(15) - END
Tôi không thể chợp mắt được nữa, khi những cơn mưa rào và giông đổ về, cổ tay tôi lại đau buốt. Những dây thần kinh dường như bị kích thích và phản ứng với sự thay đổi của thời tiết. Mẹ vuốt nhẹ tóc tôi trong lúc bác sĩ thay băng cổ tay, tôi thấy trên băng y tế dính một ít máu. Bác sĩ nói tôi bị phù nề và bị bong gân cổ tay, không thể hoạt động tay nhiều trong khoảng ba tuần đến một tháng. Đây quả thật là kỳ nghỉ hè tệ hại nhất trong đời.
Bác sĩ thông báo tình trạng và liệt kê những việc cần làm, không nói điều gì ngoài phạm vi công việc. Cha tôi cũng ở đó, ông ấy không có vẻ lo lắng lắm, vẫn với tư thế khoanh tay và ánh mắt đánh giá tình hình. Khi bác sĩ ra về, anh Heinrich đã gắt lên với cha tôi: "Chết tiệt thật. Sao cha lại làm thế với thằng bé? Nó không phải lính của cha!" Cha tôi chỉ nói: "Đừng nói chuyện bằng cái giọng đó, Heinrich."
"Không cần nghiêm trọng hoá vấn đề đâu. Chẳng qua chỉ là một cuộc thử nghiệm thôi... Một cuộc thử nghiệm dành cho mấy thằng ngu."
Mẹ tôi không quan tâm đến những gì cha tôi nói nữa, bà chỉ nói với tôi: "Khi con ổn hơn, chúng ta sẽ đến Hungary nhé." Tôi thấy anh Heinrich ngơ ngác nhìn mẹ tôi và lại nhìn cha tôi. Còn tôi chỉ nhìn bàn tay mẹ đang nắm lấy tay mình và hỏi nhỏ: "Mẹ định ly dị thật à?"
Mẹ tôi quay đầu nhìn cha tôi một lúc, và bà nói với tôi: "Chỉ là mẹ sợ chúng ta sẽ gặp nguy hiểm thôi." Anh Heinrich vẫn không hiểu gì cả, anh ấy hỏi: "Chuyện gì vậy?"
Cha tôi thản nhiên nói rằng: "Muộn rồi, Julianna. Những sĩ quan OKH và OKW đều đang trong tầm ngắm, em nghĩ họ sẽ để em xuất cảnh hay sẽ ngay lập tức bắt giam phục vụ điều tra?" Mẹ tôi đứng dậy, "Cái gì? Tôi có quốc tịch Hungary!"
"Giới lãnh đạo nghi ngờ chính phủ Horthy có ý định đàm phán với quân Đồng Minh, các lực lượng SS và Wehrmacht đã được điều động tới kiểm soát, phong toả toàn bộ Hungary từ tháng 3. Nhưng dù sao, mọi thứ sẽ sớm sụp đổ. Romania đã đầu hàng, theo phán đoán của tôi, sớm nhất là giữa tháng 9, muộn nhất là tháng 11, quân Liên Xô sẽ tiến vào Hungary."
Mẹ tôi bị sốc, anh Heinrich cũng vậy. Mẹ tôi ngồi sụp xuống trên cái ghế sofa, và bà bắt đầu khóc. Tôi biết mẹ tôi tuyệt vọng như thế nào, vì những người thân của bà vẫn còn ở Hungary. Lúc này, tôi đã cảm nhận một cách chân thực nhất, rằng nước Đức cũng trên bờ vực sụp đổ.
Chưa bao giờ tôi ốm nặng như thế, tôi bị sốt suốt cả tuần trong khi đã được tiêm và uống thuốc. Căn phòng chìm trong ánh sáng mờ nhoè xuyên qua tấm rèm mỏng, tôi cảm thấy như đang trôi dạt. Những vết thương âm ỉ và căng ra mỗi khi cử động nhẹ, tôi chẳng ăn được gì cả, vì mỗi lần có chút gì đó đi vào dạ dày là tôi lập tức nôn thốc. Tôi mơ hồ nhìn cánh tay với cái ống dẫn truyền glucose cắm vào tĩnh mạch, và cái bình thuỷ tinh lơ lửng trên giá y tế cạnh giường.
Tôi bị tỉnh giấc vì nghe thấy một âm thanh chậm rãi, giai điệu trầm lắng len lỏi trong căn phòng im lặng. Đó là chương thứ hai 'Adagio Cantabile' của bản nhạc Pathétique. Tôi nhìn về phía cây đàn và thấy cha tôi ngồi ở đó, ông ấy không mặc quân phục mà chỉ khoác một cái sơ mi trắng, tay áo xắn và cổ áo mở lơi. Tôi nghĩ là do tôi bị bệnh nên sinh ra chứng hoang tưởng. Vì suốt thời thơ ấu cho đến hiện tại, tôi chưa từng thấy cha tôi chơi đàn, như anh Heinrich nói, tôi nghĩ ông ấy không biết chơi đàn.
