Bài thơ về tiểu đội xe không kính (làm văn)
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
……..
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Dáng đứng Việt Nam- Lê Anh Xuân
Lời thơ thật hào hùng, đó chính là hình ảnh, bức tượng đài bất diệt về người lính. Dù có phải hi sinh, dù khó khăn gian khổ, dù ngày ngày đối diện với mua bom, bão đạn của kẻ thù các anh vẫn hiên ngang tạo nên dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ. Đó cũng chính là hình ảnh người lính trong bài thơ “ Tiểu Đội Xe Không Kính” của Phạm Tiến Duật.
Phạm Tiến Duật( 1941-2007) quê ở tỉnh Phú Thọ. Ông là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ sáng tác năm 1969, trong chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970. Từ hình ảnh những chiếc xe không có kính vì bom đạn chiến tranh vẫn lao nhanh ra trận, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe hiên ngang, bất chấp khó khăn gian nguy bằng giọng điệu ngang tàng, sôi nổi.
Nhan đề của bài thơ “Những chiếc xe không kính” là hình ảnh rất thực, trần trụi, khốc liệt của cuộc chiến; chất thơ vút lên từ trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh của tâm hồn chiến sĩ trẻ hiên ngang.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh khốc liệt của chiến tranh:
“ Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giựt bom rung kính vỡ đi rồi”
Đường Trường Sơn con đường huyết mạch của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh chống lại kẻ thù. Trên con đường này không biết bao nhiêu con người, bom đạn, thuốc men…được đưa vào tiền tuyến miền Nam. Biết được điều đó, Mỹ đã không ngại chi hàng tỉ đô la, thiết lập nên hàng rào phòng chống, tìm diệt những chiếc xe đang mang trên mình sứ mệnh giải phóng dân tộc. Trên tuyến đường khốc liệt đầy nắng và gió, mưa và bụi thì hiện hữu đâu đó còn có tiếng réo gọi của thần chết “mưa bom, bão đạn”. Và như thế hàng tấn bom đạn của kẻ thù đã rải xuống khiến cho những chiếc xe “không còn kính”. Phạm Tiến Duật đã đục đẽo, khắc họa hình ảnh con đường ra trận đầy gian khổ hiểm nguy, ác liệt. Chính “bom giựt, bom rung” đã làm cho những chiếc xe xơ xác, trần trụi. Không ít vết tích của bom đạn đã hằng in trên thân xe “Xe không có mui, thùng xe có xức” hay “xe không có kính rồi xe không có đèn”. Tất cả những hiện thực khốc liệt đã được nhà thơ miêu tả một cách trần trui. Qua đó, nó phản ánh một phần tội ác của kẻ thù đã dùng bom đạn giầy xéo lên mảnh đất tổ cha ông của chúng ta.
Trước sự khốc liệt đó, hình ảnh người lính hiện lên đầy chất oai hùng. Khó khăn là thế, khốc liệt là thế, người lính phải láy xe trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thôn “xe không có kính ừ thì có bụi”, “Mưa tuôn xối xả như ngoài trời” nhưng người lính vẫn:
“ Ung dung buồng láy ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Đến đây, chất anh hùng của người lính lại hiện lên đầy vẻ ngang tàng. Bom à! Gió hả! Mưa thì sao? Tất cả đều không cản được bước tiến của người lính. Đặc biệt tư thế “ung dung” của người lính lái xe trong hoàn cảnh như thế làm ta thêm khâm phục cái chất kiên cường, ngang tàng của anh bộ đội cụ hồ. Đến đây, làm tôi nhớ đến hình ảnh cô gái có bím tóc xoăn, dáng hình mảnh mai, hay mơ mơ mộng, cô gái Hà Nội – Phương Định. Cô ấy, cũng là người lính phá bom trên con đường Trường Sơn. Ngày ngày, họ phải đối diện với tay thần chết lạnh lùng. Nhưng không gì ngăn cản được người lính, tư thế ung dung hiên ngang đi đến để phá bom, không sợ cái chết lại một nữa được khắc họa bởi Lê Minh Khuê. Ung dung buồng lái ta ngồi- câu thơ đặt chúng ta vào cuộc hình trình của người lính. Mặc cho kính vỡ, gió lùa, bom rơi thì anh vẫn hiên ngang đối mặt “nhìn đất, nhìn trời” và “nhìn thẳng”. Đặc biệt từ “ừ thì” càng tô đậm thêm chất lính, chỉ với hai từ “ừ thì” nó bóc toạt cái vẻ kiên cường, tinh thần thép của đời lính chiến.
