối với tất cả những gì thuộc về "mặt đất" trần gian.

Hỡi ơi! Ngươi rao giảng lòng kiên trì đối với tất cả những gì thuộc về "mặt đất" trần gian ư? Chính trần gian đã quá kiên nhẫn đối với các ngươi, hỡi những kẻ báng bổ!

Thật ra, gã Do Thái được những kẻ rao giảng cái chết chậm chạp tôn thờ kia đã chết quá sớm và đối với nhiều người, quả là tai ương vì gã đã chết quá sớm như thế.

Gã Do Thái ấy chỉ mới biết đến những dòng lệ cùng nỗi buồn của người Do Thái, cũng như lòng thù hận của những kẻ thiện hảo và công chính: rồi ước vọng chết đột ngột vồ chụp lấy gã.

Giá như gã chỉ sống ở sa mạc, xa cách tất cả những con người thiện hảo và công chính, khi đó có lẽ gã đã học sống, học yêu thương trái đất, - và học cười nữa!

Hãy tin ta, hỡi các anh em! Gã đã chết quá sớm; có lẽ gã sẽ chối bỏ học thuyết của mình, nếu gã sống bằng tuổi ta hiện giờ! Gã đủ cao nhã tâm hồn để tự chối bỏ chính mình như thế.

Nhưng gã hãy còn chưa chín chắn. Tình yêu của người thanh niên đó chưa chín mùi và vì thiếu sự trưởng thành, gã thù hận loài người cùng mặt đất trần gian. Nơi con người gã, linh hồn với đôi cánh bay của tư tưởng hãy còn bị buộc chặt, nặng nề.

Nhưng nơi người đàn ông có chất trẻ con nhiều hơn nơi người thanh niên; và cũng có ít buồn bã u sầu hơn: người đàn ông hiểu rõ cái chết và sự sống hơn.

Tự do để chết và tự do trong cái chết, vị thánh thốt lên tiếng không thiêng liêng, khi thời gian để nói vâng đã qua rồi: người đàn ông hiểu chết và sống như thế.

Ới những bằng hữu, sao cho cái chết của các ngươi đừng là một sự báng bổ đối với con người và trần thế: đó là ân huệ ta xin được hưởng từ mật ngọt tâm hồn các ngươi.

Sao cho trong nỗi thống khổ, tinh thần cùng đức hạnh các ngươi vẫn chiếu rọi, như sắc đỏ của hoàng hôn cháy hồng mặt đất: bằng không thì cái chết của ngươi không thành tựu được.

Hỡi các bạn, ta muốn chính ta chết như thế đó, để cho các bạn yêu thương mặt đất trần gian hơn, và ta muốn về lại với đất để tìm thấy sự an nghỉ trong lòng đất đã sinh ta.

Thật ra, Zarathustra có một mục tiêu, hắn đã ném quả cầu mình về phía mục tiêu, giờ đây, hỡi các bạn, vì các bạn thừa tự mục tiêu của ta, ta ném quả cầu vàng óng ánh về phía các bạn.

Hỡi các bạn, trên tất cả mọi sự, ta thích nhìn thấy đến phiên các bạn ném quả cầu vàng. Vì vậy ta mới còn nấn ná ít lâu trên mặt đất. Hãy tha thứ cho ta điều đó!"

23. Về đức hạnh ban phát1. Khi Zarathustra đã cáo biệt thị trấn hắn yêu mến, thị trấnmang tên "Con Bò Tạp Sắc", nhiều người trong số những kẻ tự nhận là môn đệ củaZarathustra tiễn chân và theo đưa hộ tống hắn. Họ cứ đi như thế đến một ngã tư,tại đây Zarathustra bảo rằng hắn muốn một mình cô đơn đi tiếp con đường, vì hắnlà bạn thân của những cuộc lữ hành cô độc. Khi ngỏ lời chào từ biệt, các môn đệdâng tặng hắn một cây thiền trượng có đầu cầm bằng vàng chạm hình một con rắn nằmcuộn quanh mặt trời. Zarathustra vui thích vì cây thiền trượng và đứng tỳ taylên đó; đoạn Zarathustra nói với các môn đệ như thế này:

"Hãy nói cho ta biết, vì sao vàng lại có được giá trị cao quý nhất? Chính vì vàng hiếm hoi, vô dụng, rực rỡ và hiền dịu trong vẻ huy hoàng của nó; vàng luôn luôn tự ban phát chính mình.