Nhưng có vẻ là sự thật. Vì kể cả hoang tưởng thì tôi cũng sẽ không tưởng tượng ra một tiếng đàn tầm thường như thế. Tôi gọi nó là mức trung bình, không có gì nổi bật, nhưng không đến nỗi tệ, không hẳn là ông ấy học âm nhạc cổ điển ở mức kém. Từ góc nhìn này, gương mặt ông ấy vẫn không có biểu cảm gì, hơi cúi xuống theo nhịp những ngón tay. Cha tôi chơi đàn như thế khoảng mười phút, rồi ngồi ở đó trong im lặng.
Tôi nghe thấy ông ấy lẩm bẩm một mình: "Cuối cùng thì danh dự hay cốt cách cũng chỉ đến thế. Lãng xẹt thật đấy, anh bạn."
Tôi vội vàng nhắm mắt lại và giả vờ ngủ khi thấy cha tôi đứng dậy. Tiếng đế giày tiến lại gần giường ngủ làm tôi không dám nhúc nhích. Mọi thứ lại im lặng, tôi tự hỏi ông ấy đứng im lặng trước giường tôi lâu như thế làm gì. Rồi bước chân xa dần, cho đến khi tiếng cánh cửa phòng đóng lại, tôi mở mắt và cảm thấy mọi chuyện như một giấc mơ.
...
Giống như cha tôi dự đoán, quân Liên Xô đã tiến vào Hungary qua lãnh thổ Romania vào tháng 10 năm 1944. Cũng ở thời điểm đó, Liên Xô đã chiếm lại hoàn toàn Ukraina, trước đó là Belarus. Hướng Tây, quân Đồng Minh đã kiểm soát Pháp, Bỉ và Hà Lan. Có mấy đứa con trai của các sĩ quan Wehrmacht trong lớp tôi đã nói chuyện với nhau, bắt đầu có những câu hỏi kiểu như, liệu quân Đồng Minh có tiến vào lãnh thổ Đế chế không?
Thống chế Rommel qua đời vào tháng 10, do vết thương từ cuộc chiến. Đó là lần hiếm hoi khác mà anh Heinrich khóc một cách nức nở như thế. Dù sao, đó là vị tướng mà anh tôn sùng nhất trong quân đội Đế chế. Anh ấy nói với mẹ tôi rằng, anh thậm chí chưa có cơ hội được gặp gỡ trực tiếp và nói chuyện với ông ấy một lần.
Những ngày cuối năm 1944, cha tôi thường đi lại chậm rãi trong phòng khách, trước tấm cửa vòm bằng kính nhìn ra vườn. Tôi không gặp lại Stepan, tôi biết cậu ấy an toàn, thế là đủ. Anh Heinrich nói sẽ mang cậu ấy đến đây cho tôi, nhưng tôi không muốn gây thêm bất cứ rắc rối nào nữa, nhất là đối với anh.
Một đêm đông tuyết mù mịt, cuối tháng mười hai, cha tôi không về nhà còn mẹ tôi thì đã đi ngủ sớm vì đau đầu. Anh Heinrich đã nói với tôi rằng sẽ ra ngoài một lúc. Tôi ở trước lò sưởi, cuộn tròn trên sofa, khi nghe thấy tiếng cửa mở và tiếng gió rít qua khe cửa vào trong nhà, tôi ngoảnh đầu lại và nhìn Heinrich, tuyết phủ trắng vai áo khoác của anh. Rồi anh cười với tôi: "Xem anh có gì cho em này."
Tôi kêu lên phấn khích khi anh ấy kéo Stepan từ sau lưng ra và đẩy về phía tôi. Mặt cậu ấy tái mét và run rẩy. Cậu ấy nhìn tôi và lại quay đầu nhìn anh Heinrich. Anh tôi hỏi: "106, đúng không? Nó không sõi tiếng Đức. Làm thế nào mà em nói chuyện với nó vậy?"
"Bọn em nói tiếng Anh." Tôi trả lời.
Tôi nói với Stepan rằng: "Tớ xin lỗi, vì chuyện hôm đó." Cậu ấy không trả lời, chỉ khẽ lắc đầu một cái, môi mím chặt, tôi tưởng cậu ấy đang tức giận tôi, nhưng khi nhìn anh Heinrich, tôi chợt hiểu và nói: "Không sao, đó là anh trai tớ. Anh ấy nói sẽ đưa cậu đến gặp tớ. Cha tớ sẽ không về nhà đâu."
Cậu ấy nói với tôi rằng: "Tớ không trách cậu, Armin."
