65
Cuộc đàm phán giữa hai miền Nam-Bắc chưa kết thúc, nhưng nội chiến Mỹ về thực chất đã đi đến hồi kết. Cả các cường quốc châu Âu lẫn người dân Mỹ đều không muốn cuộc chiến này tiếp diễn.
Đây không phải ý chí của một cá nhân có thể đảo ngược. Những gì còn lại chỉ là thương lượng điều kiện.
Để thể hiện thiện chí, cả hai phe đã ngừng mọi hành động quân sự, kể cả việc đình chỉ động viên binh lực đang diễn ra.
Về mặt chiến lược, mục tiêu làm suy yếu nước Mỹ đã cơ bản đạt được. Giờ đây chỉ còn thiếu một bản hiệp ước chính thức để chia cắt quốc gia này.
Điều này không chỉ mang lại lợi ích, mà còn kéo theo hàng loạt vấn đề. Ví dụ, ngành bông và dệt cotton của Áo sẽ chịu cú sốc lớn.
Tận dụng thời cơ nguồn cung bông quốc tế khan hiếm do nội chiến Mỹ, ngành dệt Áo – với nguồn nguyên liệu dồi dào – đã vươn lên mạnh mẽ, chiếm lĩnh thị trường châu Âu từ tay người Anh.
Hiện tại, sản phẩm dệt Anh đang dần bị đẩy ra khỏi Đông Âu, Nam Âu và Trung Âu.
Trước đây, do thiếu hụt nguyên liệu, Anh dù muốn cũng không thể cạnh tranh khi Áo chiếm lĩnh thị trường.
Giờ đây, mọi chuyện đã khác. Khi nội chiến kết thúc, sản lượng bông Mỹ sẽ sớm phục hồi. Với nguồn nguyên liệu dồi dào, giới tư bản Anh chắc chắn sẽ quay lại giành thị phần.
Thị trường là mạch sống của mọi quốc gia công nghiệp. Là nước tiên phong trong cách mạng công nghiệp, Anh từng chiếm hơn nửa sản lượng công nghiệp toàn cầu.
Dù tỷ trọng giảm sau khi Pháp và Áo hoàn thành công nghiệp hóa, Anh vẫn vững vàng ở vị trí số một.
Nhưng nghịch lý là "công xưởng thế giới" này luôn trong tình trạng nhập siêu.
Năm 1864, kim ngạch xuất khẩu Anh đạt 215 triệu bảng, trong khi nhập khẩu lên tới 275 triệu bảng, thâm hụt 60 triệu bảng.
Cùng kỳ, Pháp xuất siêu 440 triệu franc (tương đương 17,6 triệu bảng), còn Áo xuất siêu 59 triệu florin (khoảng 29,5 triệu bảng).
Ngay cả Nga cũng xuất siêu 1,2 triệu rúp nhờ lợi thế xuất khẩu ngũ cốc – chiếm quá nửa kim ngạch.
Áo đạt thặng dư lớn nhờ nông sản, đặc biệt là lương thực – mặt hàng thiết yếu mà Anh phải nhập khẩu nhiều từ châu Âu.
Để giải quyết nhập siêu, các chính phủ Anh đã đau đầu tìm cách. Tài nguyên nội địa hạn chế buộc họ phải bù đắp bằng cách vơ vét thuộc địa.
Chiến tranh Nha phiến trong lịch sử chính là hệ quả từ nỗ lực xóa bỏ thâm hụt thương mại của Anh.
Giờ đây, khi thị trường bị tư bản Áo chiếm lĩnh, Anh chắc chắn không ngồi yên. Dù chưa đến mức lật bàn, nhưng xung đột này đủ khiến hai nước đối đầu.
Dù vậy, Anh không thể dùng vũ lực – đây là cạnh tranh công bằng. Khi Áo chớp thời cơ填补 khoảng trống nguyên liệu, Anh không đủ sức chờ thị trường trống trải.
Sau nội chiến, sản lượng bông miền Nam Mỹ có thể phục hồi chỉ trong năm tới, thậm chí tăng trưởng nhờ lao động nhập cư.
Liên minh miền Nam có lợi thế đất đai màu mỡ, năng suất bông cao hơn các vùng khác.
Dù năng suất thấp có thể bù bằng mở rộng diện tích, nhưng chi phí lao động vẫn tăng.
Lịch sử chứng kiến miền Bắc chiến thắng, khiến chủ đồn điền miền Nam mất nguồn lao động giá rẻ, bông giảm sản lượng và đối mặt với cạnh tranh từ Ấn Độ, Ai Cập.
Nguyên nhân chính là giới tư bản miền Bắc cần nguyên liệu rẻ, dùng thuế quan và phí vận tải đường sắt để triệt hạ khả năng cạnh tranh của bông Mỹ.
Hiện tại, Ấn Độ chưa đủ sản lượng, Ai Cập bị Pháp-Áo cản trở việc trồng bông do đào kênh Suez. Đối thủ duy nhất của Mỹ trên thị trường bông là Tây Phi.
Khi nguồn cung toàn cầu chưa dư thừa, cạnh tranh với Tây Phi là không khôn ngoán. Áo đủ khả năng hấp thụ phần lớn sản lượng bông Tây Phi.
Nhưng tương lai, khi bông Ấn Độ và Ai Cập gia nhập, cuộc đua sẽ trở nên khốc liệt.
Franz buộc phải tính toán trước bài toán kép: vừa cạnh tranh dệt may với Anh, vừa tranh thị phần bông với Mỹ, Ai Cập, Ấn Độ.
**Tại Cung điện Schönbrunn**
"Chủ đề hôm nay có hai: Một, làm thế nào giữ thị phần dệt may châu Âu; Hai, bảo vệ lợi ích nông dân trồng bông," Franz tuyên bố.