Chỉ với tư cách biểu tượng cho đức hạnh tôn quý nhất, vàng mới đạt đến giá trị cao cả nhất. Cái nhìn của kẻ ban phát cũng lóe sáng như vàng. Vẻ rực rỡ của vàng hòa giải mặt trăng với mặt trời.

Đức hạnh tôn quý nhất thì hiếm hoi, vô dụng; đức hạnh ấy lóe sáng, rực rỡ dịu hiền: một đức hạnh ban phát là đức hạnh tôn quý nhất.

Thật ra, hỡi các môn đệ, ta biết rõ các ngươi: cũng như ta, các ngươi khát vọng đến đức hạnh ban phát. Các ngươi có điểm gì chung với những con mèo và những con sói?

Các ngươi khao khát sao cho chính mình được trở thành những lễ vật và tặng vật: chính vì thế các ngươi đã khao khát thâu nhặt tất cả những sự giàu sang trong tâm hồn các ngươi.

Tâm hồn các ngươi khao khát triền miên không mỏi mệt những kho tàng cùng những bảo ngọc, bởi vì đức hạnh các ngươi không nhàm chán trong ý chí muốn ban phát.

Các ngươi cưỡng bách mọi sự đi đến với mình, đi vào trong mình, để cho sau đó, chúng vọt trào ra từ suối nguồn của các ngươi như những tặng vật của tình yêu các ngươi.

Thực ra, phải có một tình yêu ban phát như thế mới làm được kẻ trộm cướp mọi giá trị; ta gọi lòng ích kỷ ấy là lòng ích kỷ lành mạnh và linh thánh.

Còn một thứ ích kỷ khác, một thứ ích kỷ quá nghèo nàn, đói khát, chỉ chực tìm cơ hội để đánh cắp, đấy là lòng ích kỷ của những con người bệnh hoạn, lòng ích kỷ bệnh hoạn.

Lòng ích kỷ bệnh hoạn ấy nhìn tất cả những gì chói sáng với con mắt của tên trộm, với sự thèm thuồng đói khát, nó đánh giá kẻ có thức ăn dồi dào, và nó luôn luôn lởn vởn chung quanh bàn của kẻ ban phát.

Một sự thèm thuồng tham lam như thế là giọng nói của sự bệnh hoạn và của một sự thoái hóa vô hình; giữa lòng sự ích kỷ đó, sự thèm thuồng trộm cắp biểu lộ một thân xác bệnh hoạn.

Hỡi các anh em, hãy nói cho ta biết, các anh em thấy điều nào là xấu xa đối với chúng ta và xấu xa hơn hết thảy? Không phải là sự thoái hóa suy đồi sao? - Và chúng ta luôn luôn tiên cảm một sự thoái hóa suy đồi mỗi khi thiếu vắng linh hồn ban phát.

Con đường hướng thượng của chúng ta leo từ một chủng loại đến một chủng loại cao cả hơn. Nhưng chúng ta rùng mình sợ hãi khi cảm quan thoái hóa suy đồi lên tiếng: "Tất cả mọi sự cho ta".

Cảm quan chúng ta bay đến những đỉnh cao: như thế, nó là một biểu tượng cho thân xác ta, biểu tượng của một sự bay cao. Các biểu tượng của những sự bay cao này là tên gọi của đức hạnh.

Thân xác băng qua lịch sử như thế đó: thân xác biến dịch và chiến đấu. Còn tinh thần tinh thần là gì đối với thân xác? Tinh thần là kẻ tiên báo cho những chiến đấu và những chiến thắng của thân xác, là kẻ đồng hành và vọng âm của thân xác.

Tất cả những tên gọi của thiện, ác đều là những ẩn dụ: những tên gọi không biểu thị cái gì cả, chúng chỉ gợi ý ám chỉ mà thôi. Kẻ nào điên cuồng mới muốn có tri thức về chúng!

Hỡi các anh em, hãy coi chừng giờ phút mà tinh thần anh em muốn lên tiếng nói bằng ẩn dụ; đấy chính là nguồn phát sinh đức hạnh của các anh em.

Vào giây phút đó, thân xác các anh em được nâng lên cao vượt và được tái sinh. Niềm hoan hỉ say sưa của thân xác làm hoan lạc tinh thần để tinh thần biến thành kẻ sáng tạo, phán đoán và yêu thương, để tinh thần làm kẻ thiện ích cho tất cả mọi sự.

Khi tâm hồn anh em trào bọt, mênh mông, lênh láng tựa một con sông, sự chúc phúc và mối nguy hiểm cho những kẻ ở ven sông, thì đó là nguồn gốc khai sinh ra đức hạnh các anh em.