Anh Heinrich nói với tôi: "Anh đã nói với bọn lính canh rằng sẽ chọn một đứa Ostvolk và tặng cho người khác. Kể cả nó không quay lại đó thì cũng không ai nghi ngờ đâu. Bây giờ em có thể để nó ở đây." Tôi hỏi: "Nhưng làm thế nào...?" Anh ấy cười: "Ngày mai anh sẽ nói chuyện với cha vụ này. Nhưng với điều kiện, nó không được ra khỏi căn nhà. Giờ thì hãy nói rằng anh là anh trai tuyệt vời nhất trên đời." Tôi ôm chặt lấy thắt lưng của anh và cười trong hạnh phúc: "Anh là anh trai tuyệt vời nhất trên đời."
Rồi cha tôi đồng ý chuyện này. Không có bất cứ cuộc tranh luận nào, trong khi Heinrich đã chuẩn bị một bài diễn thuyết từ trước. Anh ấy có vẻ khá thất vọng. Cha tôi chỉ nói: "Sao cũng được." Dạo này, ông ấy bận đến mức gần như không rảnh để nhìn mặt chúng tôi.
Chúng tôi đã cùng nhau trải qua mùa đông, cùng nhìn tuyết rơi qua cửa sổ và so sánh tuyết ở Đức lạnh hơn hay tuyết Viễn Đông lạnh hơn. Tôi cũng nghĩ tuyết Viễn Đông lạnh hơn, cô Krause từng nói quân Napoleon đã phải rút lui vì lạnh khi tiến vào Moskau.
Tháng 2 năm 1945, Budapest thất thủ. Mỗi ngày, mẹ tôi ngồi lặng bên cửa sổ hàng giờ đồng hồ, rồi bà lại gục xuống và khóc. Mẹ tôi không thể liên lạc được với gia đình ở Hungary. Bà luôn cầm mặt dây chuyền thập tự và lẩm bẩm một mình: "Xin Chúa, hãy cứu lấy chúng con."
Một buổi tối cuối tháng 3, cha tôi đứng bên lò sưởi và trầm tư. Tôi ngồi cạnh mẹ trên ghế sofa, tôi nghe thấy bà hỏi cha tôi rằng: "Chúng ta có thể đến Thuỵ Sĩ? Chúng ta sẽ liên lạc trước với cha mẹ của anh." Ông bà tôi là những quý tộc cũ bảo thủ. Sau Thế chiến thứ nhất, vương triều của nhà Hohenzoller sụp đổ ở Đức, nhà Habsburg sụp đổ ở Áo - Hung, thời Cộng hoà cũng chấm dứt vào năm 1933. Khi bắt đầu thời kỳ Quốc Xã, họ đã chuyển đến Thuỵ Sĩ vì không chịu được việc trật tự cũ bị phá hủy trên mảnh đất của mình. Cha tôi thì lại là người giữ một tư tưởng bảo thủ khác rằng người Đức thì phải được chôn ở Đức. Dù sao quan hệ giữa cha tôi và ông tôi cũng khá tệ.
"Thư từ và các cuộc gọi luôn bị kiểm soát nghiêm ngặt." Cha tôi nói.
Tình hình ngày càng hỗn loạn. Nhưng tôi biết Stepan và Paula chính là những người vui mừng nhất lúc này. Ngày mà họ trở về nhà đang gần đến. Thời điểm quân Liên Xô tiến vào Đông Phổ, cũng là lúc diễn ra hàng loạt các cuộc tháo chạy, radio của cha tôi đưa những bản tin mật rằng nhiều sĩ quan SS hoặc Wehrmacht tháo chạy, cố gắng đầu hàng quân Mỹ - Anh ở hướng Tây hoặc trốn sang Argentina, Chile. Mẹ tôi bắt đầu cãi vã với cha tôi về việc phải tẩu thoát trước khi quá muộn. Bà lo lắng cho anh Heinrich, anh là học viên Trường Sĩ quan Chính trị, có thể sẽ bị đẩy ra chiến trường.
Trường học thông báo đóng cửa, yêu cầu các học sinh cả nội trú và bán trú phải về nhà. Mọi người ráo riết di tản ra các vùng ngoại ô hoặc chạy ra nước ngoài. Cô Krause nói rằng sẽ trở về quê nhà ở ngoại ô Sachsen và chúc tôi bình an. Tôi đến phòng học âm nhạc cổ điển vào ngày cuối cùng trước khi Aureum Gymnasium đóng cửa. Thầy Vogel vẫn ngồi trong phòng, ở vị trí quen thuộc của thầy, làm tôi có cảm giác thầy chưa bao giờ rời khỏi căn phòng đó.
"Thưa thầy, khi nào thì thầy sẽ di tản ạ?"
