Chương 28: Phát hiện thấy cá chiên Bơ rùa-kền kền kiểu Dodo phun mắm tôm
{"Mä đạö-cụ tạö tác" ñghỉä là gì thế nhỉ?} (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
{Vậÿ rä đó là cái vòng taÿ, mà chị ta đả đeö àh, hửmh...} (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
{Nhưng mà nó củñg có thể là lưởi đaö gió và lời ngüyền mà cô ta đả sử từ một nhân tố nào đố khác thì phải} (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
Ngủ gật đi...
- ...Mà thôi, cứ để kệ nó đi, mình chẳng việc gì mà phải ßận tâm làm chi (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
- ARGENT!! LÀM ƠN DẬY ĐI!! (Behäki)
- Phoê
Là anh bạn-Behäki đó àh... (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
Rầm rập rầm rập
- CÓ CÁI GÌ ĐÓ...MÀ TẠI HẠ CHƯA TỪNG THẤY NÓ BAO GIỜ...TRÔNG CÓ VẺ RẤT CHI LÀ NGUY HIỂM
GÚÚUUAAAAAA
- Ở TRÊN KIA KÌA!!
KÝÝYUUUUAAAA
- COI CHỪNG CƠN MƯA NỌC ĐỘC CỦA NÓ!! (Behäki)
- Đó... (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
- "Kể từ giờ phút nàÿ trở đi, chúñg tä hảÿ gọi cön đực đó là 《Ngài cá chiên ßơ rùä-kền kền kiểü * Dodo *》, vì nó có vâÿ cá nè, đầu trụi tròn theö kiểü kền kền nè, và cả cái mai rùä đồ sộ như áö giáp ñửa..." (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
《Dodo / Chim cưu》
☆ Dodo (Raphus cucullatus) là một loài chim không biết bay đã tuyệt chủng, là loài đặc hữu của đảo Mauritius, phía đông Madagascar ở Ấn Độ Dương. Họ hàng di truyền gần nhất của dodo là loài Rodrigues solitaire cũng đã tuyệt chủng, cả hai tạo thành phân họ Raphinae của gia đình bồ câu và bồ câu. Họ hàng gần nhất của dodo là chim bồ câu Nicobar. Một dodo trắng từng được cho là đã tồn tại trên hòn đảo Réunion gần đó, nhưng hiện nay người ta cho rằng điều này là do nhầm lẫn dựa trên những bức tranh vẽ dodos của Réunion cũng đã tuyệt chủng. Các di tích của con chó con cho thấy dodo cao khoảng 1 mét (3 ft 3 in) và có thể nặng 10,6-17,5 kg (23-39 lb) trong tự nhiên. Sự xuất hiện của dodo trong cuộc sống chỉ được chứng minh bằng các bản vẽ, tranh vẽ và các tài liệu viết từ thế kỷ 17. Vì chúng khác nhau đáng kể, và chỉ một số hình minh họa được biết là được vẽ từ các mẫu vật sống, sự xuất hiện chính xác của nó trong cuộc sống vẫn chưa được giải đáp và người ta biết rất ít về hành vi của nó. Mặc dù dodo trước đây được coi là béo và vụng về, nhưng hiện nay nó được cho là đã thích nghi tốt với hệ sinh thái của nó. Nó được mô tả với bộ lông màu xám nâu, bàn chân màu vàng, một chùm lông đuôi, đầu màu xám, trần trụi và mỏ màu đen, vàng và xanh lục. Nó sử dụng đá mề đay để giúp tiêu hóa thức ăn, được cho là có cả trái cây, và môi trường sống chính của nó được cho là những khu rừng ở các vùng ven biển khô hạn của Mauritius. Một tài khoản cho biết bộ ly hợp của nó bao gồm một quả trứng duy nhất. Người ta cho rằng dodo trở nên không biết bay vì sự sẵn có của nguồn thức ăn dồi dào và sự vắng bóng tương đối của những kẻ săn mồi trên Mauritius. Lần đầu tiên được ghi nhận về dodo là do các thủy thủ Hà Lan thực hiện vào năm 1598. Trong những năm sau