Thời đại này, ngành dệt chiếm vai trò chủ đạo. Dù không phải ngành mũi nhọn, nhưng nhờ nội chiến Mỹ, dệt may Áo đã bứt phá – không thể bỏ rơi.
Hiện có 1,2 triệu công nhân dệt tại Bayern, Württemberg, Lombardia, Veneto... Tổng lao động liên quan lên tới 2,5 triệu người.
Họ sống nhờ ngành dệt, buộc chính phủ Vienna phải bảo vệ. Xung đột thương mại Anh-Áo không thể tránh.
Bảo vệ chủ đồn điền – phần lớn là quý tộc – càng cấp thiết.
Tầng lớp quý tộc, sau khi bán đất cho nhà nước, đã đổ vốn vào đồn điền thuộc địa. Đầu tư nông nghiệp thời này vẫn sinh lời không kém ngành khác.
Franz, đại diện giai cấp quý tộc, phải cân nhắc lợi ích của họ – yếu tố then chốt duy trì hệ thống thuộc địa.
Thủ tướng Kinh tế Andrew tâu: "Kính bệ hạ, Bộ Kinh tế đã có kế hoạch. Chúng ta có thể dùng biện pháp chính trị để giữ thị trường Nga và nội địa.
Nam Italy đang nội chiến, thị trường teo tóp, không phải mục tiêu của Anh.
Chiến trường chính là Trung Âu: Liên bang Đức, Phổ, Thụy Sĩ, Hà Lan... Pháp cũng có thể gia nhập, nhờ nền kinh tế đang lên.
Để tăng sức cạnh tranh, Bộ đề xuất trợ cấp hoàn thuế cho doanh nghiệp dệt."
Giải pháp đơn giản nhưng hiệu quả. Khi công nghệ và chất lượng tương đồng, chính sách là yếu tố quyết định.
Lịch sử chứng kiến ngành dệt Anh sụp đổ dưới các gói trợ cấp của đối thủ. Một khi mất lợi thế công nghệ, cạnh tranh trở thành cuộc đua đốt tiền.
Franz hiểu rõ điều này. Áo chỉ có thể tranh thủ thời gian đánh bại Anh, nhưng khi Anh phản đòn, Áo sẽ thiệt hại nặng.
Mỗi triệu florin Áo chi ra, Anh phải bỏ ba triệu – cuộc chơi hủy diệt mà cả hai đều tránh.
Đại thần Nông nghiệp Christian nói: "Bông và dệt may là hai mặt của đồng xu. Miễn ngành dệt tồn tại, đồn điền Tây Phi sẽ không sụp đổ.
Để tăng sức cạnh tranh bông Tây Phi, ta có thể giảm – thậm chí xóa bỏ – thuế nội địa-thuộc địa."
Áo vốn chú trọng phát triển thuộc địa, dù vẫn ưu tiên nội địa.
Để tránh nông sản thuộc địa giá rẻ冲击 thị trường, thuế nội địa-thuộc địa luôn cao hơn thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, xu hướng nhất thể hóa đang mạnh. Giới đầu tư đồn điền – phần lớn là quý tộc – muốn sáp nhập thuộc địa vào lãnh thổ.
Tây Phi, Congo, Nigeria đã áp dụng luật nội địa và từng bước chuyển sang chế độ tỉnh.
Là thế hệ thực dân đầu tiên, họ gắn bó máu thịt với quê hương. Nhiều người thúc đẩy nhất thể hóa, trong đó có Franz.
Nhưng chính phủ Vienna thận trọng, chỉ dám thí điểm chế độ tỉnh tại các thuộc địa phát triển.
Giảm thuế nội địa-thuộc địa sẽ là bước tiến mới. Franz suy nghĩ片刻, rồi hỏi: "Về lý thuyết không vấn đề, nhưng điều này ảnh hưởng đến tiến trình nhất thể hóa 'Đức thứ hai'.
Hãy thăm dò phản ứng trong nước và mời chuyên gia phân tích tác động."
Đây là cách công khai hóa vấn đề. Từ trước đến nay, cơ sở pháp lý cho nhất thể hóa thuộc địa là học thuyết "Tổ ấm Đức thứ hai" do Franz đề xướng.
Nếu châu Phi đã là "Tổ ấm thứ hai", việc sáp nhập vào "Tổ ấm thứ nhất" là hợp lý.
Nhưng đây chỉ là đồn đoán dân gian. Lực lượng thúc đẩy nhất thể hóa chủ yếu là giới đầu tư đồn điền, trong khi phe phản đối – quý tộc và nông dân nội địa – sợ nông sản giá rẻ tràn vào.
Hiện tại, nông sản thuộc địa không rẻ – thậm chí đắt đỏ do thiếu lao động và đất mới khai phá.
Hai vùng lương thực chính của Áo – với đất đai màu mỡ và cơ sở hạ tầng hoàn thiện – vượt trội hơn hẳn thuộc địa.
Về lâu dài, Franz biết rõ: Một khi phân bón hóa học ra đời, lợi nhuận nông nghiệp sẽ giảm mạnh.
Dù có hay không nông sản thuộc địa, nông nghiệp nội địa vẫn chịu ảnh hưởng. Các nước nhập khẩu lương thực sẽ tăng sản lượng nhờ phân bón, khiến thị trường quốc tế co hẹp.
Vì thế, Áo không thể phát triển phân bón – ít nhất là trước khi công nghiệp đủ mạnh. Lịch sử chứng minh: Người Đức phát minh phân bón, nhưng người Pháp mới là kẻ hưởng lợi – thoát khỏi khủng hoảng lương thực và trở thành cường quốc xuất khẩu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com