Thầy Vogel nhìn tôi, không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ đưa cho tôi một bản nhạc và bảo tôi hãy chơi bản Sonata số 16 cung Đô trưởng, K.545 của Mozart. Tôi không thường chơi bản nhạc này vì nó quá dễ. Tôi không hỏi gì thêm, chỉ ngồi xuống cây đàn và đặt tay lên phím trắng. Chỉ có tiếng dương cầm, lặng lẽ, yên ả, trái ngược với thế giới ngoài kia.
Khi chơi xong bản nhạc, tôi nhìn thầy Vogel. Thầy mỉm cười và đặt một tay lên phím đàn, giọng nói của thầy trầm ấm: "Năm 1914, đêm trước Lễ Giáng Sinh, chúng tôi đang ở mặt trận phía Tây, phía bên kia là quân Anh, có cả một số quân Pháp và Bỉ. Chúng tôi băng qua chiến hào, dò dẫm trong đêm để thu thập thi thể đồng đội..."
"Rồi chúng tôi ngồi lại với nhau, cả phe Liên Minh và phe Hiệp Ước, binh sĩ và sĩ quan, chúng tôi cùng tổ chức Lễ Giáng Sinh. Chúng tôi có xúc xích với giăm bông, người Anh mang sô cô la và trà. Mọi người trao đổi cho nhau, kí vào những tấm thiệp chúc mừng. Tôi nhớ lúc đó phe Hiệp Ước có một anh bạn người Scotland nào đó chơi đàn accordion, bản Sonata số 16 cung Đô trưởng."
Thầy vẫn kể bằng giọng điệu nhẹ nhàng, nhưng mắt thầy thì đã hơi đỏ lên: "Ngày hôm sau, cuộc chiến lại tiếp tục. Chúng tôi bắn về phía nhau trong khi đêm trước còn là những người bạn... Chiến tranh khốc liệt như thế đấy."
Thầy Vogel nói với tôi rằng thầy sẽ không di tản mà sẽ ở lại đây. Tôi vẫn nhớ thầy nói rằng: "Bây giờ, tôi đã không còn sợ tiếng bom rơi nữa. Rồi sau khi tiếng bom biến mất, âm nhạc sẽ lại cất lên." Trước khi tôi ra về, thầy nói với tôi: "Chúc bình an, Armin."
"Chúc bình an, thầy Vogel."
Cuối tháng 4, Mussolini bị xử tử, Vương quốc Ý là cột mốc tiếp theo sụp đổ trên bản đồ phe Trục. Quân Liên Xô tiến về hướng Berlin như những cơn sóng, tôi biết hồi kết đã đến gần. Những đợt bom rung chuyển cả nước Đức. Các binh sĩ làm làm việc trong khuôn viên nhà tôi tháo chạy, viên quản sự cũng vậy, lần cuối tôi thấy hắn là khi hắn cởi bỏ đồ lính, xách túi đồ và chạy trong đêm mưa.
Mẹ tôi bảo với những người Ostvolk rằng sẽ không ai ngăn cản họ chạy khỏi đây. Họ hoài nghi, họ vui mừng, nhưng rồi cũng không biết mình sẽ đi đâu. Chị Paula nói với mẹ tôi rằng: "Bây giờ chúng tôi sẽ chạy về hướng Đông." Mẹ tôi buồn bã đứng đó, nói rằng họ có thể lấy đồ hộp hay bánh mì trong kho mang theo. Lúc ấy, cha tôi đã lái xe về nhà từ Bộ Tổng tư lệnh. Những người Ostvolk sợ hãi khi thấy cha tôi, họ đứng sát vào một chỗ với nhau, có lẽ họ sợ rằng cha tôi sẽ bắn họ.
Cha tôi chỉ nói với Paula rằng: "Đừng chạy về hướng trung tâm Berlin. Quân SS đang kháng cự quyết liệt với quân Liên Xô. Hãy chạy đến trại Großbeeren, SS đã rút khỏi đó sau khi Otto Schwarz tẩu thoát. Trong khoảng vài ngày nữa, quân Liên Xô có thể sẽ đến đó." Ông ấy đưa cho chị Paula một bản đồ, tôi nhìn qua, ở đó đánh dấu các tuyến đường có quân SS và ghi chú những tuyến đường có thể đi." Chị Paula chần trừ trước khi nhận lấy nó, và chị ấy vẫn nhìn cha tôi một cách cảnh giác. Anh Heinrich thẫn thờ bước xuống từ ô tô, anh ấy tiến lại gần và nói: "Đưa cho họ mấy chiếc xe đó đi."