Khi các anh em tự nâng hồn lên cao khỏi lời tán tụng và sỉ nhục, khi ý chí của các anh em

- ý chí của một con người tràn đầy yêu thương - muốn ban lệnh điều động mọi sự: thì đấy là nguồn gốc của đức hạnh các anh em.

Khi các anh em khinh bỉ những gì dễ dãi tiện nghi, chỗ nằm êm ấm, khi các anh em không thể nằm nghỉ đủ xa khỏi những giường êm: đấy là nguồn gốc của đức hạnh các anh em.

Khi các anh em chỉ còn một ý chí duy nhất và khi các anh em gọi sự chấm dứt mọi nhu cầu là "điều tất yếu": thì đấy là nguồn gốc của đức hạnh các anh em.

Thực ra, đó là một "thiện và ác" mới mẻ! Thực ra, đó là một tiếng thầm thì sâu thẳm tinh khôi và là giọng nói của một nguồn suối mới!

Đức hạnh tinh khôi ấy ban phát sức mạnh; đức hạnh tinh khôi ấylà một tư tưởng trỗi bật hẳn lên và chung quanh tư tưởng ấy, là một linh hồn hiềnminh: một mặt trời bằng vàng, chung quanh mặt trời là con rắn tri thức". 2. Nóiđến đây Zarathustra im lặng một lúc rồi đưa mắt từ ái nhìn các môn đệ. Đoạn,Zarathustra nói tiếp như thế này, giọng nói của hắn đã đổi khác:

"Hỡi các anh em, hãy trung thành với mặt đất bằng tất cả sức mạnh của đức hạnh các anh em! Ước gì tình yêu ban phát quảng đại và tri thức của anh em sẽ dùng làm ý nghĩa cho mặt đất. Đó là điều ta van xin, ta khẩn cầu nơi các anh em.

Đừng để đức hạnh các anh em bay bổng khỏi những sự vật trần gian rồi va cánh vào những vách tường vĩnh cửu! Hỡi ôi! Luôn luôn có vô số những đức hạnh lạc đường bay!

Hãy như ta, các anh em hãy đưa dẫn đức hạnh lạc lối trở về lại với mặt đất trần gian vâng, hãy đưa dẫn đức hạnh đó về với thân xác và sự sống; để nó có thể ban cho mặt đất một ý nghĩa, một ý nghĩa nhân bản!

Tinh thần và đức hạnh bị lạc đường, bị khinh bỉ bằng trăm nghìn lối. Hỡi ơi! Trong thân xác ta, vẫn còn mang chứa cơn điên rồ cùng sự khinh bỉ đó: chúng đã trở thành thân xác và ý chí!

Từ trước đến nay tinh thần cùng đức hạnh đã bị thử thách, bị lạc đường theo trăm nghìn lối. Vâng, con người chỉ là một phác họa thí nghiệm. Hỡi ơi! Biết bao nhiêu vô minh và sai lầm đã trở thành thịt da xương máu chúng ta!

Không phải chỉ có lý trí của hàng bao nhiêu thế kỷ, nhưng cả cơn điên cuồng cũng nổ vỡ trong ta. Làm kẻ thừa tự là điều nguy hiểm.

Chúng ta hãy còn chiến đấu dần dà từng bước một với gã khổng lồ Ngẫu nhiên hay Tình cờ, và cho đến nay, sự phi lý, vô nghĩa vẫn còn ngự trị trên toàn thể nhân loại.

Hỡi các anh em, ước sao tinh thần cùng đức hạnh các anh em dùng làm ý nghĩa cho mặt đất, và giá trị của mọi vật phải được canh tân lại do bàn tay các anh em! Chính vì thế các anh em phải chiến đấu, chính vì thế các anh em phải là những kẻ sáng tạo.

Thân xác tự thanh lọc bằng tri thức, thân xác vươn cao lên bằng những thí nghiệm với tri thức; trong con người yêu mến phụng sự tri thức, tất cả mọi bản năng đều được thánh hóa; linh hồn của kẻ được nâng cao trở thành tươi vui hoan lạc.

Hỡi y sĩ, hãy tự giúp mình rồi ngươi sẽ giúp bệnh nhân của ngươi. Sự trợ giúp hay nhất đối với bệnh nhân là chỉ cho hắn thấy tận mắt một người đã tự điều trị cho mình khỏi bệnh.

Có cả ngàn con đường chưa từng ai đặt chân đến, có cả ngàn sức khỏe và cả ngàn hòn đảo ẩn kín của đời sống. Cả ngươi lẫn đất đai của con người vẫn còn chưa khô cạn và chưa được khám phá trọn vẹn.