Đọc đến đây, tôi thấy yêu sao cái nhìn của người lính lái xe, đôi mắt đắng vì xé gió nhưng các anh vẫn không chịu lùi bước dù cho là ngày hay đêm anh vẫn tiến về phía trước với tinh thần lạc quan và yêu đời “nhìn nhau mặt lắm cười ha ha”. Ta cứ tưởng cái khó khăn, thiếu thốn mất mát ấy sẽ lấy mất đi tiếng cười của người lính. Nhưng không từ những cái khó khăn đó lại như thêm tiếp bước, làm động lực, niềm vui cho người lính. Âm điệu giòn giã của tiếng cười “ha ha” xua đi mọi khó khăn gian khổ. Các anh tìm ra trong thiếu thốn niềm vui đầy đủ, niềm vui mà không ai khác ngoài những người lính mới có. Cái cửa kính vỡ ư! Vô tình lại tạo điều kiện cho những cái bắt tay. Khó khăn gian khổ lại tạo điều kiện cho người lính xích lại gần nhau hơn mà điển hình đó là hình ảnh người lính trong bài “Đồng Chí” của Chính Hữu. Tình đồng chí, đồng đội của họ cũng được hình thành trên cơ sở của những khó khăn gian khổ. Sau những phút vượt qua bom đạn của kẻ thù người lính lại quây quần bên nhau, chia sẽ bát cơm hạt gạo “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Sau những cam go của cuộc chiến, người lính lại về với hình ảnh bình di “bát cơm” đôi đũa. Vui vẻ bên người thân, họ cần lắm tình cảm gia đình. Đọc đến đây, khiến chúng ta không khỏi xót xa. Lấy chuyện bát đũa, gia đình phải chăng người lính đáng nhớ đến hình ảnh ấm áp ngày nào cùng nhau dưới gian nhà lung lay nhưng đầy ấp tiếng cười. Có lẽ, mỗi người trong chúng ta cũng chạnh lòng khi điều đó là thật. Vì tiếng gọi của sơn hà xã tắc, quê hương đất nước. Họ mặc kệ ra đi đầu không ngoảnh lại nhưng giếng nước, gốc đa, con đò vẫn luôn dỗi theo trong mỗi trái tim người chiến sĩ.
Nhưng hơn bao giờ hết, lúc này và mãi mãi tình yêu đất nước lại được đặt lên trên, sẵn sàng gạt bỏ tất cả chỉ để:
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Đoạn cuối bài thơ là hình ảnh “trái tim”- biểu tượng cho tình yêu tổ quốc, cho khát vọng chiến đấu bảo vệ độc lập tự do, thống nhất nước nhà của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Tất cả những khó khăn gian khổ kia chẳng là gì so với lòng nhiệt huyết và khát vọng sôi sục của những thanh niên yêu nước. Vì lí tưởng chung tất cả khó khăn đó, chỉ để mài giũa thêm cho họ tinh thần chiến đấu, để chiến thắng tất cả. Hành động tiến lên phía trước là biểu tượng bất diệt cho tình yêu quê hương đất nước. Sẵn sàng sẻ dọc Trường Sơn để đi cứu tổ quốc thân yêu.
Phạm Tiến Duật đã lựa chọn chi tiết độc đáo, có tính chất phát hiện, hình ảnh đậm chất hiện thực. Ngôn ngữ giàu khẩu ngữ, tự nhiên đậm chất lính nhịp điệu thơ sôi nổi; giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, tinh nghịch.
Bằng sự tinh tế của mình, Phạm Tiến Duật đã lựa chọn những chi tiết độc đáo “hình ảnh chiếc xe không kính” để rồi có tính phát hiện, hình ảnh đậm chất hiện thực thể hiện sự khốc liệt trên tuyến Trường Sơn. Mặt khác, với ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ, tự nhiên mang đậm chất lính đã khắc họa thành công người chiến sĩ lái xe đầy quả cảm trên con đường ra trận. Nhịp điệu thơ sôi nổi, giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, tinh nghịch đã làm cho người đọc càng thêm say mê.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com