"Chúc may mắn, bà von Hartenfels. Tạm biệt, Armin." Chị Paula nhìn mẹ tôi và tôi một lần, rồi vội vàng đi theo những người khác về phía nhà để xe. Tôi kéo Stepan ra xa, lén ấn mặt dây chuyền ngôi sao David vào lòng bàn tay cậu ấy. Cậu ấy nhanh chóng nhét vào túi áo ngực và nói với tôi: "Đưa cuốn sổ của cậu cho tớ." Tôi không hiểu, nhưng vẫn đưa nó cho cậu ấy.
Stepan rút cây bút ra và ngồi xuống viết. Tôi thấy cậu ấy lật trang cuối và viết bằng tiếng Anh: 'Stepan Vladimirovich Kozachenko, 14 tuổi, lao động cưỡng bức người Liên Xô. Cha tôi là kĩ sư cơ khí Petro Kozachenko, mẹ tôi Sara Ranevskaya, là người dân tộc Do Thái, chị gái tôi là liệt sĩ Mira Kozachenko, chiến đấu trong Lực lượng Du kích Ukraina và hi sinh ở Galicia, anh trai tôi Kazimir Kozachenko, là lính bắn tỉa của Hồng quân. Nhà tôi ở Số 11 phố Valova, căn hộ số 3 gần nhà thờ Bernardine, thành phố Lviv, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina. Bạn của Armin Wilhelm von Hartenfels." Cậu ấy còn viết thêm một đoạn mà tôi nhìn không hiểu, có lẽ vẫn là đoạn bên trên nhưng bằng tiếng Nga.
"Nếu cậu gặp quân Đồng Minh, hãy đưa cho họ đọc. Cậu đã bảo vệ tớ, bây giờ tớ bảo vệ cậu." Cậu ấy nhìn tôi một lúc, rồi vội vàng chạy theo những người Ostvolk. Tôi đứng đó, nhìn theo cho đến khi cậu ấy leo lên chiếc xe bán tải và khuất dần sau rặng cây dẻ gai, những giọt nước mắt lăn dài.
"Đó sẽ là cơ hội cứu sống chúng ta." Cha tôi nhìn theo họ và nói. "Chúng ta sẽ đi về phía quân Anh, ngay bây giờ."
"Con sẽ không làm lính đào ngũ! Bây giờ con sẽ quay lại Kriegsschulen và chiến đấu!" Anh Heinrich nói. Cha tôi ngay lập tức tát anh ấy một cái, "Đừng có ngu ngốc nữa. Những đứa ở Napola và Kriegsschulen bị đẩy ra tuyến đầu rồi cũng chết thôi."
"Con không sợ chết. Chính cha đã dạy con phải sống với tư cách một người lính Phổ. Chứ không phải bỏ chạy hèn hạ như thế." Anh ấy tỏ ra gay gắt, còn mẹ tôi chỉ biết khóc. Cha tôi im lặng. Khi anh định quay lưng ra khỏi cửa, cha tôi hỏi: "Heinrich, con chiến đấu vì Phổ hay vì Đảng Quốc Xã? Con nghĩ rằng Rommel thực sự chết vì vết thương sao?"
Anh tôi sững lại, cha tôi đến trước mặt anh và nói với anh: "Chủ mưu vụ ám sát bị xử bắn ngày 20 tháng 7 chính là Đại tá von Stauffenberg, anh ấy không chịu được chính sách độc đoán đi ngược lại với văn hóa Phổ. Giết những kẻ không có sức phản kháng là sự sỉ nhục đối với các nguyên tắc và tinh thần quân sự Phổ, đó là điều bọn SS làm. Các sĩ quan dự định sẽ dựng chính quyền mới và thoả hiệp với Đồng Minh để cứu vãn nước Đức."
Anh Heinrich lùi lại và lắc đầu, mắt anh trợn trừng: "Không..."
"Rommel bị buộc phải tự sát, cũng liên quan đến một cuộc đảo chính. Ông ta không trực tiếp tham gia, nhưng đám SS ghét ông ta. Chúng đã thuyết phục được lãnh tụ. Hitler đã ra một mật lệnh yêu cầu ông ta tự sát để gia đình không bị liên luỵ. Đó là chính quyền mà con muốn phục vụ, một chính quyền không có chỗ cho những quân nhân thuần tuý."
Anh Heinrich ngã quỵ trên sàn và gào lên, tuyệt vọng, sụp đổ khi mà lý tưởng của anh tan vỡ. Cha tôi ngồi xuống, ôm anh vào lòng và nói với anh rằng: "Chúng ta sẽ đầu hàng quân Anh. Sẽ ổn thôi. Con là một người xuất sắc, rồi con sẽ trở thành một sĩ quan, phục vụ một nước Đức khác. Khi quân Anh thẩm vấn, con hãy thành thật và khai báo lý lịch rõ ràng, con là học viên Kaiserliche Kriegsschule, không liên quan đến SS, không tham gia bất cứ tội ác diệt chủng nào, chưa từng tham chiến, và con phụng sự dân tộc Đức ở bất cứ hình thái nào."