Hãy thức tỉnh, hãy lắng nghe, hỡi những con người cô đơn! Từ tương lai thổi lại những hơi gió với những tiếng đập cánh bí mật; và một tin vui đang vang dội trong những lỗ tai tinh tế.

Hỡi những kẻ cô đơn hôm nay, các ngươi, những kẻ sống riêng biệt một góc trời, một ngày kia các ngươi sẽ tạo thành một dân tộc; các ngươi, những tinh hoa của loài người, một ngày kia các ngươi sẽ tạo thành một dân tộc tinh hoa, - và chính từ dân tộc đó Siêu nhân mới xuất sinh.

Thực ra, một ngày kia mặt đất sẽ trở nên một chốn bình phục! Một mùi hương mới đã bao phủ trái đất, một mùi hương giải thoát - và một hy vọng mới!"

3. Khi Zarathustra nói xong những lời trên, hắn im lặng, nhưmột kẻ chưa nói hết lời cuối cùng của mình. Hắn cứ dùng tay nhấc nhấc chiếc thiềntrượng một lúc lâu với dáng điệu do dự bất quyết. Sau cùng, Zarathustra nói nhưthế này, và giọng nói hắn đã đổi khác:

"Hỡi các môn đệ! Giờ đây ta sẽ bỏ đi một mình! Cả các ngươi nữa, các ngươi cũng phải bỏ đi một mình! Ta muốn thế.

Thực ra, ta khuyên các ngươi điều này: hãy xa lánh ta và hãy coi chừng Zarathustra! Hơn nữa, các ngươi hãy hổ thẹn vì Zarathustra! Có lẽ hắn đã lừa gạt các ngươi.

Kẻ tìm kiếm tri thức thì không những phải biết yêu thương kẻ thù mà còn phải biết thù ghét những bạn hữu của mình.

Ta báo đền ơn thầy mình một cách tệ hại nếu ta cứ mãi mãi làm học trò. Và tại sao các ngươi lại không muốn giật lấy những chùm nguyệt quế trên vương miện ta?

Các ngươi sùng bái ta; nhưng chuyện gì sẽ xảy đến nhất đán một ngày kia lòng sùng bái của các ngươi đổ nhào? Hãy coi chừng đừng để bị đè bẹp vì một pho tượng!

Các ngươi bảo các ngươi tin vào Zarathustra? Nhưng nào sá gì Zarathustra! Các ngươi là những tín đồ quy ngưỡng nơi ta: nhưng nào sá gì tất cả mọi tín đồ!

Các ngươi hãy còn chưa gặp gỡ chính bản thân mình, thế mà các ngươi đã tìm thấy ta! Tất cả mọi tín đồ đều hành động như thế; chính vì thế đức tin chẳng đáng giá gì.

Giờ đây ta ra lệnh cho các ngươi hãy đánh mất ta và tìm gặp chính bản lai diện mục của các ngươi; chỉ khi nào tất cả các ngươi đều chối bỏ phủ nhận ta, lúc đó ta mới trở lại cùng các ngươi.

Hỡi các anh em, thật ra lúc đó ta sẽ dõi tìm những môn đệ thất lạc của ta bằng một con mắt khác; lúc đó ta sẽ yêu thương các ngươi bằng một tình yêu khác.

Và một ngày kia các ngươi sẽ lại là những bằng hữu của ta và những đứa con của một hy vọng độc nhất: lúc bấy giờ ta muốn có mặt giữa các ngươi, một lần thứ ba, để cùng với các ngươi hành lễ Đại Ngọ Thiên.

Sẽ là lúc Đại Ngọ Thiên khi nào con người ở giữa đường dẫn từ con thú đến Siêu nhân, khi nào con người hành lễ ca tụng con đường dẫn đến buổi hoàng hôn tàn tạ của mình như là nỗi niềm hy vọng mênh mông cao tuyệt nhất của đời mình, vì đấy là con đường dẫn đến một bình minh mới.

Lúc bấy giờ, kẻ đi xuống tàn tạ sẽ tự chúc phúc cho mình vì được bước vào một địa cầu mới; và mặt trời của tri thức hắn sẽ đạt đến thiên đỉnh.

Tất cả mọi thần linh đều đã chết: giờ đây chúng ta muốn cho Siêu nhân được sống! Câu nói trên một ngày kia, vào buổi đại ngọ thiên, phải là ý chí tối thượng của chúng ta!" 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #zarathustra