đó, loài chim này bị săn đuổi bởi các thủy thủ và các loài xâm lấn, trong khi môi trường sống của nó đang bị phá hủy. Lần nhìn thấy dodo cuối cùng được chấp nhận rộng rãi là vào năm 1662. Sự tuyệt chủng của nó không được chú ý ngay lập tức, và một số người coi nó là một huyền thoại. Vào thế kỷ 19, nghiên cứu đã được tiến hành trên một lượng nhỏ hài cốt của bốn mẫu vật đã được đưa đến châu Âu vào đầu thế kỷ 17. Trong số này có một cái đầu đã khô, mô mềm duy nhất của dodo còn lại cho đến ngày nay. Kể từ đó, một lượng lớn vật liệu phụ đã được thu thập trên Mauritius, chủ yếu từ đầm lầy Mare aux Songes. Sự tuyệt chủng của dodo trong vòng chưa đầy một thế kỷ sau khi phát hiện ra nó đã thu hút sự chú ý đến vấn đề chưa được công nhận trước đây về sự tham gia của con người vào sự biến mất của toàn bộ loài. Dodo đã đạt được sự công nhận rộng rãi từ vai trò của nó trong câu chuyện Cuộc phiêu lưu của Alice ở xứ sở thần tiên, và kể từ đó nó đã trở thành một vật cố định trong văn hóa đại chúng, thường là biểu tượng của sự tuyệt chủng và lỗi thời
SỐC-NẶNG
- NẾU MÀ CÔ NƯƠNG CÓ THỂ BÌNH CHÂN NHƯ VẠN ĐỂ MÀ ĐẶT TÊN CHO NÓ NHƯ THẾ NẦY, THÌ CHÍ ÍT TRƯỚC HẾT XIN HẢY LÀM GÌ ĐÓ ĐI CHỚ!! (Behäki)
- "Nó đúng là sự kết hợp tüyệt vời ông mặt trời giửä đầu trụi tròn theö kiểü kền kền và cả cái mai rùä đồ sộ như áö giáp, chắc thế..." (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
Hồng nhan tràn đầy vẻ mản nguyện
Ánh hào quang của hoàng kim
- CON LẬY MẸ TRẺ LÀM ƠN THÔI NGAY CÁI KIỂU TÂM HỒN MỘNG MƠ BAY TRÔI GIỬA DẢI-NGÂN HÀ VÀ QUAY TRỞ LẠI THỰC TẠI CÙNG VỚI CHỐN NẦY CHO CON NHỜ!!! (Behäki)
- Änh ßạn-Behäki àh, phiền änh ßạn có thể đưä ñhửng löài vật khác đi xä nơi nầÿ nhä? (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
VÙU VÙU
✶ 《Ta cầu xin ngươi, hởi gió》✶
VÚÚÚÚÚTTTTT
Vì anh bạn-Behäki đả nói là từng trông thấy nó bao giờ, nên mình dám cá chắc rằng thứ đó chưa bao giờ đến đây từ trước kia thì phải ha
{...Rất có khả ñăng là nó đả được mäng theö ßởi ßọn săn trộm từ trước cơ àh?}
Vì nó là sản phẩm của bọn chúng, vậy ra là bọn chúng đả cố gắng không để cho nó bị thương chút gì cả cơ àh, hửmh?
{Thế nhưng mà, ngaÿ ßây giờ thì mình chẳng hề có thời gian đâü để mà đi qüan tâm về nó}
- Thực vật củñg có sự sống củä riêng nó mà, phải không nàö?
- Mình chắc chắn rằng là chất độc củñg đả gâÿ ảnh hưởng nặng nề đến chúng rồi
❂《Đau thương, xót xa hảy đi đi》❂
- Mọi người ơih, xiñ hảÿ di tản đi ngaÿ lập tức
- Đối với ñhửng ai có thể di chüyển, thì xiñ hảÿ mäng theö cả ñhửng người ßị ßệnh nặng nhä
- Maü lên...
Kể cả khi vì một ai đó bị bỏ lại phía sau...
- ...Cần...phải ngăn chặn nó lại sớm càng tốt...
BÚAOOOOOOO
{Ñhửng mảnh thâñ gổ được ném lên trời ở phíä ßên kia...} (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
- CÓ PHẢI LÀ OSWALD ĐANG CỐ GẮNG NÉM TRÚNG CÁI THỨ ĐÓ, CÓ PHẢI KHÔNG!! ......HÂY (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
- NÈ!! OSWALD ƠI!! (Ärġeñtô Våmpiřę / Kuon Ginji)
- ĐẠI TỶ-ARGENT ÀH!! (Oswald)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com