Anh trai tôi khóc nức nở như một đứa trẻ, và anh ấy gật đầu. Cha tôi xoa đầu anh và nói: "Giỏi lắm, con trai."
Ông ấy như nhớ ra gì đó, vội vàng lên phòng làm việc. Tôi cũng đi lên phòng của mình trong lúc cha mẹ tôi chuẩn bị, tôi chỉ lấy cái đồng hồ và mặt dây chuyền trong hộp nhạc rồi bỏ vào túi. Sau đó ngồi nhìn cây đàn dương cầm mãi, rồi tôi gục xuống khóc trên phím đàn. Cha tôi bước vào phòng tôi, đưa cho tôi hai tờ giấy và nói: "Khi quân Anh hỏi lý lịch, hãy đưa cái này cho họ." Ông ấy thở dài: "Đôi khi là một việc tốt." Tôi cầm lấy, đó chính là văn bản đình chỉ học vì vi phạm kỉ luật Đoàn Thanh Niên của tôi. Và văn bản xin nghỉ các buổi huấn luyện vì vấn đề sức khỏe.
Cha tôi đẩy cái nắp đàn dương cầm lên. Một tiếng kêu khô khốc, trầm và ngắn của bản lề gỗ, rồi nắp đàn từ từ hé mở, để lộ ra những sợi dây kim loại xếp thẳng tắp. Trong ánh mắt ngơ ngác của tôi, cha tôi đưa tay chạm vào từng dây đàn và im lặng, ánh mắt đầy tâm trạng. Sau đó ông ấy đóng lại nắp đàn và đi xuống nhà.
Chúng tôi lái xe tiến thẳng về hướng Tây, cha tôi cầm cái bản đồ trên tay trái, tay phải trên vô lăng. Chúng tôi đã di chuyển không ngừng nghỉ trong suốt hai ngày, chỉ dừng lại khoảng 10 đến 15 phút để xem bản đồ hoặc đổi hướng vì tuyến đường bị hư hại do bom. Tôi ngủ gục trong xe ô tô, cho đến khi mẹ gọi tôi dậy và nói: "Trạm gác của quân Anh ở phía trước."
Cha tôi không che giấu thân phận sĩ quan Wehrmacht của mình trước quân Anh. Những người lính Anh hướng nòng súng và bảo chúng tôi giơ tay lên, khi chắc chắn chúng tôi không mang theo vũ khí, họ đã để chúng tôi vào trong. Mọi chuyện có vẻ dễ dàng hơn vì ba trong số bốn người chúng tôi biết tiếng Anh. Người Anh thẩm vấn khá kĩ, cha tôi trả lời tất cả những câu hỏi của họ mà không che giấu điều gì. Họ cũng đã hỏi chuyện tôi, trong lúc những người khác lục soát đồ đạc trong người tôi.
Khi họ hỏi về việc có tham gia chế độ sử dụng lao động cưỡng bức hay không, tôi nói có. Nhưng tôi nói rằng, tôi không bao giờ bạo lực với những người đó và đã cố gắng giúp đỡ, tôi có một người bạn trong số đó là người Do Thái. Một binh sĩ người Anh đã tát vào mặt tôi hai cái, khiến tôi lảo đảo và ngã xuống đất, "Đừng có nói dối với tao, thằng phát xít nhỏ!" Mẹ tôi chỉ có thể hét lên bằng tiếng Đức: "Đừng đánh thằng bé!" Binh sĩ Anh đó tức giận và xách cổ áo tôi lên, nhưng một người lính khác đang kiểm tra giấy tờ và đồ đạc của chúng tôi đã nói: "Khoan đã, Kevin. Có vẻ thằng bé không nói dối."
"Đây, nhìn cái này đi." Người lính Anh đứng dậy khỏi bàn, mở cuốn sổ ghi chép của tôi ra và đưa cho binh sĩ tên Kevin. Họ xem xét kĩ lưỡng và hỏi tôi rằng: "Cháu nói cậu bé là người Do Thái?" Tôi trả lời: "Cháu không rõ lắm. Cậu ấy nói cha cậu ấy là người Cossack và mẹ là người Do Thái, cậu ấy còn có một ngôi sao David, cậu ấy mang theo trong lúc chạy đến phía quân Liên Xô. Trang cuối có thông tin cá nhân của cậu ấy."
"Người phụ nữ này là ai?" Người lính Anh chỉ tay vào bức ảnh mà tôi chụp mẹ tôi và chị Paula. Tôi nhìn và nói: "Chị ấy tên là Paula, một lao động người Ba Lan." Tôi quay lại nhìn mẹ tôi, vì bà không hiểu tiếng Anh nên vẻ mặt bà vẫn vô cùng hoảng sợ. Còn cha tôi thì nhìn tôi với ánh mắt đầy ngạc nhiên.
Sau đó họ tiếp tục thẩm vấn cha và anh trai tôi. Cha tôi chỉ vào một tập hồ sơ mà họ chưa mở ra kiểm tra, ông ấy nói: "Trong đó là thông tin cá nhân của con cái những sĩ quan bị xử tử sau cuộc ám sát Hitler, tháng 7 năm 1944. Tôi đã bí mật lưu giữ trước đó, chúng bị tước đoạt danh tính và đưa vào trại cải tạo, rất khó để xác định và trả lại danh tính sau chiến tranh. Nhưng không phải tất cả, tôi chỉ lưu giữ được thông tin liên quan đến các sĩ quan OKH, chỉ có một số của OKW." Người Anh nói rằng sẽ bàn giao hồ sơ lại cho lãnh đạo lực lượng Đồng Minh sau khi tiếp quản Berlin.
Những binh sĩ Anh tỏ ra nhẹ nhàng hơn với chúng tôi. Họ nói sẽ đưa tôi sang một phòng khác để chờ. Người lính Anh tát vào mặt tôi khi nãy đã đi lấy cho tôi một túi chườm đá. Khoảng một giờ đồng hồ sau, họ cho tôi gặp cha mẹ và anh trai. Mẹ tôi ôm chầm lấy tôi và nói: "Con giỏi lắm, con trai. Họ nói sẽ liên lạc với phía bên kia."
Cha tôi im lặng một lúc rồi đi đến trước mặt tôi, ông ấy cúi xuống, ôm tôi vào lòng và hôn vào trán tôi. Đó là lần đầu tiên ông ấy làm như vậy với tôi, kể từ khi mà tôi bắt đầu có nhận thức về cuộc đời.
Ông ấy chỉ nói với tôi rằng: "Armin, cha xin lỗi. Vì tất cả mọi chuyện."
Ở trong khu vực quản lý của người Anh, tôi đã nghe được tin Hitler tự sát ngày 30 tháng 4, trong căn hầm làm việc ở Berlin. Quân SS vẫn chống cự tới những phút cuối. Tháng 5, Đức ký văn bản đầu hàng vô điều kiện, Đế chế hoàn toàn sụp đổ. Vì phương tiện liên lạc khó khăn, phải đến hai tháng sau, người Anh mới hoàn tất liên lạc và xác nhận thông tin với phía Liên Xô. Những người Ostvolk đó đã đến được trại tập trung và chờ quân Liên Xô vào giải phóng, họ đã làm chứng lời khai của chúng tôi. Trong khoảng thời gian đó, tôi vẫn cùng mẹ ở trong trại của người Anh.
Tôi và mẹ trở về Berlin vào tháng 7. Chúng tôi ở trong một khu vực tập trung của dân thường Đức, sống bằng viện trợ lương thực của quân Đồng Minh trước khi những giấy tờ sở hữu nhà được Toà án Amtsgericht phê duyệt. Phải đến giữa năm 1946, họ mới hoàn tất xác minh tài sản thuộc sở hữu cá nhân từ thời Phổ và không bị trưng dụng bởi Hội đồng Kiểm soát Đồng Minh, chúng tôi mới có thể về nhà. Nhưng mất quyền sở hữu một số tài sản nhà đất khác ở Potsdam.
Anh trai tôi bị đưa vào một trại cải tạo của quân Đồng Minh trong gần một năm và được thả vì không ghi nhận tội ác chiến tranh. Anh sống trong tình trạng u uất, quân đội Đức đã bị giải thể, nhiều bạn học cũ ở Kriegsschule của anh đã chết trong trận Berlin vì bị đưa ra tuyến đầu. Anh chỉ có thể giết thời gian trong trang trại với đàn cừu, hàng ngày vác cái xẻng, tìm cách trồng cây lại trên mảnh đất khô cằn của chúng tôi. Cha tôi bị giam giữ ở Anh bốn năm, vì phục vụ trong Lục quân Đức Quốc Xã và tham gia chế độ sử dụng lao động cưỡng bức.
Tôi đã đọc một tờ báo về Toà án Nuremberg. Hàng loạt sĩ quan và binh sĩ SS bị xử tử, Otto Schwarz bị treo cổ vào tháng 12, bởi những tội ác kinh hoàng mà ông ta gây ra. Một số khác chạy thoát sang Argentina, nhưng một số bị các đặc vụ ám sát hay bắt cóc đưa về nước và xử tử. Trên báo, người ta vinh danh những người như Đại tá von Stauffenberg, Thống chế Rommel, hay Thống chế von Witzleben là những người Đức quả cảm, họ chụp Anselm von Stauffenberg với bức ảnh của cha anh. Anh không khóc, chỉ nói với một nụ cười: "Cha tôi đã sống và chiến đấu như một người lính Phổ chân chính."
Cha tôi trở về vào năm mà chính phủ mới ở Tây Đức được thành lập, năm 1949, khi ấy ông chỉ mới bước sang tuổi bốn mươi hai. Ông được quân đội Anh thuộc Lực lượng Đồng Minh tuyển dụng với kinh nghiệm về các chiến thuật chiến tranh đô thị và hậu cần quân sự. Ông ấy gọi đó là trò hề. Dù vậy, ông cũng nói rằng đó là điều may mắn, với tư cách sĩ quan phụ trách các vấn đề mặt trận miền Đông, nếu bị Liên Xô bắt được thì ông ấy xong đời. Cha tôi đã kịp chuyển một nửa tài sản sang Thuỵ Sĩ năm 1944, đứng tên bởi bà tôi và vẫn để ở đó ngay cả khi ông ấy về Đức. Cha tôi nói bằng giọng vui mừng rằng nếu ở Đông Đức thì chúng tôi đã bị tịch thu và quốc hữu hoá toàn bộ tài sản. Ông ấy vẫn luôn như thế, một kẻ thực dụng theo chủ nghĩa vị kỷ.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, bức tường Berlin chia cắt nước Đức. Mâu thuẫn Đông - Tây giữa hai trục Yalta do Mỹ và Liên Xô đứng đầu mỗi trục trong trạng thái căng thẳng. Cha tôi coi đó là một sự trừng phạt, ông ấy chưa bao giờ nguôi nỗi đau nước Đức bị xé làm đôi. Tôi chẳng bao giờ tìm được thông tin về Stepan hay Paula nữa. Thư cũng không được hồi đáp, có lẽ do kiểm soát khắt khe của Liên Xô ở Đông Âu.
Cha tôi bảo Heinrich đăng ký vào lực lượng Cảnh sát Polizei. Trong nỗi chán nản và thất vọng vì hiện thực, anh ấy làm theo. Rồi anh ấy cũng gọi đây là một trò hề. Khi Lực lượng Biên phòng BGS thành lập năm 1951, anh ấy ngay lập tức nộp đơn và công tác trong lực lượng này do không chịu nổi việc làm trong Polizei.
Sau năm 1955, Lực lượng Vũ trang Cộng hoà Liên bang Đức Bundeswehr được thành lập, ngày mà anh tôi chờ đợi, ngày mà anh trở thành sĩ quan Lục quân cuối cùng cũng đến. Còn cha tôi tiếp tục phục vụ quân đội Cộng hòa Liên bang Đức mười bảy năm, cho tới khi ông nghỉ hưu vào năm 1972 với hàm Chuẩn tướng Tham mưu.
....
Năm 1989, bức tường Berlin chia cắt Đông Đức, Tây Đức sụp đổ, chiến tranh lạnh sắp kết thúc và căng thẳng Đông Tây gần như sắp chấm dứt, tôi có một buổi biểu diễn tại Berlin Konzerthaus, trong một đại nhạc hội mừng nước Đức thống nhất. Sau buổi biểu diễn, khi tôi định trở về khách sạn, thư ký đã nói với tôi rằng: "Có một nhà văn Đông Âu muốn gặp mặt, ông ấy nói rằng có hẹn với ngài."
Tôi ngạc nhiên và không nhớ được mình có cuộc hẹn nào. Tôi hỏi: "Ông ấy có nói tên không?"
"Ở đây có danh thiếp." Thư ký đưa cho tôi. Khi tôi mở ra, tờ danh thiếp không ghi gì cả, chỉ có duy nhất một dòng chữ nổi.
'Kozachenko'
Những ký ức đã mờ nhoè bởi năm tháng bỗng ùa về. Nó như đưa tôi trở lại thời thơ ấu, dưới gốc cây sơn trà, một buổi chiều thu năm 1943.
———END———
Do muốn kết ở chương 15 nên nó dài vcl. Gõ muốn rời tay. Có thể đây là bộ cuối mà toi viết, vì giờ toi cũng không còn cảm hứng sau khi đã viết qua nhiều bối cảnh mà mình thích. Hơn nữa cũng áp lực vì sợ văn phong đã xuống dốc. Hôm đăng chương đầu méo ai vote toi hoảng gần chet, tưởng mình viết tệ đến thế cơ. Vì thế cảm ơn mọi người đã đến đây nha.
[Tại đây có đăng tải GIF hoặc video. Hãy cập nhật ứng dụng ngay bây giờ để hiển thị.]
Nổi dậy tháng Bảy - Claus von Stauffenberg.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com